intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Văn học: Văn hóa tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:182

52
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu nhằm nhận diện đời sống văn hóa tâm linh dân tộc trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại và quan niệm của các nhà văn về một số vấn đề văn hóa tâm linh. Nêu lên vai trò và những đóng góp của văn hóa tâm linh trong quá trình đổi mới, cách tân tiểu thuyết đương đại, qua đó thấy được sự vận động, phát triển của tiểu thuyết đương đại nói riêng, văn học Việt Nam đương đại nói chung.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Văn học: Văn hóa tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN DƢƠNG THỊ HƢƠNG VĂN HÓA TÂM LINH TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC HÀ NỘI - 2020
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN DƢƠNG THỊ HƢƠNG VĂN HÓA TÂM LINH TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 62 22 01 21 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS NGUYỄN THỊ BÍCH THU XÁC NHẬN NCS ĐÃ CHỈNH SỬA THEO QUYẾT NGHỊ CỦA HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ LUẬN ÁN Chủ tịch Hội đồng đánh giá Người hướng dẫn khoa học Luận án Tiến sĩ PGS.TS. Hà Văn Đức PGS.TS. Nguyễn Thị Bích Thu HÀ NỘI - 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng mình. Các số liệu, dẫn chứng sử dụng trong luận án có nguồn gốc rõ ràng, công bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận án do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan, phù hợp với đối tượng nghiên cứu. Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kì nghiên cứu nào khác. Nghiên cứu sinh Dƣơng Thị Hƣơng
  4. LỜI CẢM ƠN Xin trân trọng cảm ơn PGS.TS Nguyễn Thị Bích Thu đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo nghiên cứu sinh hoàn thành bản luận án này. Không có sự hướng dẫn tận tâm, nhiệt tình của cô, bản luận án này chắc chắn sẽ không thể hoàn thành. Xin trân trọng cảm ơn gia đình, đồng nghiệp tại Đại học Quốc Gia Hà Nội, bạn bè thân thiết đã luôn bên Nghiên cứu sinh trong suốt quá trình học tập và hoàn thành bản luận án này. DƢƠNG THỊ HƢƠNG
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 5 1. Lí do chọn đề tài 5 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu 7 4. Phương pháp nghiên cứu 8 5. Đóng góp của luận án 9 6. Bố cục của luận án 9 Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 10 1.1 Khái lƣợc về văn hóa, tâm linh và văn hóa tâm linh 10 1.1.1 Khái lược về văn hóa 10 1.1.2 Khái lược về tâm linh 12 1.1.3 Khái lược về văn hóa tâm linh 16 1.2 Khái lƣợc về cơ sở hình thành văn hóa tâm linh trong văn hóa 17 Việt Nam 1.2.1 Những yếu tố văn hóa bản địa 17 1.2.2 Những yếu tố văn hóa ngoại sinh 20 1.3 Cơ sở hình thành văn hóa tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam 24 đƣơng đại 1.3.1 Kế thừa yếu tố văn hóa tâm linh trong văn học dân gian và văn học 25 trung đại 1.3.2 Kế thừa yếu tố văn hóa tâm linh trong văn học hiện đại 1900 – 1945, 28 văn học phương Tây và thế giới 1.4 Tình hình nghiên cứu văn hóa tâm linh trong văn học Việt Nam 29 Tiểu kết chƣơng 1 40 1
  6. Chƣơng 2. NHẬN DIỆN MỘT SỐ YẾU TỐ VĂN HÓA TÂM LINH 41 TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI 2.1 Không gian văn hóa tâm linh 41 2.1.1 Sự đa dạng, phong phú trong các loại hình không gian 41 2.1.2 Sự hài hòa, hỗn dung giữa các không gian văn hóa tâm linh 45 2.1.3 Tính thiêng và phàm trong không gian văn hóa tâm linh 47 2.1.4 Không gian văn hóa tâm linh trong những thời khắc lịch sử biến động 50 2.2 Thời gian văn hóa tâm linh 52 2.2.1 Tính kì ảo và tính hiện thực trong thời gian văn hóa tâm linh 53 2.2.2 Tính thiêng trong thời gian văn hóa tâm linh 55 2.2.3 Tính bình đẳng và tính giao thoa trong thời gian văn hóa tâm linh 57 2.2.4 Tính luận đề trong thời gian văn hóa tâm linh 59 2.3 Các hiện tƣợng văn hóa tâm linh 61 2.3.1 Điềm báo 61 2.3.2 Tính linh 64 2.3.3 Mộng 66 2.4 Các nghi lễ văn hóa tâm linh 68 2.4.1 Tang ma 69 2.4.2 Lễ hội 72 2.4.3 Thờ cúng, cầu nguyện 75 2.4.4 Bói toán 79 2.4.5 Các nghi thức tôn giáo, tín ngưỡng 80 Tiểu kết chƣơng 2 82 Chƣơng 3. CÁC LOẠI HÌNH NHÂN VẬT TÂM LINH TRONG 84 TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI 3.1 Nhân vật tu hành 85 2
  7. 3.1.1 Nhân vật tu hành trong mối quan hệ giữa Đạo và Đời 85 3.1.1.1 Ẩn dật và tham chính 85 3.1.1.2 Tu đạo và những nỗi niềm thế tục 88 3.1.2 Nhân vật tu hành trong mối quan hệ giữa Thân và Tâm 90 3.1.3 Giải thiêng một số nhân vật tu hành lịch sử 96 3.2 Nhân vật linh hồn, ma quỷ 104 3.2.1 Linh hồn, ma quỷ với những ám ảnh chiến tranh 104 3.2.2 Linh hồn, ma quỷ với motif báo oán, báo ân 107 3.2.3 Linh hồn, ma quỷ với tâm thức con người hiện đại 109 3.3 Nhân vật có năng lực siêu nhiên 113 3.3.1 Nhân vật có phép thuật 113 3.3.2 Nhân vật có năng lực liên thông với người âm 118 Tiểu kết chƣơng 3 121 Chƣơng 4. PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN VĂN HÓA TÂM LINH 123 TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI 4.1 Một số biểu tƣợng mang tính văn hóa tâm linh 123 4.1.1 Mộ 124 4.1.2 Núi 127 4.1.3 Sông 129 4.2 Kiến tạo đề tài và cấu trúc tiểu thuyết theo quan niệm văn hóa 132 tâm linh 4.2.1 Kiến tạo đề tài văn hóa tâm linh 133 4.2.2 Kiến tạo cấu trúc tiểu thuyết theo quan niệm văn hóa tâm linh 136 4.2.2.1 Cấu trúc luân hồi, lời nguyền 136 4.2.2.2 Một vài cấu trúc khác 138 4.3 Dấu ấn của cái kì ảo và cái huyền ảo trong biểu hiện văn hóa tâm linh 139 3
  8. 4.3.1 Dấu ấn của cái kì ảo trong biểu hiện văn hóa tâm linh 140 4.3.2 Dấu ấn của cái huyền ảo trong biểu hiện văn hóa tâm linh 144 4.4 Dấu ấn của phân tâm học trong biểu hiện văn hóa tâm linh 146 4.4.1 Phân tâm học với xây dựng giấc mộng 146 4.4.2 Phân tâm học với xây dựng nhân vật tâm linh 149 Tiểu kết chƣơng 4 156 KẾT LUẬN 158 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ 161 LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN TÀI LIỆU THAM KHẢO 162 PHỤ LỤC 176 4
  9. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Văn hóa tâm linh là một trong những thành tố quan trọng cấu thành nền văn hóa Việt Nam nói chung, văn học Việt Nam nói riêng. Những dấu ấn văn hóa tâm linh hiển diện rõ nét trong văn học dân gian, văn học trung đại và văn học Việt Nam giai đoạn trước 1945. Sau một thời gian dài vắng bóng trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 vì những yếu tố chủ quan và khách quan, văn hóa tâm linh đã dần dần khôi phục lại vị trí, tầm ảnh hưởng của mình trên văn đàn Việt với độ bao phủ rộng khắp ở hầu hết các thể loại thơ, kịch, truyện ngắn và đặc biệt là tiểu thuyết, thể loại vốn được coi như “máy cái của một nền văn học”. Sự xuất hiện của văn hóa tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại vừa đa dạng, phong phú, vừa sâu sắc, tinh tế và biến ảo. Về thực tiễn sáng tác, nhiều phạm trù, lĩnh vực văn hóa tâm linh là đối tượng miêu tả chính yếu của các tiểu thuyết Việt Nam đương đại như tôn giáo, tín ngưỡng, linh hồn, năng lực siêu nhiên… Nhiều hiện tượng, vấn đề quan thiết của đời sống xã hội, đời sống tinh thần của con người hiện đại được các nhà văn phản ánh dưới góc nhìn văn hóa tâm linh như chiến tranh, nỗi cô đơn...Văn hóa tâm linh vừa là đối tượng, vừa là công cụ miêu tả của tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Khảo sát, nghiên cứu văn hóa tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, chúng ta sẽ tìm thấy dòng chảy văn hóa tâm linh nói riêng, văn hóa nói chung xuyên suốt chiều dài lịch sử đất nước, dân tộc. Dòng chảy này là một trong những nhân tố chính yếu giúp người Việt và thế giới “hiểu” Việt Nam hơn. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng trong kỉ nguyên hội nhập, trong thời đại công nghệ 4.0 hiện nay. Đây là lí do cơ bản, quan trọng nhất khiến chúng tôi lựa chọn đề tài Văn hóa tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Mặt khác, ở khía cạnh nghệ thuật, tiểu thuyết là thể loại mà văn hóa tâm linh ghi dấu ấn đậm nét nhất. Văn hóa tâm linh tham gia vào hầu hết các yếu tố nghệ thuật kiến tạo nên tiểu thuyết đương đại như nhân vật, không - thời gian nghệ thuật, đề tài, cấu trúc, các chi tiết, tình tiết… Có thể nói, văn hóa tâm linh là nhân tố quan 5
  10. trọng tạo nên “diện mạo mới”, “sắc thái mới” cho tiểu thuyết Việt Nam đương đại và rộng hơn là văn học Việt Nam đương đại. Thông qua việc nghiên cứu văn hóa tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại chúng ta sẽ thấy được quá trình phát triển và đổi mới của không chỉ tiểu thuyết Việt Nam đương đại mà còn của cả nền văn học Việt Nam đương đại. Vì vậy, chúng tôi lựa chọn khảo sát, nghiên cứu văn hóa tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại chứ không phải các thể loại văn học khác. Về thực tiễn nghiên cứu, song song với các tác phẩm văn học có sự hiện diện của văn hóa tâm linh là các công trình nghiên cứu văn hóa tâm linh trong văn học nói chung, tiểu thuyết nói riêng. Các công trình này đã khảo cứu văn hóa tâm linh trên nhiều phương diện khác nhau. Có công trình chú tâm vào yếu tố biểu tượng văn hóa tâm linh; có công trình để ý đến cái ảo, công cụ đắc lực khắc họa văn hóa tâm linh; lại có công trình tập trung về những biểu hiện của văn hóa tâm linh… Sự xuất hiện của các công trình này đã làm sáng tỏ thêm nhiều vấn đề, khía cạnh về văn hóa tâm linh ở thể loại quan trọng bậc nhất của văn học này. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào khảo sát một cách toàn diện vấn đề văn hóa tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Đây cũng là một lí do thôi thúc chúng tôi thực hiện đề tài Văn hóa tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Về thực tiễn cuộc sống, hiện vẫn còn nhiều người nhầm lẫn, ngộ nhận, không phân biệt rõ ràng giữa văn hóa tâm linh với các hiện tượng mê tín dị đoan. Trong nhiều trường hợp, ranh giới giữa văn hóa tâm linh và mê tín dị đoan khá mong manh. Chúng tôi lựa chọn đề tài này một phần cũng xuất phát từ mong muốn qua việc nghiên cứu văn hóa tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại sẽ cung cấp một cái nhìn chân xác, nhận thức đúng đắn hơn về văn hóa tâm linh và việc thực hành văn hóa tâm linh trong cuộc sống. Trên cơ sở thực tiễn sáng tác, thực tiễn nghiên cứu và thực tiễn cuộc sống như đã nêu ở trên, chúng tôi hi vọng công trình của mình sẽ góp thêm một “tiếng nói”, một cách hiểu, một cách lí giải cho ngành khoa học văn học nói riêng, khoa học xã hội và nhân văn nói chung trong việc tìm hiểu văn hóa tâm linh trong tiểu 6
  11. thuyết đương đại để chúng ta vừa hiểu thêm về một giai đoạn văn học và lao động sáng tạo nghệ thuật của các nhà văn, vừa có nhận thức đúng và sâu sắc về các giá trị văn hóa tâm linh của dân tộc. 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là các yếu tố văn hóa tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Khái niệm văn học đương đại hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau. Cách hiểu thứ nhất cho rằng văn học đương đại được tính từ sau năm 1975 đến nay. Cách hiểu thứ hai nhận định đây là khái niệm dùng để chỉ văn học sau đổi mới 1986 đến nay. Và văn học đương đại dùng để chỉ những tác phẩm xuất hiện từ đầu thế kỉ XXI đến nay là nội dung của cách hiểu thứ ba. Văn học Việt Nam từ 1975 đến 1985 vẫn chưa có những biến chuyển, cách tân mạnh mẽ và chưa có nhiều tiểu thuyết có dấu ấn văn hóa tâm linh sâu đậm. Nếu lựa chọn khái niệm văn học đương đại theo cách hiểu thứ ba thì sẽ bỏ qua những tiểu thuyết mang đậm dấu ấn văn hóa tâm linh trong giai đoạn 1986 – 2000. Do đó, trong luận án này, chúng tôi sử dụng cách hiểu thứ hai, quan niệm văn học đương đại là văn học từ đổi mới 1986 đến nay. Phạm vi nghiên cứu của luận án chủ yếu là các tiểu thuyết xuất bản từ 1986 đến 2016, cột mốc đánh dấu ba thập kỉ đổi mới văn học nước nhà. Từ 1986 đến 2016 có hàng nghìn tiểu thuyết xuất bản, vậy nên việc khảo sát hết là điều bất khả thể. Vì thế, trong luận án này chúng tôi tập trung vào nhóm tác giả có những tác phẩm ghi đậm dấu ấn văn hóa tâm linh như Nguyễn Xuân Khánh, Hồ Anh Thái, Vũ Huy Anh, Võ Thị Hảo, Nguyễn Việt Hà, Tạ Duy Anh, Nguyễn Một, Phạm Ngọc Tiến, Thùy Dương, Hòa Vang... Ngoài ra trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có đề cập đến một số tiểu thuyết xuất bản trong các giai đoạn văn học trước và sau năm 2016 có dấu ấn văn hóa tâm linh cùng văn học nước ngoài để có cái nhìn đối sánh, làm rõ vấn đề nghiên cứu. 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu văn hóa tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, chúng tôi hướng đến những mục đích chính sau: 7
  12. Nhận diện đời sống văn hóa tâm linh dân tộc trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại và quan niệm của các nhà văn về một số vấn đề văn hóa tâm linh. Nêu lên vai trò và những đóng góp của văn hóa tâm linh trong quá trình đổi mới, cách tân tiểu thuyết đương đại, qua đó thấy được sự vận động, phát triển của tiểu thuyết đương đại nói riêng, văn học Việt Nam đương đại nói chung. Để thực hiện mục đích nghiên cứu, chúng tôi xác định cần hoàn thành các nhiệm vụ nghiên cứu sau: Khái quát, làm rõ nội hàm và các đặc trưng cơ bản của văn hóa tâm linh để có cái nhìn tổng quát, hệ thống về văn hóa tâm linh nói chung và văn hóa tâm linh trong văn học nói riêng. Khảo sát, phân tích và làm rõ vai trò kép mã văn hóa và mã nghệ thuật của những yếu tố văn hóa tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại; phân tích các đặc trưng của các loại hình nhân vật tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Phân tích các phương thức nghệ thuật xây dựng văn hóa tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong luận án này chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phƣơng pháp tiếp cận văn hóa học. Đây là phương pháp nghiên cứu chủ đạo. Sử dụng phương pháp này sẽ giúp chúng ta giải mã được những yếu tố văn hóa tâm linh phức tạp, đa tầng nghĩa trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Tiếp cận phân tâm học. Phân tâm học là hướng tiếp cận hiệu quả trong phân tích, nghiên cứu vô thức, giấc mơ - những yếu tố có bóng dáng của văn hóa tâm linh. Áp dụng phân tâm học vào nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam đương đại sẽ làm sáng tỏ nhiều vấn đề văn hóa tâm linh. Phƣơng pháp so sánh. Chúng tôi sử dụng phương pháp so sánh nhằm có cái nhìn toàn diện về văn hóa tâm linh trong tiến trình văn học sử Việt Nam trên hai phương diện đồng đại và lịch đại. 8
  13. Phƣơng pháp tiếp cận thi pháp học. Chúng tôi sử dụng phương pháp này nhằm làm nổi bật lên những yếu tố hình thức, nghệ thuật biểu hiện văn hóa tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Phƣơng pháp loại hình học. Chúng tôi sử dụng phương pháp loại hình nhằm làm rõ loại hình nhân vật tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Phƣơng pháp liên ngành. Việc tiếp cận văn hóa tâm linh từ những khía cạnh khác nhau như ngôn ngữ học, xã hội học, tôn giáo học… sẽ giúp luận án có cái nhìn bao quát và toàn diện về vấn đề nghiên cứu. 5. Đóng góp của luận án Luận án là công trình chuyên biệt nghiên cứu văn hóa tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Luận án đã nhận diện các yếu tố tâm linh, đặc biệt chỉ ra loại hình nhân vật tâm linh trên cơ sở làm rõ mối quan hệ giữa đời sống văn hóa tâm linh và đời sống xã hội trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Luận án đã khẳng định thành tựu và đóng góp của văn hóa tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại trên hai phương diện nội dung - nghệ thuật, qua đó phản ánh sự vận động và phát triển, đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam đương đại trong bối cảnh văn học Việt Nam đang có bước chuyển mình mạnh mẽ, tái hòa nhập với văn học thế giới sau 1986. 6. Bố cục của luận án Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án được triển khai thành 4 chương cụ thể như sau: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu. Chương 2: Nhận diện các yếu tố văn hóa tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Chương 3. Các loại hình nhân vật tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Chương 4: Phương thức biểu hiện văn hóa tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. 9
  14. Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1 Khái lƣợc về văn hóa, tâm linh và văn hóa tâm linh 1.1.1 Khái lƣợc về văn hóa Văn hóa là một thành tố quan trọng cấu tạo nên xã hội loài người, thu hút được mối quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam. Nhà nghiên cứu Trần Thị Hồng Thúy trong Đại cương văn hóa Việt Nam cho biết đến nay số lượng các định nghĩa về văn hóa “đã tăng lên rất nhiều (trên 300 định nghĩa)” [162, tr 26]. Việc tìm hiểu hết và trình bày các quan niệm về văn hóa không phải là mục đích chính của luận án này. Dưới đây, chúng tôi chỉ trình bày các quan niệm văn hóa ở dạng thức cơ bản nhất để phục vụ cho việc nghiên cứu văn học, chứ không có ý định đi sâu vào văn hóa học. Chúng tôi nhận thấy mặc dù có số lượng định nghĩa nhiều nhưng về cơ bản các định nghĩa về văn hóa đều tuân theo một “công thức” tổng quan gồm ba bước như sau. Thứ nhất, nêu lên các yếu tố cấu thành nội hàm văn hóa. Thứ hai, chỉ ra những đặc trưng của văn hóa và cuối cùng nêu lên vai trò, vị trí, tác động của văn hóa đối với con người, quốc gia, dân tộc. Do vậy, chúng tôi sẽ trình bày các quan niệm về văn hóa theo các bước trên. Về các yếu tố cấu thành nội hàm văn hóa. Theo nhà dân tộc học Taylor văn hóa gồm: “tổng thể phức hợp các kiến thức, tín ngưỡng nghệ thuật, đạo đức, luật lệ, phong tục và tất cả những khả năng và thói quen mà con người đạt được với tư cách là thành viên trong xã hội” [44, tr 25]. Nhiều nhà nghiên cứu ngoài việc nhấn mạnh đến các yếu tố trong đời sống tinh thần còn bổ sung thêm yếu tố vật chất trong nội hàm văn hóa. Nhà nghiên cứu Karpov viết: “Văn hóa là toàn bộ những của cải vật chất và tinh thần, kết quả của những hoạt động có tính chất xã hội và lịch sử của loài người” [44, tr 25]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Duy quan niệm: “Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần mang tính biểu tượng, do loài người sáng tạo ra trong lịch sử để lại” [44, tr 29]. Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng 10
  15. tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội.” [147, tr 10] còn UNESCO khẳng định: “Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội” [195, tr 23]. Về các đặc trưng của văn hóa. Khi bàn về các đặc trưng của văn hóa, các nhà nghiên cứu đều có những nhận định khá tương đồng. Văn hóa có tính hệ thống. Đặc trưng này chỉ rõ văn hóa không là một cái gì đó nhỏ lẻ, riêng biệt mà được cấu thành từ nhiều bộ phận có mối quan hệ chặt chẽ, ràng buộc với nhau. Điều này nhằm giúp văn hóa “thực hiện chức năng tổ chức xã hội… làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện cần thiết để ứng phó với môi trường tự nhiên và xã hội của mình” [147, tr 11]. Văn hóa cũng có tính giá trị. Đây là đặc trưng phản ánh trình độ phát triển văn hóa của mỗi cá nhân, dân tộc và quốc gia. Đặc trưng này phản ánh “mức độ nhân bản của xã hội và con người” [147, tr 11]. Học giả Đào Duy Anh trong Việt Nam văn hóa sử cương viết: “Về phương diện tĩnh thì văn hóa là trạng thái tiến bộ của những tác dụng ấy (về kĩ thuật, kinh tế, tư tưởng, nghệ thuật, xã hội tổ chức – DTH) ở một thời gian nhất định, và tất cả các tính chất mà những tác dụng ấy bày ra ở các xã hội loài người” [1, tr 10]. Ngoài tính hệ thống, giá trị, văn hóa còn có tính nhân sinh. Thuộc tính này “cho phép phân biệt văn hóa như một hiện tượng xã hội (do con người sáng tạo) với các giá trị tự nhiên” [147, tr 12]. Nhấn mạnh đến nguồn gốc xã hội của văn hóa, P. Sorokin cho rằng văn hóa chỉ được tạo ra bởi các hoạt động của con người, dù đó là hoạt động có ý thức hay vô thức: “Văn hóa chỉ tổng thể những gì được tạo ra, hay được cải biến bởi hoạt động có ý thức hay vô thức của hai hay nhiều cá nhân tương tác với nhau và tác động đến lối ứng xử của nhau” [162, tr 27]. Do được tạo ra bởi các hoạt động của con người, nên văn hóa không “nhất thành bất biến” mà luôn biến đổi, vận động theo điều kiện, hoàn cảnh sống, tâm lí của con người trong không - thời gian. Sự biến đổi, vận động này “tạo cho văn hóa một bề dày, một chiều sâu; nó buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, tiến hành phân loại và phân bổ lại các giá trị” [147, 11
  16. tr 12]. Vì vậy, văn hóa có tính thích nghi. W.Sumner và A.Keller đặc biệt chú trọng đến thuộc tính này của văn hóa, thậm chí hai ông cho rằng đây là điều kiện tiên quyết để hình thành văn hóa: “Tổng thể những sự thích nghi của con người với các điều kiện sinh sống của họ chính là văn hóa hay văn minh” [162, tr 27]. Đặc trưng sau cuối của văn hóa là tính lịch sử. Theo đó, văn hóa được tạo dựng qua một quá trình lâu dài chứ không phải tự nhiên mà có. Tính lịch sử quy định văn hóa có tính kế thừa như nhận định của R.Linton: “Văn hóa là sự kết hợp giữa lối ứng xử mà người ta học được và các kết quả ứng xử mà các thành tố của nó được các thành viên của xã hội đó tán thành và truyền lại nhờ kế thừa” [162, tr 27]. Về vai trò, vị trí, tác động của văn hóa. Các định nghĩa đều cho rằng văn hóa tạo ra những khác biệt, những ý nghĩa độc đáo, đặc sắc khi tác động lên con người và xã hội. UNESCO nhấn mạnh nhờ văn hóa mà con người có “khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lí tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lí” [195, tr 23] và cũng nhờ văn hóa mà “từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình” [162, tr 27], điều mà nhà nghiên cứu Phan Ngọc gọi là sự khúc xạ giữa các nền văn hóa: “Nét khác biệt giữa các kiểu lựa chọn làm cho chúng khác nhau, tạo thành những nền văn hóa khác nhau là độ khúc xạ” [195, tr 21]. Tóm lại, qua những trình bày ở trên, chúng tôi hiểu văn hóa là những thành tựu lớn do con người tạo ra bằng trí tuệ và lao động trên tất cả các phương diện nhằm phục vụ đời sống con người ngày một tốt hơn theo không – thời gian; là thứ phân biệt, làm nên giá trị, đẳng cấp của con người so với các sinh/động vật còn lại trên thế gian. Văn hóa có mối liên hệ khá chặt chẽ với tâm linh, một khái niệm, một phạm trù hoàn toàn thuộc về lĩnh vực tinh thần - vốn là một trong những khía cạnh cơ bản cấu tạo nên văn hóa. 1.1.2 Khái lƣợc về tâm linh Cũng như văn hóa, tâm linh có nhiều cách hiểu khác nhau. Cho đến thời điểm hiện tại, đây vẫn là một khái niệm để mở. Roberto Assagioli từng phải thốt lên rằng: “Nếu có một từ nào bị lầm lẫn, khó hiểu, và hiểu sai nhiều nhất thì đó là từ 12
  17. tâm linh” [146, tr 34]. Theo sự quan sát của chúng tôi, cho đến nay có các hướng nghiên cứu về tâm linh sau: Thứ nhất, xem tâm linh là một hiện tượng có tính chất dị thường, là “đường dây” liên lạc giữa người sống và người đã mất. Nhà nghiên cứu Đỗ Kiên Cường quan niệm: “Tại nước ta, thuật ngữ tâm linh đang được dùng theo các nghĩa sau: 1/Tinh thần, trí tuệ…2/Tín ngưỡng…3/Các hiện tượng dị thường, như ngoại cảm, hoặc sức mạnh tâm trí trên vật chất” [146, tr 38]. Nhà nghiên cứu Phạm Ngọc Quang định nghĩa: “Tâm linh là khái niệm dùng để chỉ niềm tin vào khả năng tồn tại của vong… tin vào khả năng đặc biệt của con người có thể tiếp xúc với vong, nhờ vậy, có thể giúp con người đang sống biết được những thông tin về một số vấn đề đã, đang và sẽ diễn ra…” [146, tr 38]. Thứ hai, nhìn nhận tâm linh trong quá trình diễn tiến của lịch sử, ở mỗi giai đoạn, tâm linh lại có nội hàm khác nhau. Nhà nghiên cứu Nguyễn Hoàng Phương quan niệm: “tâm linh là nghi lễ ma thuật của các tộc người nguyên thủy; là bói toán, tiên tri thời cổ đại; là tôn giáo, thần học thời trung đại; là ngoại cảm, sự hài hòa của vũ trụ, một phần là biểu hiện của trí tuệ đại vũ trụ thời hiện đại” [146, tr 36]. Thứ ba, quan niệm tâm linh dựa trên nền tảng phân tâm học. Freud cho rằng nguồn cội của ý thức tâm linh xuất phát từ những nghi thức totem giáo thời nguyên thủy, khi con người vừa sợ hãi vừa tìm cách bảo vệ quyết định “lịch sử” hạ sát người cha chung của mình. Jung xuất phát từ lí thuyết về tiềm thức, giấc mơ để lí giải về nguồn gốc của tâm linh. Sau khi nghiên cứu cái siêu tôi, Roberto Assagioli đã quan niệm tâm linh: là tính hiện thực tối cao dưới dạng siêu việt, tức tuyệt đối của nó, không có giới hạn hay quy định cụ thể nào. Như vậy, tâm linh tự nó vượt qua mọi giới hạn thời gian hay không gian, mọi liên hệ với vật chất… tâm linh là vĩnh hằng, vô hạn, tự do, phổ biến. Tính hiện thực cao nhất và tuyệt đối ấy không thể nào biết được về mặt trí tuệ, vì nó vượt qua trí tuệ của con người, nhưng nó lại có thể được nêu lên thành 13
  18. những định đề về mặt lí trí, được phát triển về mặt trực giác và, ở một mức độ nào đó, được thể nghiệm về mặt thần bí [14, tr 295 - 296]. Thứ tư, quan niệm tâm linh gắn chặt với tôn giáo. Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy quan niệm: Khái niệm tâm linh vừa hẹp hơn lại vừa rộng hơn khái niệm tín ngưỡng tôn giáo. Hẹp hơn vì ở tín ngưỡng tôn giáo ngoài phần tâm linh còn có phần mê tín dị đoan và sự cuồng tín tôn giáo… Rộng hơn vì tâm linh gắn liền với những khái niệm cái thiêng liêng, cái cao cả, cái siêu việt… không chỉ có ở đời sống tôn giáo, mà còn có cả trong đời sống tinh thần, đời sống xã hội [158, tr 8]. Các tác giả Lịch sử tâm linh thậm chí còn đồng nhất nó với lịch sử của Cơ đốc giáo khi họ viết: Tâm linh chắc chắn tự thân nó luôn có sức hấp dẫn kì lạ. Quan hệ giữa con người với Thượng Đế dưới hình thức sâu kín nhất chính là nền tảng của Cơ đốc giáo… Tiếp đó, thế giới Cơ đốc giáo đã sáng tạo ra cả một nền văn học tâm linh rộng lớn. Bên cạnh đó, những nhân vật siêu phàm, đặc biệt là các vị thánh được mô tả như những hình mẫu hoàn thiện. Một nền văn học thánh truyện phong phú đã ra đời [40, tr 3]. Nhà nghiên cứu Trác Tân Bình cho rằng: “Lịch trình tôn giáo phản ánh quá trình trải qua về mặt tâm linh của con người, đồng thời cũng là sự phản chiếu sinh động sự hình thành, phát triển tâm hồn của dân tộc chủ thể” [22, tr 161]. Thứ năm, quan niệm tâm linh có tính chất tổng hợp các hướng nghiên cứu kể trên, nêu lên những đặc trưng cơ bản nhất của khái niệm. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Duy cho rằng: “Tâm linh là cái thiêng liêng cao cả trong cuộc sống đời thường, là niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng, tôn giáo. Cái thiêng liêng cao cả, niềm tin thiêng liêng ấy được đọng lại ở những biểu tượng, hình ảnh, ý niệm” [44, tr 12]. Nhà nghiên cứu Hồ Bá Thâm trong bài viết Tìm hiểu các định nghĩa khác nhau về tâm linh quan niệm: “Tâm linh là sức mạnh bí ẩn của vũ trụ, 14
  19. của não người, ở ý thức chiều sâu, chiều cao và cả sự thiêng hóa sức mạnh ấy ở những mức độ và phương diện nào đó” [146, tr 40]. Mặc dù có những quan niệm khác nhau, nhưng qua các khái niệm đã trình bày ở trên, chúng tôi nhận thấy tâm linh có những đặc trưng cơ bản sau: Một là, tâm linh có mối quan hệ mật thiết với tôn giáo. Mỗi tôn giáo đều có một hệ thống “thánh nhân” được huyền thoại hóa có sức ảnh hưởng tới con người qua nhiều thế hệ như Đức Phật trong Phật giáo hay đức Chúa trong Thiên chúa giáo. Cho đến ngày hôm nay, những tín đồ của các tôn giáo trên vẫn đặt niềm tin vào quyền năng vô biên của những đấng cứu thế ở tôn giáo mình theo. Hai là, tâm linh gắn kết với ý thức con người. Chỉ con người có ý thức, có tâm hồn mới có quan niệm về tâm linh: “Một người mất trí không còn khả năng suy nghĩ, thì trong đầu người ấy chẳng có cái gì, cũng chẳng có tâm linh” [44, tr 13]. Ba là, tâm linh gắn chặt với niềm tin vào cái thiêng. Bốn là, tâm linh có sự gắn kết chặt chẽ với những người đã mất. Trên thực tế các hoạt động như gọi hồn, cúng bái, thờ tự… đều xuất phát từ niềm tin rằng những hoạt động đó là phương thức kết nối giữa con người trên dương gian với linh hồn ở thế giới bên kia. Nói như nhà nghiên cứu Lê Thu Yến, tâm linh là “triết học về sự tồn tại của con người sau khi chết” [201, tr 19]. Năm là, tâm linh có tính lịch sử, được kế thừa, tiếp nối, truyền từ đời này sang đời khác. Tuy nhiên, tâm linh cũng không phải “nhất thành bất biến” mà có khả năng thích ứng, biến đổi tùy theo hoàn cảnh, nhận thức của con người. Mỗi con người tùy hoàn cảnh, địa vị, trình độ học thức… có thể có những quan niệm khác nhau về tâm linh. Cũng giống như văn hóa, tâm linh là một khái niệm phức tạp, có độ mở cao, là nơi “hợp lưu” của nhiều tư tưởng khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Khi đã bàn đến văn hóa và tâm linh, tất yếu chúng ta phải nói đến một khái niệm cơ bản: văn hóa tâm linh. 15
  20. 1.1.3 Khái lƣợc về văn hóa tâm linh Như trình bày ở trên, văn hóa và tâm linh có nhiều khái niệm khác nhau, tuy nhiên lại có rất ít khái niệm về văn hóa tâm linh. Trên thực tế, thuật ngữ văn hóa tâm linh chỉ xuất hiện “sau khi một số nhà nhân học, tâm lí học xã hội quốc tế thừa nhận yếu tố tâm linh là một trong bốn thuộc tính của con người (con người xã hội, con người sinh học, con người tâm lí, con người tâm linh)” [87, tr 18]. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Duy: “Văn hóa tâm linh là văn hóa biểu hiện những giá trị thiêng liêng trong cuộc sống đời thường và biểu hiện niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo” [44, tr 27]. Ở đây, chúng tôi thấy cần thiết phải phân biệt, làm rõ mối quan hệ giữa văn hóa tâm linh với hai khái niệm văn hóa và tâm linh. Theo định nghĩa của nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Duy, văn hóa tâm linh, cũng như văn hóa ẩm thực, văn hóa giao tiếp… là một lĩnh vực, một bộ phận của văn hóa nên có những đặc trưng chung của văn hóa đồng thời lại có những nét khu biệt riêng. Hai khái niệm tâm linh và văn hóa tâm linh rất “gần gũi” với nhau, đều đề cập đến “cái thiêng liêng cao cả trong cuộc sống đời thường” và “niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo” rất khó phân biệt một cách rạch ròi, cụ thể. Trong tầm kiến văn của mình, chúng tôi hiểu với tâm linh, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Duy thiên về yếu tố tĩnh, tinh thần của khái niệm này khi ông cho rằng cái thiêng liêng cao cả trong cuộc sống hàng ngày và niềm tin thiêng liêng trong tôn giáo đều “đọng lại ở những biểu tượng, hình ảnh, ý niệm”. Trong khi đó, với văn hóa tâm linh, ông lại nghiêng về yếu tố động, vật chất. Nguyễn Đăng Duy viết: “văn hóa tâm linh bao gồm cả văn hóa vô hình, văn hóa hữu hình và văn hóa hành động” [44, tr 297]. Trong ba yếu tố cấu thành văn hóa tâm linh trên, ngoài văn hóa vô hình (các quan niệm, ý niệm về tâm linh), văn hóa hữu hình và văn hóa hành động đều mang tính biểu hiện và tính vật chất. Người Việt có niềm tin thiêng liêng vào đạo Mẫu, đó là tâm linh. Đền Mẫu là nơi thờ phụng Mẫu, được xây dựng bằng các vật chất cụ thể như gỗ, gạch, ngói…theo một kiểu kiến trúc, kiểu bài trí nhất định (có nhiều biến thể khác nhau tùy thuộc vào từng hoàn cảnh, điều kiện cụ thể). 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2