intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Văn học: Tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI từ góc nhìn thể loại

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:180

38
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của Luận án là nghiên cứu tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI từ đặc trưng thể loại; khảo sát các sáng tác nổi bật trong hai mươi năm đầu thế kỷ XXI nhằm khẳng định sức sống và sự sinh tồn của thể loại tản văn trong bối cảnh đương đại. Từ đó, luận án có cái nhìn đầy đủ và bao quát về đóng góp của thể loại tản văn đối với nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Văn học: Tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI từ góc nhìn thể loại

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN TẢN VĂN VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XXI TỪ GÓC NHÌN THỂ LOẠI LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC HÀ NỘI – 2020
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN TẢN VĂN VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XXI TỪ GÓC NHÌN THỂ LOẠI Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 9 22 01 21 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Nguyễn Thị Bích Thu 2. PGS.TS Lê Trà My HÀ NỘI – 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận án là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận án đảm bảo tính chính xác, nghiêm túc, tin cậy và trung thực. Tác giả luận án Nguyễn Thị Thanh Huyền
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU .............................................................. 7 1.1. Quan niệm về tản văn hiện đại ......................................................................... 7 1.1.1. Vấn đề thuật ngữ và bản chất thể loại tản văn ....................................... 7 1.1.2. Tản văn là một thể loại của văn xuôi hiện đại Việt Nam ..................... 12 1.1.3. Diễn trình tản văn hiện đại Việt Nam ................................................. 18 1.2. Tình hình nghiên cứu ....................................................................................... 25 1.2.1 Các công trình nghiên cứu lý thuyết tản văn......................................... 25 1.2.2 Các công trình nghiên cứu tác giả, sáng tác tản văn Việt Nam hiện đại ..... 33 Chương 2: TẢN VĂN VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XXI TRONG DÒNG CHẢY TẢN VĂN HIỆN ĐẠI ................................................................................ 40 2.1 Sự nở rộ của tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI ............................................ 40 2.1.1 Môi trường sinh thái văn hóa – tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ của tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI ........................................................... 40 2.1.2 Sự thích ứng của tản văn trong môi trường sinh thái văn hóa đầu thế kỷ XXI ............................................................................................................ 42 2.1.3 Tản văn mạng- bộ phận không tách rời của tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI ............................................................................................................ 45 2.2 Diện mạo chung của tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI ............................... 47 2.2.1 Đội ngũ sáng tác .................................................................................... 47 2.2.2 Số lượng sáng tác .................................................................................. 49 2.2.3 Một số cây bút tiêu biểu ........................................................................ 51 2.3 Sự kế thừa và cách tân của tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI .................... 70 2.3.1 Sự kế thừa .............................................................................................. 70 2.3.2 Những cách tân ...................................................................................... 73 Chương 3: HỆ CHỦ ĐỀ TRONG TẢN VĂN VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XXI ... 79 3.1 Tản văn về cảnh sắc vùng miền ....................................................................... 79 3.1.1 Cảnh sắc chốn làng quê ......................................................................... 79
  5. 3.1.2 Cảnh sắc nơi thành thị ........................................................................... 85 3.2 Tản văn về văn hóa, phong tục ........................................................................ 90 3.2.1 Phong tục, truyền thống ........................................................................ 90 3.2.2 Văn hóa tâm linh, tín ngưỡng ................................................................ 94 3.2.3 Tập tục, sinh hoạt .................................................................................. 96 3.3 Tản văn thế sự ................................................................................................. 101 3.3.1 Văn hóa ứng xử ................................................................................... 101 3.3.2 Các vấn đề cập nhật của đời sống đương đại ...................................... 105 3.4 Tản văn chân dung .......................................................................................... 109 3.4.1 Chân dung nghệ sĩ, danh nhân ............................................................ 109 3.4.2 Chân dung “những người sống quanh ta” ........................................... 113 Chương 4: NGUYÊN TẮC GIAO TIẾP VÀ PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN CỦA TẢN VĂN VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XXI ............................................. 119 4.1 Nguyên tắc giao tiếp ........................................................................................ 119 4.1.1 Nguyên tắc đối thoại những vấn đề của đời sống ............................... 119 4.1.2 Chiến lược khơi gợi ............................................................................. 127 4.2 Phương thức thể hiện ...................................................................................... 133 4.2.1 Đa dạng hóa ngôn ngữ ........................................................................ 133 4.2.2 Đa dạng hóa giọng điệu....................................................................... 142 4.2.3 Đa dạng hóa phương thức thể hiện ..................................................... 148 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 158 DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐƯỢC CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................................ 161 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 162
  6. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI, tản văn Việt Nam là thể loại “bùng nổ” ở nhiều phương diện. Nhìn vào thực tế thị trường phát hành sách, lượng tiêu thụ của độc giả, sự phát triển đa dạng ở lực lượng sáng tác, sự thu hút giới nghiên cứu phê bình … có thể nói tản văn đã và đang phát triển dồi dào, phong phú. Sự phát triển đó đã và đang tích cực góp phần làm nên diện mạo mới của văn học Việt Nam hiện đại. Trong bối cảnh truyền thông phát triển, tản văn được đại đa số người đọc ưa thích, thỏa mãn nhu cầu đọc trong điều kiện quỹ thời gian hạn hẹp. Độc giả chọn tản văn bởi đó là thể loại văn học có dung lượng ngắn, cấu tứ độc đáo, thể hiện sắc nét cá tính người viết, nội dung tác phẩm thường bắt đầu từ sự giản dị đời thường để dẫn tới tiếp cận trực diện các vấn đề của đời sống xã hội. Sự “bùng nổ” của thể tản văn không chỉ thể hiện qua những cảm quan chung về người đọc và người viết, hiện tượng này được định lượng thuyết phục hơn qua những con số được chia sẻ của các đơn vị xuất bản sách (nhà xuất bản Trẻ, Phụ nữ, Văn học, Nhã Nam, Quảng Văn, Liên Việt, Kim Đồng…), các đơn vị kinh doanh sách (Nhã Nam, Tiki Trading, Vietbooks, Alpha Books, Fahasa, Phương Đông books, Gold Books…). Trong khi sự phát triển nhanh về số lượng gợi lên sự hoài nghi về chất lượng thì thể loại tản văn đầu thế kỷ XXI đã thuyết phục bạn đọc bằng sức hấp dẫn riêng và bắt đầu được ghi nhận bằng những giải thưởng có uy tín của đời sống văn học trong nước (tác phẩm của nhà văn Đỗ Chu, Nguyễn Việt Hà), thậm chí có cuộc thi sáng tác tản văn (Chill Books với Hành trình xanh lam - Thử tài viết tản văn)… Xuất phát từ thực tiễn đời sống văn học nói chung, thực tiễn phát triển thể loại tản văn nói riêng, chúng tôi nhận thấy cần có một nghiên cứu hệ thống, khái quát, chuyên sâu về tản văn nhằm đáp ứng một số đòi hỏi cấp thiết về góc độ văn học sử, lý thuyết thể loại, tư liệu bổ trợ trong giáo dục. Trước hết, nghiên cứu về tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI nhằm cập nhật, mô tả văn học sử. Mặc dù có lúc bị lấn lướt bởi những thể loại khác nhưng tản văn đã song hành cùng các thể loại văn học đương đại, góp phần tạo nên diện mạo văn học Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên, việc nghiên cứu chưa cập nhật tốc độ phát triển 1
  7. của thể loại tản văn. Một loạt các tuyển tập tản văn Việt Nam ra đời trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ XXI được bạn đọc nhiệt tình đón nhận. Sự “nở rộ” các đầu sách tản văn kéo theo sự “nở rộ” các bài viết về thể loại, song những bài viết chỉ dừng lại ở lời giới thiệu sách, thể hiện cảm nhận chủ quan về một tác giả hay đánh giá nội dung, nghệ thuật một đầu sách mới xuất bản. Một trong những mục đích của luận án là nghiên cứu khái quát tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI, cập nhật sự chuyển biến của tản văn khi đặt nó trong diễn trình thể loại. Xác định các đặc điểm nổi bật dựa vào kết quả khảo sát, luận án sẽ bước đầu tổng kết về một giai đoạn phát triển của thể loại tản văn Việt Nam hiện đại. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu thể loại tản văn ở hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI còn có ý nghĩa quan trọng trong việc bổ sung, phát triển lý thuyết thể loại. Thực tế sáng tác cho thấy bản thân thể loại tản văn vẫn luôn vận động, biến đổi. Dựa trên thực tiễn tản văn đầu thế kỉ XXI, có thể khái quát những biến động thể loại, mô tả tính chất thể loại trong thời điểm đương đại, bổ sung cách nhìn về đặc trưng thể loại. Thêm nữa, một nghiên cứu chuyên sâu về thể loại văn học sẽ góp phần bổ trợ tư liệu cho giảng viên khối Cao đẳng, Đại học. Đặc biệt, lý thuyết về thể loại tản văn Việt Nam hiện đại có ý nghĩa thiết thực với giáo viên giảng dạy Ngữ văn khối phổ thông. Trong chương trình Ngữ văn phổ thông, xu hướng dạy tác phẩm theo đặc trưng thể loại đòi hỏi giáo viên phải nắm vững lí thuyết thể loại, đồng thời hình dung được sự vận động của thể loại trong lịch sử văn học. Với những lý do căn bản nêu trên, chúng tôi chọn “Tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI từ góc nhìn thể loại” làm đề tài nghiên cứu cho luận án. Luận án mong muốn sẽ góp phần nghiên cứu một giai đoạn phát triển của một thể loại văn học đang càng ngày càng chứng tỏ được vị trí quan trọng trong đời sống văn học nghệ thuật dân tộc đầu thế kỷ XXI. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Thực hiện đề tài này, chúng tôi đặt ra mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu sau: 2.1 Mục đích nghiên cứu Luận án nghiên cứu tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI từ đặc trưng thể loại; khảo sát các sáng tác nổi bật trong hai mươi năm đầu thế kỷ XXI nhằm khẳng định 2
  8. sức sống và sự sinh tồn của thể loại tản văn trong bối cảnh đương đại. Từ đó, luận án có cái nhìn đầy đủ và bao quát về đóng góp của thể loại tản văn đối với nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. 2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài thực hiện nhiệm vụ khái quát tình hình nghiên cứu (chủ yếu là các nghiên cứu trong nước) về thể loại tản văn nói chung, tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI nói riêng; xác định quan niệm về thể loại nhằm hình thành các tiêu chí lựa chọn tác giả, tác phẩm phục vụ khảo sát, nghiên cứu; khái quát diễn trình tản văn hiện đại Việt Nam; nhận diện vị trí, đặc điểm của tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI, từ đó đánh giá sự kế thừa và những cách tân của tản văn Việt Nam ở chặng đường này; khảo sát tác phẩm, tác giả được chọn để thấy các đặc điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật, làm nên sắc diện riêng của tản văn Việt Nam trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3.1 Đối tượng nghiên cứu Luận án nghiên cứu tản văn Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI từ góc nhìn thể loại, xem xét cấu trúc thể loại, sự biểu hiện cấu trúc thể loại qua thực tiễn sáng tác, những nguyên tắc thiết lập diễn ngôn thể loại trong bối cảnh đương đại. 3.2 Phạm vi nghiên cứu Luận án chọn khảo sát 462 tác giả cá nhân với 163 đầu sách. Trong 462 nhà văn viết tản văn được chọn khảo sát, có những cây bút đã thành danh từ thế kỷ XX, tới nay họ vẫn tiếp tục sáng tác (Băng Sơn, Nguyễn Quang Lập, Y Phương, Cao Huy Thuần, Nguyễn Quang Thiều, Phan Vàng Anh, Hoàng Việt Hằng, Nguyễn Nhật Ánh, Lê Giang, Dạ Ngân ...); có những cây bút nổi danh trên văn đàn đầu thế kỷ XXI và được độc giả biết tới bởi sáng tác tản văn hấp dẫn, được tái bản nhiều lần (Mai Lâm, Đỗ Phấn, Nguyễn Trương Quý, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy...); có các cây bút mới đem tới sức sống tươi trẻ cho thể loại (Uông Triều, Mạc Thụy, Ubee Hoàng, Anh Khang, Hamlet Trương, Iris Cao, Phan Ý Yên, Gào, Minh Nhật, Phan Ngọc Thạch, Hạ Vũ, Dung Keil…). Không chỉ các tác giả, tác phẩm trong nước, luận án còn chọn khảo sát một số tác phẩm của các tác giả người Việt Nam 3
  9. hiện đang sinh sống tại nước ngoài (Cao Huy Thuần, Thái Kim Lan, Mai Lâm, Lê Minh Hà, Hoàng Hồng – Minh v.v...). Trong bối cảnh số lượng tản văn ra đời theo phương thức xuất bản truyền thống hoặc đến với bạn đọc bằng con đường mạng internet tăng lên từng ngày, việc lựa chọn ngữ liệu không đơn giản. Luận án đã căn cứ đặc trưng thể loại (dung lượng, cấu tứ, cá tính tác giả, đề tài...) và những dấu hiệu về chất lượng nghệ thuật (phản ứng của độc giả, giải thưởng, được quan tâm như một hiện tượng, lượt tái bản...) nhằm xây dựng tiêu chí lựa chọn tác phẩm khảo sát. Về nguồn tác phẩm, 163 tập tản văn được đưa vào khảo sát đều là văn bản in, trong số đó, có một số tản văn được giới thiệu trên mạng internet trước khi tập hợp để xuất bản dưới dạng sách in (Bạn văn của Nguyễn Quang Lập, Tạp văn của Phan Vàng Anh, các tập tnar văn của Trang Hạ, một số bài viết của Nguyễn Quang Thiều, Đinh Vũ Hoàng Nguyên v.v...). Có một số ít các trích dẫn được lấy từ các bài tản văn đăng tải trên trang mạng cá nhân (trang cá nhân của nhà văn Nguyễn Quang Lập, nhà thơ Nguyễn Bảo Sinh, tác giả Chu Văn Sơn...). Quá trình xây dựng tổng quan nghiên cứu các sáng tác tản văn đầu thế kỷ XXI, luận án có mở rộng liên hệ, so sánh với các thể ký khi cần thiết. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận án nghiên cứu tản văn từ góc độ lý thuyết thể loại, làm rõ các đặc trưng thể loại thông qua các sáng tác tản văn Việt Nam những thập niên đầu của thế kỷ XXI. Trên tinh thần đó, luận án sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp lịch sử: Vận dụng phương pháp nghiên cứu này, luận án có thể mô tả diễn trình tản văn. Đó là sự vận động, những đặc điểm riêng của tản văn ở mỗi giai đoạn trong dòng lịch sử. Đồng thời, cái nhìn xuyên suốt về thể loại là điều kiện để luận án xác định những quy luật đặc thù của thể loại tản văn. - Phương pháp loại hình học: Phương pháp loại hình được sử dụng với mục đích xác định, khái quát những đặc điểm chung về thể loại của tản văn; chứng minh rằng tản văn đã xuất hiện, tồn tại với đầy đủ đặc điểm cần có của một thể loại ở thế kỷ XX và tiếp tục phát triển trong 4
  10. lịch sử văn học đầu thế kỷ XXI. Phương pháp loại hình còn được sử dụng để lựa chọn và phân loại các nhóm tản văn có nét tương đồng cao từ vấn đề cấu trúc tới nội dung, từ đó xác định một số chủ đề được tản văn đầu thế kỷ XXI quan tâm khai thác. - Phương pháp hệ thống Luận án sử dụng phương pháp hệ thống nhằm nghiên cứu bản thân thể loại tản văn như một hệ thống gồm các loại hình có mối liên hệ nội tại; đặt tản văn trong hệ thống thể loại văn học Việt Nam hiện đại nhằm nhận diện các đặc trưng của tản văn, đặc biệt là tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI; xem xét vai trò của thể loại tản văn khi đặt nó trong hệ thống giá trị văn hóa – xã hội nhằm đánh giá vị trí, số phận của thể loại trong đời sống xã hội. - Phương pháp so sánh, đối chiếu So sánh, đối chiếu là phương pháp xuyên suốt luận án, nhằm nhận diện mối liên hệ giữa các đặc điểm của tản văn khi xem xét nó với tư cách một thể loại văn học gồm hệ thống các đặc điểm riêng. Cách nhìn nhận khái quát, có sự đối chiếu sẽ dễ dàng chỉ ra sự thay đổi của thể loại trong mỗi chặng đường phát triển, trong đó có những yếu tố ổn định và những yếu tố biến đổi của thể loại tản văn trong hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI. Bên cạnh đó, việc đối chiếu, so sánh tản văn với các thể văn gần gũi còn làm nổi bật những đặc điểm cơ bản của thể loại, từ đó có sự định danh, định tính chính xác cho thể loại vốn chưa tìm được sự thống nhất trong quan niệm. - Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Đây là phương pháp giúp luận án tiếp cận đối tượng tản văn Việt Nam bằng nhiều cách thức. Trong quá trình khảo sát các sáng tác tản văn đầu thế kỷ XXI, chúng tôi nhận thấy một số vấn đề nổi bật về phương diện nội dung gần gũi với văn hóa, có thể quy về mã văn hóa hoặc tập hợp thành những biểu tượng văn hóa; một số đặc điểm nghệ thuật có thể cắt nghĩa dựa trên lý thuyết diễn ngôn hoặc những lý thuyết mới (phê bình sinh thái, văn hóa truyền thông…). 5. Đóng góp của luận án Luận án là công trình khoa học chuyên biệt đầu tiên nghiên cứu tản văn những năm đầu thế kỷ XXI từ góc nhìn thể loại, trong sự vận động và tiếp biến. 5
  11. Tổng quan tình hình nghiên cứu tản văn và xác định quan niệm về thể loại, luận án đã cho thấy sự phát triển của tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI ở các bình diện tác giả và tác phẩm. Luận án đã khẳng định thành tựu của thể loại tản văn Việt Nam nhìn từ hệ chủ đề cùng các nguyên tắc giao tiếp và phương thức biểu hiện. Luận án cũng đã khẳng định vị trí và đóng góp đáng kể của tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI trong đời sống thể loại nói riêng và đời sống văn học Việt Nam đương đại nói chung. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề tài còn mở ra hướng nghiên cứu thể loại tản văn Việt Nam trong các chặng đường kế tiếp. 6. Cấu trúc luận án Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án được sắp xếp thành bốn chương: Chương 1. Tổng quan nghiên cứu Chương 2. Tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI trong dòng chảy tản văn Việt Nam hiện đại. Chương 3. Hệ chủ đề trong tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI. Chương 4. Nguyên tắc giao tiếp và phương thức biểu hiện của tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI. 6
  12. Chương 1 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 1.1. Quan niệm về tản văn hiện đại Cho đến nay, cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác, khái niệm tản văn vẫn là một vấn đề phức tạp bởi những quan niệm khác nhau chưa dẫn tới sự thống nhất sau cùng. Do đó, rất cần một sự giới thuyết về thể loại và xác lập lý thuyết. Trong thực tiễn sáng tác, cách định danh trên các ấn phẩm hiện hành cũng thiếu sự đồng nhất: Nhà văn Nguyễn Khải gọi là tạp văn; nhà văn Mạc Can, Nguyễn Quang Lập gọi là tạp bút; nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Tuân xem đó là nhàn đàm, tùy bút; nhà thơ Y Phương, Nguyễn Quang Thiều đề tản văn; một số cây bút khác như Bùi Minh Quốc, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Việt Hà khi dùng tạp văn, khi đề tản văn… 1.1.1. Vấn đề thuật ngữ và bản chất thể loại tản văn Trong nghiên cứu văn học Việt Nam, sự phức tạp trong định danh thể loại tản văn đồng thời với sự phức tạp trong việc xây dựng một khái niệm về nó. Trước khi được các nhà nghiên cứu ghi nhận như một thể văn học độc lập, khái niệm tản văn được nhìn nhận theo ba cấp độ: tản văn theo nghĩa là văn xuôi; tản văn theo nghĩa là những thể loại ngoài truyện, thơ, kịch và tản văn theo nghĩa là một thể loại văn học. Đầu thế kỷ XX, tản văn vẫn được hiểu theo nghĩa là “văn xuôi”. Hầu như tất cả các thể loại văn xuôi đều được gọi chung là “tản văn” để phân biệt với “văn vần” (vận văn), gồm “những bài không cần phải vần, không cần phải đối nhau, cứ ý mình thế nào thì tả ra thôi” [6/tr79]. Theo ý kiến của tác giả Bùi Kỷ, trong cuốn Quốc văn cụ thể, ông cho rằng tản văn không chỉ là “lối văn không đối nhau và không có vần” [22/tr118] mà tản văn còn là thể loại lớn bao gồm tựa, truyện, kí, bi, luận. Quan niệm tản văn đồng nhất với văn xuôi cũng được thể hiện trong Văn tâm điêu long, tác giả Lưu Hiệp chia toàn bộ thư tịch thành “văn” và “bút”, trong đó văn là “vận văn” (văn vần), còn bút là tản văn (văn xuôi). So sánh với một số định nghĩa về tản văn sau này, quan niệm của Lưu Hiệp gần với những đặc trưng của tản văn hiện đại. Tuy nhiên, tản văn được dùng theo nghĩa chỉ văn xuôi nói chung không còn thông dụng, nó được xếp vào nhóm nghĩa cổ, ít dùng do cách hiểu đó không đúng với thực tế sáng tác. 7
  13. Bên cạnh cách hiểu tản văn là văn xuôi nói chung, ở một số từ điển đưa ra cách hiểu tản văn là tập hợp các thể loại ngoài truyện, thơ, kịch. Bộ Đại từ điển tiếng Việt phát hành năm 2011 tách thể tản văn khỏi truyện và dần nghiêng về phía xác định tản văn như một thể loại đứng bên cạnh những thể loại lớn khác. Quan niệm này ảnh hưởng từ việc văn học Trung Quốc chia tản văn thành hai loại: Tản văn truyền thống (những sáng tác văn xuôi, là văn học chính tông xếp ngang hàng với thơ từ) và tản văn hiện đại (một thể tài văn học cùng với thơ ca, tiểu thuyết, kịch, bao gồm các hình thức văn kể chuyện, văn trữ tình, phóng sự, tạp văn…) [50/tr106]. Tóm lại, mặc dù không đánh đồng tản văn với văn xuôi nói chung nhưng cấp độ thứ hai của quan niệm về tản văn cũng bộc lộ hạn chế cơ bản: chưa chỉ ra được những đặc trưng của thể loại, mới dừng lại ở việc nhìn nhận khái quát theo phương pháp loại trừ để thấy tản văn gồm những thể loại không thuộc truyện, thơ, kịch. Tuy nhiên quan niệm này lại ngầm công nhận tản văn tồn tại như một thể loại lớn - ngang hàng với những thể loại có bề dày lịch sử trong văn học nói chung. Như vậy, văn học Trung Quốc nhìn nhận “tản văn” với ý nghĩa bao quát nhiều thể loại: ban đầu nó được dùng để chỉ “văn xuôi” nói chung, về sau, khái niệm thể loại biến đổi theo hướng thu hẹp dần nội hàm, “tản văn” được hiểu là những thể loại ngoài truyện, thơ, kịch (các thể văn xuôi còn lại như tùy bút, bút ký, phóng sự, tạp văn… gọi chung là tản văn). Ở Việt Nam, Từ điển thuật ngữ văn học cũng cho rằng: “trong nghĩa hẹp (tản văn) chỉ các tác phẩm văn phân biệt với kịch, thơ”; trong văn xuôi “bao gồm một phạm vi rộng từ tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, ký, tiểu phẩm chính luận thì tản văn chỉ phạm vi văn xuôi hẹp hơn, không bao gồm các loại truyện hư cấu như tiểu thuyết, truyện ngắn” [2/tr294], quan niệm này vừa dùng phương pháp loại trừ để khu biệt tản văn với những thể loại có đầy đủ đặc trưng cơ bản (kịch, thơ) vừa lấy tiêu chí hiện thực để phân loại nó với các thể loại của văn xuôi. Khi xếp tản văn vào văn xuôi nhưng là thể loại văn xuôi “không bao gồm các loại truyện hư cấu”, có nghĩa tản văn cũng là những tác phẩm chứa đựng yếu tố chân thực, vậy tản văn có mối quan hệ thế nào với thể ký? – một thể loại văn xuôi có sự giao thoa giữa văn học với khu vực cận văn học (báo chí, chính luận, ghi chép 8
  14. tư liệu…). Xem tản văn như một thể loại văn học nhưng trong văn học Việt Nam từng có hai xu hướng quan niệm: một mặt cho rằng tản văn chỉ là một phụ lưu của ký; mặt khác cho rằng tản văn bao hàm ký. Về quan niệm tản văn nằm trong ký, tác giả Nguyễn Đăng Na xác định rõ về mặt từ nguyên trong công trình giới thiệu về thể ký. Ông cho rằng, thoạt đầu ký thuộc động từ, mang nghĩa là ghi chép. Khi được danh từ hóa, ký chỉ chính “những sản phẩm ghi chép đó”. Nếu hiểu những văn bản được ghi chép ra là sản phẩm sau cùng của ký thì “ký bao gồm trong nó rất nhiều loại hình ghi chép, từ thường thức đến chức năng, khoa học rồi văn chương nghệ thuật…” [16/tr7]. Ký mang những đặc tính cụ thể khi xét từ các phương diện. Về biểu hiện hình thức “những tác phẩm thuộc thể ký thường mang hai yếu tố là người ghi chép và cái được ghi chép. Như vậy, đã là ký thì phải mang dấu ấn trực tiếp của cái tôi và sự kiện can dự đến cái tôi ấy” [16/tr7]. Trong ký, cái tôi chỉ hiện diện khi ghi chép sự kiện. Còn ở tản văn, tạp văn hay tùy bút, cái tôi của nhà văn được thể hiện một cách tự do hơn. Điều đó lý giải một thực tế, so với ký, tản văn thường giàu chất thơ hơn. Ký xuất hiện sớm trong lịch sử thể loại văn học dân tộc. Trong thời kỳ văn học trung đại, ký thực hiện nhiệm vụ ghi chép mọi phương diện đời sống. Lam Sơn thực lục, Trung Hưng thực lục, Thượng kinh ký sự (Lê Hữu Trác viết lời tựa) đều cho thấy ký là ghi chép sự thực mắt thấy tai nghe, mục đích là để răn dạy, nêu gương, giáo hóa. Nhưng “thực chất, thời kỳ trung đại, người ta mới chỉ có ý thức phân loại các thể loại chứ không phải khảo cứu lịch sử các thể loại nên những quan điểm bàn về ranh giới phân định thể loại mang tính chủ quan, tiên nghiệm” [47/tr88]. Phải tới đầu thế kỷ XX, ký mới được quan tâm phân loại một cách có ý thức, chia thành hai hướng: hoặc kế thừa những hình thức ký đã có trong văn học truyền thống (ký sự nhân vật, ký sự lịch sử) hoặc vẫn duy trì một số hình thức luận bàn (tản văn, tùy bút…). Về cơ bản, tản văn hay tạp văn, tạp bút mang những yếu tố đặc trưng của thể ký, đó là một thể loại cơ động, linh hoạt, nhạy bén trong việc phản ánh hiện thực ở cái thế trực tiếp nhất, ở những nét sinh động và tươi mới nhất. Điểm đặc thù của ký là tôn trọng tính xác thực của người và việc trong tác phẩm, sự hư cấu không được sử dụng một cách tùy tiện ảnh hưởng đến tính xác thực của nội dung mà trái lại phải làm tăng thêm ý nghĩa 9
  15. xã hội và giá trị nghệ thuật cho tác phẩm. Như thế tản văn sinh thành từ ký, tản văn là một phụ lưu của ký được xem là quan điểm logic. Khi nghiên cứu về đặc trưng của thể loại ký, tác giả Nguyễn Thị Ngọc Minh đã làm công việc khảo sát tư liệu trên phạm vi rộng: Văn học trung đại (ký, lục, chí tạp ký, ký sự), văn học Trung Quốc (văn học báo cáo, tạp văn, tản văn), văn học tư liệu của Liên Xô (phóng sự, bút ký, tùy bút, nhật ký, hồi ký, du ký, truyện ký...). Phạm vi khảo sát cho thấy quan điểm ký là “gốc” lớn của nhiều tiểu loại, trong đó có tạp văn, tản văn hay tạp bút… Đặc biệt, tính chất ký cũng thể hiện rõ ở một loạt tản văn xuất hiện vào đầu thế XXI, khi các tác giả là những cây bút trẻ nhưng không né tránh phản ánh nhiều hiện tượng được cho là “nhạy cảm” của đời sống xã hội và bộc lộ thẳng thắn quan điểm, tình cảm trước những hiện tượng đó. Sức hút của thể văn này được tạo ra do bản lĩnh, lập trường người viết ký. Trước một hiện thực phức tạp, đa chiều, người viết ký phải tỉnh táo để không nhầm lẫn bản chất và hiện tượng, đồng thời cũng là người “đứng mũi chịu sào”, lên tiếng cho sự thực giữa không ít sự bủa vây của định kiến, tiêu cực trong xã hội. Lập trường người viết ký chính là sự mạnh dạn khẳng định bản lĩnh nhà văn trong thời đại mới, lập trường dân chủ và bình đẳng đối thoại. Nhờ vậy, “từ một thể loại mang tính nghệ thuật, ký đã bước sang các lĩnh vực ngoài văn học và tác động sâu sắc, tạo nên sự thức tỉnh mạnh mẽ trong đời sống xã hội”[47/tr12]. Như vậy, giá trị thức tỉnh đời sống của ký là một trong số những dấu hiệu chức năng để nhiều nhà nghiên cứu xếp tản văn thuộc về thể loại này. Tiêu biểu cho nhóm ý kiến tản văn là tiểu loại của ký, trong Năm bài giảng về thể loại, nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến cho rằng tản văn là một tiểu loại ký có một số đặc điểm như: ngắn gọn, hàm súc; tùy hứng của tác giả có thể bộc lộ trữ tình hay nghị luận; lối thể hiện đời sống trong tản văn mang tính chất chấm phá; chạm vào những hiện tượng được tái hiện ở những khía cạnh cốt yếu và bất ngờ; tất cả những gì được thể hiện và biểu hiện trong bài tản văn đều mang đậm dấu ấn, cách cảm nhận và cảm nghĩ rất riêng của tác. Thuật ngữ essay trong văn học phương Tây nghiêng theo hướng này, nó được hiểu như một kết cấu văn học để nhà văn thể hiện góc nhìn riêng của cá nhân về phương diện nào đó của một chủ đề; 10
  16. essay thường ngắn gọn và thoải mái về phong cách, cho phép diễn tả phong phú và triệt để những cảm nhận có liên quan đến cá nhân. Người viết essay nhằm biểu đạt quan điểm, góc nhìn của cá nhân tác giả trước một vấn đề (chủ đề) nào đó, vấn đề ấy xuất phát từ đời sống xã hội. Thực chất đó là sự kết hợp giữa nét riêng của tản văn với tính chất ghi chép của thể ký nói chung. Theo đó, tạm hình dung essay là một nhánh bắt ra từ ký. Lý luận văn học Việt Nam hiện đại cũng cho rằng ký bao gồm cả phóng sự, hồi ký, nhật ký, ký sự, tùy bút, tản văn, tạp bút… Như vậy, ký (nói chung) là thể loại có tính co giãn, linh hoạt. Nguồn gốc ra đời của hình thức ký đa dạng, nó có thể là kết quả của sự kết hợp giữa văn học và báo chí (phóng sự…); cũng có khi ký ra đời do sự hợp lưu giữa văn học và chính luận xã hội (tạp văn, tạp bút, tản văn…). Dựa vào phương thức biểu đạt, ký được xếp vào nhóm thiên về nghị luận hay thiên về trữ tình hoặc tự sự… tất nhiên việc phân loại đó chỉ mang tính tương đối vì sự “xâm nhập” thường xuyên của các tính chất, khó xác định đâu là hạt nhân cốt lõi của thể loại. Việc nhìn nhận thể ký như trên cho thấy tản văn chỉ là một biến thể nhỏ trong dãy dài nhiều thể cùng loại của ký nói chung. Về quan điểm cho rằng tản văn là văn xuôi nói chung, bao hàm ký, giáo sư Trần Đình Sử quan niệm “ký chỉ bao gồm phạm vi hẹp hơn tản văn”, nói cách khác, ký là một kiểu/một cách ghi chép của tản văn. Các tản văn là những sáng tác văn xuôi mang những đặc điểm của thế ký với ý nghĩa văn học thuần túy, chú trọng việc ghi lại những gì đã trải qua, đã nghe thấy, cảm thấy, thể nghiệm liên tưởng của cái tôi hoặc ghi lại những câu chuyện, những trạng thái cảnh vật hoặc trữ tình hoài niệm; là loại tác phẩm văn học giàu tính trữ tình, rộng rãi về đề tài… Quan điểm này xuất phát từ một số học giả Trung Quốc (Lưu Hiệp, Tiêu Thống, Phùng Văn Mẫn, Tạ Sở Phát, Đàm Gia Kiện…), họ cho rằng thể tản văn có biên độ tương đối rộng, nó bao gồm các sáng tác “ít bị câu thúc vào thể thức, có hình thức khá tự do và đa dạng, có khả năng bộc lộ tư tưởng, tình cảm người viết một cách phong phú” [16/tr11]. Vậy xét đến cùng, ngoài việc ghi chép đời sống thì điểm đến của ký chính là bộc lộ tình cảm, tư tưởng của người viết. Khi “cấp” cho tản văn một nội hàm rộng, không có những đặc tính cụ thể thì đương nhiên những thể văn xuôi khác dễ trở thành “tập con” nằm trong nó. 11
  17. Phạm Thành Hưng, tác giả bài viết Thuật ngữ báo chí – truyền thông cũng cho rằng tản văn là thể loại lớn, gồm nhiều tiểu loại: “Thuật ngữ tản văn được hiểu theo quan niệm của người Trung Quốc cận đại. Theo đó, tản văn là văn xuôi nghệ thuật nói chung, bao gồm nhiều thể: tạp bút, tùy bút, tiểu phẩm, tiểu luận. Các tiểu thể loại với những cách định danh khá ngẫu hứng, tự do (nhàn đàm, phiếm đàm, thời đàm, phiếm luận, tạp trở, đoản văn) cũng được xếp vào phạm trù tản văn. Với quan niệm này thì tản văn đã được hiểu trên một phạm vi rộng, nó là một thể loại lớn mà trong đó bao gồm nhiều thể loại nhỏ (…)” [41/tr211]. Cách nhìn nhận tản văn như vậy quay trở về sự đồng nhất tản văn với văn xuôi nói chung (nhằm phân biệt với văn vần), đồng thời đánh giá thể tản văn xuất hiện với tư cách là một thể loại lớn bao gồm nhiều tiểu loại. Trước hai xu hướng khác nhau trong cách nhìn nhận về mối quan hệ giữa tản văn – ký, chúng tôi cho rằng về cơ bản, tản văn (hay tạp văn, tạp bút) mang những yếu tố đặc trưng của thể ký - một thể loại cơ động, linh hoạt, nhạy bén trong việc phản ánh hiện thực ở cái thế trực tiếp nhất, ở những nét sinh động và tươi mới nhất. Điểm đặc thù của ký là tôn trọng tính xác thực của người và việc trong tác phẩm, sự hư cấu không được sử dụng một cách tùy tiện ảnh hưởng đến tính xác thực của nội dung mà trái lại phải làm tăng thêm ý nghĩa xã hội và giá trị nghệ thuật cho tác phẩm. Như thế tản văn sinh thành từ ký, tản văn là một phụ lưu của ký phản ánh đúng với thực tế sáng tác. 1.1.2. Tản văn là một thể loại của văn xuôi hiện đại Việt Nam Văn học Việt Nam hiện nay nhìn nhận “tản văn” là một thuật ngữ dùng để chỉ một thể loại văn học xác định trong hệ thống các thể loại văn học hiện đại. Trên thực tế, rất nhiều ấn bản đang có mặt trên thị trường sách hiện nay được đề tản văn, tạp văn, tạp bút… Việc phân biệt tản- tạp văn không dễ vì ranh giới giữa chúng khá mờ nhạt. Trước hết, Từ điển thuật ngữ văn học nhìn nhận “tạp văn” như một thể loại nhỏ có đặc điểm riêng, nó “là những áng văn tiểu phẩm có nội dung chính trị, có tác dụng chiến đấu mạnh mẽ. Đó là một thứ văn vừa có tính chính luận sắc bén, vừa có tính nghệ thuật cô đọng, phản ánh và bình luận kịp thời các hiện tượng xã hội “ [29/tr294]. Nếu hiểu như vậy, tạp văn có nghĩa hẹp hơn tản văn bởi tạp văn 12
  18. chỉ là những “áng văn tiểu phẩm” thỏa mãn hai yêu cầu: nội dung chính trị, tính chiến đấu mạnh mẽ. Song trong nghiên cứu Ký trên hành trình đổi mới, tác giả Đỗ Hải Ninh cho rằng tản văn bao gồm cả tạp văn: “Tản văn là loại văn ngắn gọn, hàm súc, với khả năng khám phá đời sống bất ngờ thể hiện trực tiếp tư duy, tình cảm tác giả, bao gồm cả tạp văn, tùy bút, văn tiểu phẩm” [65/tr72]. Ngược lại, tác giả Đoàn Lê Giang cho rằng tản văn chỉ là tên gọi thức thời của thể tạp văn trước đây: “Mươi năm trở lại đây người ta hay gọi “tản văn” – văn ghi chép tản mạn về đời sống, nhưng thực ra người xưa gọi nó là “tạp văn” (ví dụ tạp văn Lỗ Tấn)”, sở dĩ gọi “tản văn” thay cho “tạp văn” là vì “nhiều người không thích bị ám ảnh bởi chữ tạp” [43/tr5]… Dù tên gọi khác nhau song nếu so sánh các thuật ngữ và nội dung văn bản, dễ nhận thấy những tên gọi khác nhau chỉ là cách phân lượng mức độ (đậm, nhạt) các đặc trưng của tản văn. Mỗi cách gọi là một tín hiệu khẳng định văn bản nghệ thuật đó chứa đặc trưng nào của tản văn đậm nét hơn. Do đó, chúng tôi thống nhất lựa chọn khảo sát các đầu sách có dán nhãn tản văn, tạp bút, tạp văn… với điều kiện các tập sách này thỏa mãn các đặc trưng của tản văn. Vậy, với tư cách là một thể loại của văn xuôi hiện đại, tản văn Việt Nam có những đặc điểm gì? Từ điển thuật ngữ văn học xác định tản văn là một thể loại văn học có đặc trưng riêng. Trong đó, nhóm các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đã xác định rõ các vấn đề căn bản của thể loại [29/tr293]: - Hình thức: Tản văn “Nghĩa đen là văn xuôi, nhưng hiện nay tản văn được dùng để chỉ một phạm vi xác định, không hoàn toàn khớp với thuật ngữ văn xuôi”; - Vị trí: Tản văn “là một loại hình văn học ngang với thơ, kịch, tiểu thuyết”; - Mối quan hệ với thể kí: Tản văn “có nội hàm rộng hơn khái niệm kí, vì nội dung chứa cả những truyện ngụ ngôn hư cấu lẫn các thể văn xuôi khác như thư, tựa, bạt, du kí…”. - Đặc trưng: tản văn là loại văn xuôi hàm súc; có thể trữ tình, tự sự, nghị luận, miêu tả phong cảnh, khắc họa nhân vật; thể hiện đời sống mang tính chất chấm phá; cấu tứ độc đáo; có giọng điệu, cốt cách cá nhân; tái hiện được nét chính của các hiện tượng giàu ý nghĩa xã hội; bộc lộ trực tiếp tình cảm, mang đậm bản sắc cá nhân. 13
  19. Trong toàn bộ nghiên cứu này, chúng tôi đồng tình với định nghĩa của Từ điển thuật ngữ văn học, thống nhất sử dụng khái niệm tản văn để chỉ loại văn ngắn gọn, hàm súc, tự do, linh hoạt, với khả năng khám phá đời sống nhanh nhạy, mang tính chất chấm phá, thể hiện trực tiếp tư duy, tình cảm, cảm xúc riêng của người viết. Các tập sách được lựa chọn khảo sát trong công trình này có thể đề “tạp bút”, “tạp văn”, “tản văn” – chúng tôi đều coi đó là ngữ liệu tản văn. Từ sự đồng tình quan niệm về thể loại nêu trên, đối chiếu với thực tiễn sáng tác thể loại tản văn đầu thế kỷ XX tới nay, có thể xác định tản văn Việt Nam hiện đại mang những đặc điểm cụ thể ở các bình diện sau: dung lượng, hình tượng tác giả, đề tài, phương thức biểu đạt, kết cấu, hành văn. Về quy mô, dung lượng: Mặc dù tản văn là loại văn tự do, dài ngắn tùy ý xong về cơ bản, đó là thể văn ngắn gọn, hàm súc. Dung lượng khiêm nhường nhất co lại trong một, hai trang sách (khoảng 200 đến 400 chữ) nhưng cũng có thể lên tới hơn 20 trang sách, trên 5000 chữ (sáng tác của nhà văn Cao Huy Thuần, Đỗ Phấn, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Trương Quý, Nguyễn Quang Thiều); phổ biến là những tản văn trên dưới 1.000 chữ. So với truyện ngắn, tiểu thuyết thì tản văn có thể được xem là thể loại dễ “bỏ túi” vì phần lớn tản văn hiện nay có dung lượng nhỏ, giúp độc giả đón nhận trọn vẹn một tác phẩm trong những “kẽ hở” thời gian của nhịp sống hiện đại. Ở phương diện hình tượng tác giả: Cái tôi tác giả là điều khác biệt lớn nhất của tản văn so với các thể loại văn xuôi khác. Cái tôi trong thể trữ tình thường không còn nguyên vẹn là con người đời thường bởi nó phải “chuyển hóa thế giới nội tâm vào một nhân vật có tính hư cấu – nhân vật trữ tình”. Cái tôi trong truyện ngắn hay tiểu thuyết phải “nhờ” lăng kính, góc nhìn, tâm lý nhân vật hư cấu để gửi gắm những suy nghĩ, thông điệp về con người và cuộc đời. Còn ở tản văn, nhà văn tự cấp cho mình quyền được tuyên ngôn trực tiếp về những điều người viết quan tâm và vì thế hình tượng nhân vật (thường xưng là tôi) trùng khít với tác giả, đem đến cho người đọc cảm giác được tương tác, đối thoại trực tiếp với nhà văn về các vấn đề của đời sống. Với đặc điểm này, người viết còn thể hiện được nhân cách, bản lĩnh, tầm vóc tư duy, phong thái một cách chân thực vì hai lý do: nhà văn “cứ 14
  20. nguyên hình nguyên dạng mà bước vào trang sách” [48/tr45] và có nhiều vấn đề của đời sống sẽ không được nói ra nếu người viết thiếu bản lĩnh. Về đề tài: Tản văn “có thể ghi chép lại một cuộc thảo luận chính thức hoặc không chính thức; tập trung vào một chủ đề nhưng cũng có thể khai thác một loạt các chủ đề” [97/tr12]; “theo tùy hứng tác giả có thể bộc lộ trữ tình hay nghị luận”; “có thể tự sự, miêu tả phong cảnh, khắc họa nhân vật” [29/tr293]… Điều này có nghĩa biên độ đề tài của tản văn thực sự rộng. Tản văn đầu thế kỷ XXI đã cho thấy mọi vấn đề lớn – nhỏ của đời sống xã hội đều được quan tâm, suy ngẫm. Từ quá khứ, hiện tại tới tương lai; tự nhiên và xã hội, nhân sinh; các yếu tố ngoại hiện (sự kiện, cảnh vật, ngôn luận) đến nội cảm (tình cảm, tinh thần); từ các vấn đề khoa học xã hội và nhân văn (lịch sử, tôn giáo, văn hóa, triết học) cho tới các vấn đề thời sự (biển cả, môi sinh) v.v… đều có thể trở thành đề tài của tản văn. Sự năng động trong đề tài của tản văn dường như vượt trội so với thể loại văn học khác. Đặc điểm này có thể bắt nguồn từ những bộ phận cấu thành tản văn: bộ phận thứ nhất là các hiện tượng đời sống xã hội; va đập vào cảm quan nhà văn làm nảy sinh bộ phận thứ hai là quan điểm, thái độ, đánh giá chủ quan. Hiện tượng và suy ngẫm trở thành hai bộ phận cốt lõi của một tản văn. Trong khi đó, hiện tượng đời sống là nguồn chất liệu đa dạng muôn nghìn sắc màu, vậy không thể “kiểm soát” vấn đề trở thành cảm hứng trong tản văn, càng không thể mặc định hay giới hạn cảm xúc, suy ngẫm xuất phát từ hiện thực đó. Về phương thức biểu đạt: Ngoài đặc điểm tự do, phóng túng trong ngòi bút thì “lối thể hiện đời sống trong tản văn mang tính chất chấm phá, tuy vậy, ngòi bút tản văn chạm vào những hiện tượng được tái hiện ở những khía cạnh cốt yếu và bất ngờ”[25]; ưa dùng lối “chấm phá” trong cách biểu đạt, mỗi hiện tượng bình thường của đời sống được chọn đưa vào tản văn đều là khoảnh khắc nhà văn phát hiện ra một điều đáng suy ngẫm, gợi lên trong người đọc sự vỡ lẽ cần thiết. Khác với truyện và tiểu thuyết, tản văn không nhất thiết đòi hỏi có cốt truyện phức tạp, nhân vật hoàn chỉnh nhưng nó nhất định phải tái hiện được nét chính của các hiện tượng giàu ý nghĩa xã hội, có cấu tứ độc đáo, có giọng điệu riêng. Sự đòi hỏi cao nhất và cũng là đòi hỏi sau cùng về phương thức biểu đạt tản văn là “cái tôi” người viết. Có 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2