Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Sự đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 nhìn từ lý thuyết hệ hình
lượt xem 11
download
Cấu trúc của luận án gồm phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án gồm bốn chương: Tổng quan tình hình nghiên cứu; Lí thuyết hệ hình với tiểu thuyết Việt Nam sau 1986; Sự vận động của quan niệm về thực tại trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986; Sự vận động của quan niệm về viết trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Sự đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 nhìn từ lý thuyết hệ hình
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ HOÀI AN SỰ ĐỔI MỚI CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1986 NHÌN TỪ LÝ THUYẾT HỆ HÌNH LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM HÀ NỘI - 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ HOÀI AN SỰ ĐỔI MỚI CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1986 NHÌN TỪ LÝ THUYẾT HỆ HÌNH Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 9 22 01 21 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS ĐỒ LAI THÚY 2. TS HOÀNG TỐ MAI HÀ NỘI - 2021
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận án là trung thực, đảm bảo độ chuẩn xác cao nhất có thể. Các tài liệu tham khảo, trích dẫn có xuất xứ rõ ràng. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình. Vinh, ngày 15 tháng 04 năm 2021 Tác giả luận án
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .......................................5 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 ..................6 1.1.1. Sự đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 từ cái nhìn lịch sử..........6 1.1.2. Sự đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 nhìn từ các lý thuyết tiếp cận ...............................................................................................................9 1.2. Tổng quan về tình hình áp dụng lý thuyết hệ hình trong nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 .......................................................................................21 Tiểu kết chương 1 ....................................................................................................24 Chương 2: LÍ THUYẾT HỆ HÌNH VỚI ĐỐI TƯỢNG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1986 .......................................................................................................26 2.1. Lý thuyết hệ hình .............................................................................................26 2.1.1.Khái lược về lý thuyết hệ hình của Thomas Kuhn ..................................26 2.1.2. Ứng dụng lí thuyết hệ hình trong khoa học nhân văn thế giới ...............30 2.1.3. Ứng dụng lý thuyết hệ hình tại Việt Nam ..............................................36 2.2. Những nhận thức ban đầu cho việc triển khai đề tài luận án. .....................39 2.2.1. Ba quan niệm về thực tại - ba hệ hình triết học ......................................39 2.2.2. Ba phạm trù mĩ học trung tâm - ba hệ hình mỹ học ...............................43 2.2.3. Ba mô hình kiến tạo - ba hệ hình tiểu thuyết .........................................46 Tiểu kết chương 2 ....................................................................................................49 Chương 3: SỰ VẬN ĐỘNG CỦA QUAN NIỆM VỀ THỰC TẠI TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1986 ................................................................50 3.1. Sự vận động của quan niệm về thực tại .........................................................50 3.1.1. Từ phản ánh hiện thực đến kiến tạo thực tại ..........................................50 3.1.2 Từ kiến tạo thực tại đến cảm quan thực tại phân mảnh ..........................80 3.2. Sự vận động trong quan niệm về con người ..................................................88 3.2.1. Từ cái tôi đơn ngã đến cái tôi đa ngã .....................................................88 3.2.2. Từ cái tôi đa ngã đến cái tôi liên chủ thể............................................. 101 Tiểu kết chương 3 ................................................................................................. 106
- Chương 4: SỰ VẬN ĐỘNG CỦA QUAN NIỆM VỀ VIẾT TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1986 ....................................................................... 108 4.1. Từ viết về phiêu lưu đến phiêu lưu của viết................................................ 108 4.1.1 Tiểu thuyết trước 1986 với quan niệm viết về phiêu lưu ..................... 108 4.1.2. Tiểu thuyết sau 1986 - cuộc phiêu lưu của viết ................................... 113 4.2. Từ phiêu lưu của viết đến viết về cái viết .................................................... 125 4.2.1 Siêu hư cấu và cuộc chơi có ý thức của viết ....................................... 125 4.2.2. Viết và tự giễu nhại viết trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 ........... 138 Tiểu kết chương 4 ................................................................................................. 149 KẾT LUẬN ........................................................................................................... 150 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ .............. 156 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 157 PHỤ LỤC .............................................................................................................. 171
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tiểu thuyết sau 1986 là một giai đoạn cách tân nổi bật của tiểu thuyết Việt Nam. Cách tân vừa là nhu cầu nội tại, vừa được thúc đẩy bởi tinh thần của phong trào Đổi mới đã tạo nên những chuyển biến sâu sắc trong tiểu thuyết từ sau 1986. Tiểu thuyết dần từ bỏ quan niệm phản ánh hiện thực để đạt được những đỉnh cao với quan niệm kiến tạo thực tại và dịch chuyển tới ám ảnh về một thực tại phân mảnh. Tiểu thuyết từ phản ánh con người đơn ngã sang con người đa ngã, chấp nhận phần bản năng, con người tính dục, con người tâm linh… và cuối của hành trình tìm kiếm, tiểu thuyết nhận ra nhiều con người trong một con người. Từ viết về phiêu lưu, các tiểu thuyết sau 1986 đặt trọng tâm ở phiêu lưu của cái viết và dịch dần về viết về cái viết, tạo nên những thay đổi cơ bản trong nghệ thuật tiểu thuyết. Ý thức đổi mới nghệ thuật của các nhà văn đương đại đi cùng sự phổ biến của các lý thuyết tiếp cận văn học mới mẻ đã tạo ra một mảnh đất năng sản cho những khám phá và phiêu lưu học thuật. Tiểu thuyết sau 1986 đã được tiếp cận từ cái nhìn lịch sử hay từ nhiều lý thuyết tiếp cận như thi pháp học, tự sự học, phân tâm học, nữ quyền luận, phê bình hậu hiện đại…Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy chưa có một công trình nào thể nghiệm một lý thuyết tiếp cận thống nhất và chuyên sâu để nhận diện sự vận động bên trong của toàn bộ giai đoạn tiểu thuyết này. Lý thuyết hệ hình được Thomas Kuhn đề xuất trong công trình nổi tiếng Cấu trúc các cuộc cách mạng khoa học. Đây là lý thuyết công cụ rất hữu ích, không chỉ giúp người sử dụng nhận diện đặc điểm của một thời kì phát triển, mà quan trọng hơn còn nhìn nhận chúng trong một diễn trình vận động, phát triển. Lý thuyết hệ hình đã mang lại một cái nhìn mới cho lịch sử khoa học, lịch sử văn hóa, nghệ thuật, văn học và, từ đó, có thể tạo ra một lối viết lịch sử mới, nhìn sự dịch chuyển của đối tượng từ những vận động nội tại. Lý thuyết này đặc biệt tương thích với những giai đoạn văn học có bước chuyển mình mạnh mẽ như văn học sau 1986. Bổ sung hướng tiếp cận từ lý thuyết hệ hình với cái nhìn nội quan là cần thiết để có một hướng khám phá mới về sự vận động từ trước đến sau mốc thời gian ấy, cũng có nghĩa là lý giải những cách tân của tiểu thuyết sau 1986 trong sự vận động nội tại của văn học một cách khoa học. Trước những vấn đề đặt ra trên, luận án của chúng tôi có nhiệm vụ nhận diện những cách tân của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 trong sự dịch chuyển hệ hình từ 1
- tiền hiện đại (chủ nghĩa) sang hiện đại (chủ nghĩa) rồi hậu hiện đại. Luận án sẽ trả lời những câu hỏi chính: Tiểu thuyết sau 1986 có những cách tân nào trong quan niệm về thực tại và con người? Tiểu thuyết sau 1986 có những thay đổi như thế nào về viết, mang đến những đổi mới nào về phương diện nghệ thuật? Những cách tân đó tạo ra cuộc cách mạng hệ hình trong tiểu thuyết Việt Nam như thế nào? Đồng thời, luận án đưa ra những cắt nghĩa góp phần làm sáng tỏ những vấn đề còn tồn tại trong phân kì văn học, phân định các khái niệm quan trọng như thời hiện đại, chủ nghĩa hiện đại, chủ nghĩa hậu hiện đại, tạo ra tiền đề để đánh giá khách quan những giá trị cách tân tiểu thuyết sau 1986 trong tiến trình tiểu thuyết Việt Nam… Đó là những vấn đề thiết yếu trong nghiên cứu văn học hiện nay. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là những đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Lấy lý thuyết hệ hình làm hệ qui chiếu, luận án nghiên cứu cuộc cách mạng hệ hình của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986, nghĩa là luận án nghiên cứu sự vận động của tiểu thuyết với những tác giả, tác phẩm tạo nên sự chuyển đổi hệ hình và những tác giả, tác phẩm hoàn chỉnh hệ hình. Luận án cũng nghiên cứu đặc trưng của các hệ hình tiểu thuyết giai đoạn sau 1986 trên các tiểu thuyết cụ thể của giai đoạn tiểu thuyết này. Phạm vi khảo sát của luận án là các tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 trên phổ rộng, trong đó luận án tập trung vào các tiểu thuyết nổi bật của giai đoạn sau 1986: Thời xa vắng (Lê Lựu); Bến không chồng (Dương Hướng); Thiên sứ (Phạm Thị Hoài); Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh); Lão Khổ, Thiên thần sám hối, Đi tìm nhân vật (Tạ Duy Anh); Thoạt kì thủy, Người đi vắng, Ngồi, Mình và họ (Nguyễn Bình Phương); Cơ hội của Chúa, Khải huyền muộn (Nguyễn Việt Hà); T mất tích, Pari 11-8, Chinatown (Thuận); Và khi tro bụi, Mưa ở kiếp sau (Đoàn Minh Phượng), 3.3.3.9 [Những mảnh hồn trần] (Đặng Thân) ; Tưởng tượng và dấu vết (Uông Triều); Sông, Biên sử nước (Nguyễn Ngọc Tư); Tiếng nói, Vượt sóng, Sóng ngầm (Linda Lê)… 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Thực hiện đề tài này, chúng tôi đặt ra mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu như sau: Mục đích nghiên cứu: Nhận diện, đánh giá sự đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 trên các phương diện: quan niệm về thực tại và con người, quan niệm về viết cùng các kĩ thuật tự sự tương ứng… trong sự đối sánh hệ hình, qua đó, chỉ ra 2
- những đóng góp của giai đoạn tiểu thuyết này trong tiến trình tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XX, nhất là từ sau 1975 cho đến nay. Nhiệm vụ nghiên cứu: Lấy lý thuyết hệ hình của Thomas Kuhn làm lý thuyết tiếp cận, luận án làm rõ sự đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1986 trong sự dịch chuyển của các hệ hình tiền hiện đại, hiện đại, hậu hiện đại. Ở mỗi hệ hình tiểu thuyết, luận án chỉ ra những đặc trưng cơ bản của hệ hình, đồng thời đặt các hệ hình tiểu thuyết cạnh nhau để làm rõ sự vận động nội tại của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 với hai lần chuyển đổi hệ hình. Mặt khác, với cái nhìn hệ hình, chúng tôi sẽ chỉ ra vị trí, đóng góp của các tác giả, nhất là các nhân vật hệ hình và các tác phẩm của họ trong diễn trình tiểu thuyết từ sau 1986. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án Luận án sử dụng những tư tưởng trong lý thuyết hệ hình của Thomas Kuhn làm nền tảng lí thuyết để nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam sau 1986, đặc biệt là các khái niệm hạt nhân như hệ hình, chuyển đổi hệ hình. Lý thuyết hệ hình của Thomas Kuhn cùng các công trình nghiên cứu văn học ảnh hưởng, tiếp thu lí thuyết hệ hình chính là điểm tựa lí thuyết của luận án. Ngoài ra, chúng tôi cũng áp dụng các lý thuyết khác như tự sự học, thi pháp học… Những lý thuyết công cụ này hỗ trợ chúng tôi trong quá trình giải mã văn bản và lý giải các hiện tượng văn học. Luận án sử dụng những phương pháp nghiên cứu chính như sau: - Phương pháp nghiên cứu liên ngành văn hóa - văn học: dùng để khảo sát quá trình hình thành, vận động của các hệ hình văn hóa, văn học trên cơ sở các điều kiện triết học, kinh tế - xã hội, văn hóa - nghệ thuật… và vận dụng lý giải các hiện tượng của tiểu thuyết Việt Nam trên các điều kiện lịch sử, văn hóa đặc thù. - Phương pháp cấu trúc và phương pháp hệ thống: dùng để tìm hiểu, nghiên cứu một cách hệ thống lý thuyết hệ hình của Thomas Kuhn, các hệ hình văn hóa - văn học: tiền hiện đại, hiện đại, hậu hiện đại. - Phương pháp so sánh: so sánh trên hai phương diện lịch đại và đồng đại chính là phương pháp nghiên cứu hữu hiệu giúp chúng tôi nhận ra những dấu hiệu đặc trưng của các hệ hình tiểu thuyết, đặt các tiểu thuyết, khuynh hướng tiểu thuyết cạnh nhau để nhận diện dấu hiệu hệ hình đặc trưng, từ đó có thể nhận diện vị trí của các tác giả, tác phẩm tiểu thuyết cụ thể trong toàn cảnh tiểu thuyết Việt Nam sau 1986. Ngoài ra, luận án sử dụng các phương pháp phân tích tổng hợp, khảo sát, thống kê… 3
- 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Trên cơ sở tiếp thu, vận dụng lý thuyết hệ hình của Thomas Kuhn, luận án là công trình đầu tiên ở Việt Nam đặt vấn đề nghiên cứu những đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 nhìn từ lý thuyết hệ hình. Trong tình hình nghiên cứu văn học Việt Nam nói chung, luận án góp phần nhìn nhận những đổi mới của tiểu thuyết với sự vận động mang tính chất hệ hình từ tiền hiện đại, sang hiện đại, hậu hiện đại. Luận án đã nhìn nhận sự vận động của tiểu thuyết từ trước đến 1986 từ cái nhìn nội quan, đem đến một cách phân kì mới không chỉ cho giai đoạn tiểu thuyết này mà còn có thể áp dụng cho tiến trình văn học Việt Nam các giai đoạn khác. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Luận án có thể được xem là một trong những công trình đầu tiên, tương đối có hệ thống áp dụng lý thuyết hệ hình của Thomas Kuhn để nghiên cứu sự đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986. Luận án góp phần khẳng định giá trị ứng dụng của lý thuyết hệ hình của Thomas Kuhn đối với các vấn đề của khoa học xã hội nói chung và văn học nói riêng. Luận án hoàn thành sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích cho việc tìm hiểu, học tập, nghiên cứu về tiểu thuyết Việt Nam sau 1986, rộng hơn là cho toàn bộ nền văn học Việt Nam. 7. Cấu trúc của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án gồm bốn chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2: Lí thuyết hệ hình với tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 Chương 3: Sự vận động của quan niệm về thực tại trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 Chương 4: Sự vận động của quan niệm về viết trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 4
- Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Giai đoạn 1945-1975, đất nước lâm vào hai cuộc chiến tranh liên tiếp. Sự tồn vong của Tổ quốc luôn được đặt lên hàng đầu. Mỗi nhà văn được kêu gọi để trở thành tuyên truyền viên cho cách mạng. Tiểu thuyết - cái máy cái của văn học đã tự điều chỉnh để hòa nhịp với guồng máy chung của công cuộc kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cùng với ảnh hưởng của các tiểu thuyết viết theo phương pháp sáng tác hiện thực x hội chủ ngh a - chủ yếu là của các nhà văn Xô Viết và Trung Quốc, tiểu thuyết 1945 - 1975 từ bỏ hành trình hiện đại hóa đang dở dang của tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn và các nhà hiện thực phê phán, chuyển dần sang mô hình tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa mang âm hưởng sử thi. Tiểu thuyết sau 1986 là một giai đoạn phát triển khác, một giai đoạn cách tân nổi bật của tiểu thuyết Việt Nam. Cách tân là nhu cầu nội tại của văn học, được thúc đẩy bởi nhiều chuyển biến của đời sống xã hội, nhất là tinh thần của phong trào Đổi mới với chủ trương cởi trói thay đổi tư duy kinh tế, xóa bỏ bao cấp, kể cả bao cấp tư tưởng đã góp phần tạo bước ngoặt cho văn hóa và văn học Việt Nam, mở đường cho sự phát triển mạnh mẽ của văn học, nhất là tiểu thuyết. Có thể khẳng định, bầu không khí dân chủ cùng với quan điểm đổi mới tác động đến đời sống tinh thần con người. Trong đời sống văn nghệ diễn ra những cuộc x rào , vượt rào , nhiều cuộc tranh luận cởi mở thẳng thắn. Nhờ vậy, nhà văn được đón nhận luồng gió mới với một tâm thế hào hứng để viết một cách tự do, thoải mái. Viết mới, cụ thể là viết theo lối hiện đại chủ nghĩa không còn bị phê phán, thậm chí đã được thừa nhận như một yêu cầu của thời đại. Với việc khẳng định tính đa chân lí, xoá bỏ mọi khoảng cách sử thi, khẳng định cá nhân, tiểu thuyết giai đoạn này có một diện mạo mới. Tiểu thuyết đề cao những cách tân mới mẻ về hình thức biểu đạt: đồng hiện, kỹ thuật dòng ý thức, độc thoại nội tâm, môtíp giấc mơ, ký ức, vọng niệm, phóng khoáng trong các kiểu diễn ngôn, co giãn, mềm dẻo trong kết cấu, ý tưởng không liên tục, chối bỏ trau chuốt mang tính tu từ… Tiểu thuyết sau 1986 chứng kiến sự gối tiếp và đồng tồn bởi của nhiều làn sóng tiểu thuyết với mức độ cách tân và những đóng góp khác nhau, có sự lệch tông khá rõ: từ làn sóng thứ nhất 5
- với các sáng tác rất gần với tiểu thuyết 45-75, và xa hơn là các sáng tác của Nguyễn Minh Châu, Chu Lai, Dạ Ngân, Lê Lựu… đến làn sóng thứ hai, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, được nối tiếp với Hồ nh Thái, Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh, Linda Lê, Nguyễn Ngọc Tư… đã mang đến những biến chuyển sâu sắc trong quan niệm và đặc trưng thể loại. Thuận và Đặng Thân và một số tiểu thuyết của các tác giả vừa kể trên có thể xem như là những đỉnh sóng trong dòng chảy tiểu thuyết cách tân, đưa tiểu thuyết Việt Nam sang địa hạt của chủ nghĩa hậu hiện đại. Với những cách tân đó, tiểu thuyết sau 1986 đã phá vỡ ranh giới của hàng loạt quan niệm mang tính định giá đã tồn tại suốt một thời gian dài về chủ nghĩa hiện thực, về vai trò của chủ đề tư tưởng trong tác phẩm, về tầm vóc và quy mô của các tự sự, về ranh giới giữa các thể loại và loại hình... Ba mươi năm tiểu thuyết đã chứng kiến sự nối tiếp, song hành của các khuynh hướng tiểu thuyết tiền hiện đại, hiện đại và hậu hiện đại. Các tiểu thuyết sau 1986 đã có những thành tựu nghệ thuật đa dạng, phong phú với những mã nghệ thuật mới, đòi hỏi phải có những lý thuyết và những phương pháp mới để giải mã. Lý thuyết ấy phải cắt nghĩa, lý giải được những vận động nội tại của tiểu thuyết ở cả bình diện lịch đại: trước và sau 1986, đồng thời tái hiện các diễn trình vận động, phát triển theo thời gian, lý giải mối quan hệ tác động qua lại giữa các khuynh hướng tiểu thuyết, cung cấp cái nhìn thấu suốt ở phương diện đồng đại cho bản thân giai đoạn tiểu thuyết từ sau 1986. Đó là lý do có sự xuất hiện của nhiều lý thuyết phê bình, nhiều phương pháp phê bình mới trong nghiên cứu, phê bình tiểu thuyết sau 1986. Chúng tôi tổng quan tình hình nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 trên 2 phương diện: - Tổng quan về tình hình nghiên cứu sự đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 với cách tiếp cận lịch sử và từ các lý thuyết nghiên cứu. - Tổng quan về tình hình áp dụng lý thuyết hệ hình trong nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam sau 1986. 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 1.1.1. Sự đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 từ cái nhìn lịch sử Nghiên cứu tiểu thuyết sau 1986 thường nằm chung trong những tổng kết lớn hơn: văn học thế kỷ XX hay văn học đầu thế kỉ XXI, hoặc văn học từ sau 1975, hay văn học từ sau 1986. 6
- Tiểu thuyết sau 1986 được nhìn nhận trong chỉnh thể văn học Việt Nam thế kỷ XX (còn được định danh là văn học Việt Nam hiện đại) trong các công trình: Văn học trên hành trình thế kỷ XX của Phong Lê năm 1997; Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ XX của nhiều tác giả do Hà Minh Đức chủ biên năm 2005; Văn học Việt Nam thế kỷ XX - những vấn đề lịch sử và lý luận do Phan Cự Đệ chủ biên; Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại do Nguyễn Văn Long chủ biên. Trong các công trình này, tiểu thuyết sau 1986 hiện diện khá khiêm nhường. Ở cắt khúc ngắn hơn, tiểu thuyết sau 1986 thường được nhìn nhận trong diễn tiến chung của văn học sau 1975, hẹp hơn là văn xuôi sau 1975. Trong chuyên luận Văn xuôi 1975 - 1995, những đổi mới căn bản, tác giả Nguyễn Thị Bình đã nghiên cứu những đổi mới của cả một giai đoạn văn xuôi từ các phương diện: quan niệm về hiện thực, quan niệm về con người, các phương diện nghệ thuật. Tiểu thuyết đương đại (Tiểu luận - phê bình văn học) của Bùi Việt Thắng chọn mốc thời gian 1975 để đánh giá những đổi mới trong tiểu thuyết Việt Nam, có đề cập đến tiểu thuyết sau 1986 ở các bài viết: Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975- Nhìn từ góc độ thể loại; Những biến động trong cấu trúc thể loại trong tiểu thuyết sau 1975; Khuynh hướng giản lược nhân vật trong tiểu thuyết hiện đại…. Trong công trình Văn học Việt Nam sau 1975, những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy do Nguyễn Văn Long - Lã Nhâm Thìn chủ biên, phần II: Những vấn đề văn xuôi có nhiều bài viết về tiểu thuyết Việt Nam sau 1975: Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975- nhìn từ góc độ thể loại của Bùi Việt Thắng; Ý thức cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 của Nguyễn Bích Thu. Trong cuốn Tiểu thuyết và truyện ngắn Việt Nam từ sau 1975 đến nay của Khoa Ngữ Văn, trường Đại học Vinh, tình hình cũng tương tự với các bài viết: Về tinh thần nữ quyền trong tiểu thuyết, truyện ngắn Việt Nam sau 1986 của Nguyễn Mạnh Hà; Vấn đề thiện - ác trước yêu cầu đổi mới văn học trong văn xuôi Việt Nam từ sau 1975 của Nguyễn Văn Kha… Mới đây, hội thảo Thế hệ nhà văn sau 1975 được tổ chức tại Hà Nội đã góp thêm những tiếng nói nhận diện tiểu thuyết sau 1975 như Tính đối thoại trong giọng điệu tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 của Lê Thị Thúy Hằng, Văn xuôi các nhà văn nữ thế hệ sau 1975 nhìn từ diễn ngôn giới của Thái Phan Vàng nh… Ở các bài viết này, tiểu thuyết sau 1986 không phải là đối tượng nghiên cứu chính, chủ yếu xuất hiện với một số tác giả, tác phẩm nhằm 7
- hướng đến những kết luận khái quát cho toàn bộ giai đoạn văn học tính từ thời điểm 1975. Trong giới hạn là các bài viết riêng lẻ, các tác giả chủ yếu đi vào sự đổi mới ở một vài khía cạnh của tiểu thuyết giai đoạn này. Tiểu thuyết sau 1986 được đặt trong chỉnh thể văn học/ văn xuôi sau 1986 ở các công trình: Những dấu hiệu của chủ ngh a hậu hiện đại trong văn xuôi Việt Nam đương đại (Giai đoạn 1986-2012) và Văn học Việt Nam sau 1986 phê bình đối thoại (Tiểu luận- phê bình) của Phùng Gia Thế; Văn học Việt Nam giai đoạn 1986- 2000: một số vấn đề lý luận và thực tiễn, luận án tiến sĩ của Đoàn Ánh Dương... Ở các công trình lấy đối tượng nghiên cứu là văn xuôi sau 1986, tiểu thuyết sau 1986 là một đối tượng quan trọng bên cạnh truyện ngắn. Nếu ở chuyên luận, Phùng Gia Thế tập trung phân tích các dấu hiệu hậu hiện đại trong văn học Việt Nam giai đoạn 1986-2012, chỉ rõ một cách thuyết phục tính chất nội sinh của nó và phân tích những hình thức biểu đạt của chủ nghĩa hậu hiện đại trên nhiều cứ liệu văn học là tiểu thuyết sau 1986 thì ở tiểu luận - phê bình, nhà phê bình chọn nhiều hướng khai phá như: tính chất các-na-van trong ngôn ngữ, tính bất khả tín, hàm hồ, tổ chức trần thuật… Luận án của tác giả Đoàn Ánh Dương nghiên cứu những vấn đề của văn học giai đoạn 1986-2000 từ ba góc nhìn tương hỗ: kinh nghiệm thẩm mĩ, những nhận thức và trải nghiệm của nhà văn từ Đổi mới, những can thiệp xã hội của văn học từ Đổi mới qua một số diễn ngôn nổi bật. Các công trình này đều đề cập đến những phương diện đổi mới khác nhau của tiểu thuyết sau 1986. Tuy nhiên, do hướng đến các vấn đề của cả một giai đoạn văn học gồm có thơ, văn xuôi, nghiên cứu văn học, tiểu thuyết sau 1986 chỉ là một phần đối tượng của luận án, chủ yếu được đề cập với những nhận định ở tầm khái quát. Nhóm công trình lấy sự cách tân/ đổi mới của tiểu thuyết giai đoạn sau 1986 làm đối tượng nghiên cứu trung tâm là Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại giai đoạn 1986-2006 của tác giả Mai Hải Oanh; Những đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam trong 15 năm cuối thế kỷ XX của Trần Thị Mai Nhân; Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XX cấu trúc và khuynh hướng của tác giả Hoàng Cẩm Giang; Tiểu thuyết Việt Nam đương đại nhìn từ góc độ diễn ngôn, luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Hải Phương... Rất nhiều bài viết về tiểu thuyết sau 1986 được công bố trong sách, báo, diễn đàn mạng. Nhóm công trình này, chúng tôi sẽ đề cập kĩ ở phần tiếp theo. 8
- Qua nhìn nhận những nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam từ cái nhìn lịch sử, chúng tôi thấy rằng: - Tiểu thuyết sau 1986, là một đối tượng thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Đó là một giai đoạn phát triển quan trọng, đột biến, là một giai đoạn cách tân tiểu thuyết nổi bật trong lịch sử văn học Việt Nam, dù ngắn ngủi và vẫn còn tiếp diễn. - Tuy nhiên, cho đến nay, khi đặt tiểu thuyết sau 1986 vào lịch sử phát triển của văn học, sự phân kì văn học vẫn chủ yếu dựa vào những tiêu chí lịch sử - xã hội, nghĩa là từ những căn cứ ngoài văn học. Mặt khác, các khái niệm chưa thống nhất, dẫn đến những cách nhìn nhận khác biệt về giai đoạn này. Ba khái niệm cần khu biệt văn học hiện đại, hiện đại hóa văn học và chủ ngh a hiện đại đã mặc nhiên bị đồng nhất. Cho nên, người ta dùng danh xưng nhà văn hiện đại như một thói quen để chỉ tất cả các nhà văn Việt Nam thế kỉ XX, văn học hiện đại để chỉ tất cả các tiểu thuyết xuất hiện trong thế kỉ XX, thậm chí cho đến nay. Đọc văn học qua các lịch sử văn học, người ta cũng khó thấy sự vận động nội tại của chính văn học, mà có khi chỉ thấy sự chuyển động do thúc đẩy của các sự kiện bên ngoài. Văn học vì thế đứng trước nguy cơ chỉ được nhìn nhận chủ yếu như một hiện tượng xã hội chứ chưa phải là hiện tượng thẩm mĩ. Trong khi đó, bản chất của văn học, như một sự kiện phức hợp, vừa là một hiện tượng xã hội, vừa là một hiện tượng thẩm mĩ. Điều này dẫn đến yêu cầu cần có một lý thuyết công cụ đem đến một cách tiếp cận khác đối với sự vận động của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986. 1.1.2. Sự đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 nhìn từ các lý thuyết tiếp cận Tiểu thuyết sau 1986 có mã nghệ thuật mới, nên phê bình cũng cần có phương tiện mới cho hành trình thám mã và giải mã. Việc đánh giá tiểu thuyết sau 1986 có sự hậu thuẫn của không khí học thuật những năm đổi mới và phát triển. Việc du nhập thi pháp học, sau đó là các lý thuyết đặt nền tảng trên sự phân tích hình thức và cấu trúc văn bản, các lý thuyết hậu hiện đại… đã thực sự thúc đẩy việc tìm kiếm những giá trị, nhất là đánh giá xác đáng những nỗ lực cách tân của tiểu thuyết giai đoạn này. Sự thay đổi nghiên cứu phê bình từ xã hội học sang thi pháp học thực chất là sự thay đổi trung tâm nghiên cứu từ cái xã hội sang cái thẩm mỹ, hoặc nói cách 9
- khác từ sự tiếp cận tác phẩm từ tác giả sang tiếp cận văn bản. Thi pháp học đã có những đóng góp lớn trong nghiên cứu tiểu thuyết sau 1986. Có thể kể tên các công trình tiêu biểu đi theo hướng nghiên cứu này: Thi pháp học ở Việt Nam, Tiểu thuyết đương đại của Bùi Việt Thắng; Văn xuôi Việt Nam 1975- 1995 những đổi mới cơ bản của Nguyễn Thị Bình; Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại giai đoạn 1986-2006 của Mai Hải Oanh; Những đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam trong 15 năm cuối thế kỷ XX của Trần Thị Mai Nhân; Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI cấu trúc và khuynh hướng của Hoàng Cẩm Giang… Tiểu thuyết đương đại của Bùi Việt Thắng đi vào các vấn đề thi pháp thể loại. Cuốn chuyên luận đi sâu nhiều vấn đề của tiểu thuyết sau 1986 từ cái nhìn thi pháp: Những biến đổi cấu trúc tiểu thuyết Việt Nam đương đại; Khuynh hướng giản lược nhân vật trong tiểu thuyết ; Kiểu nhân vật kì dị trong một số tiểu thuyết gần đây…Trên các bình diện nghiên cứu đó, Bùi Việt Thắng đã nhận diện sự cách tân của tiểu thuyết Việt Nam đương đại : Nếu trước 1980 hình thức v mô của cấu trúc tiểu thuyết là hướng tới lịch sử - sự kiện trong tầm rộng của nó thì từ thập kỉ tám mươi, hình thức vi mô’ của tiểu thuyết là hướng tới lịch sử- tâm hồn [78, 86]; Từ sự dồn n n dung lượng nảy sinh hệ quả tất yếu của tiểu thuyết hiện đại sự giản lược nhân vật và cốt truyện [78, 73]… Các công trình Văn xuôi Việt Nam 1975- 1995 những đổi mới cơ bản, Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại giai đoạn 1986-2006 và Những đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam trong 15 năm cuối thế kỉ XX đều bắt đầu từ tư duy mới về thể loại tiểu thuyết, quan niệm mới về hiện thực và con người để đi đến phân tích những tìm tòi về phương thức biểu hiện và cấu trúc mới về nhân vật, cốt truyện và kết cấu, phương thức trần thuật… Cái tên Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI cấu trúc và khuynh hướng đã hàm chứa hai hệ vấn đề: hệ vấn đề thuộc về thi pháp học và hệ vấn đề lịch sử văn học. Tác giả đã đặt vấn đề khuynh hướng tiểu thuyết trên cơ sở các phạm trù thi pháp: bình diện hình tượng thẩm mĩ gồm nhân vật, không gian - thời gian; bình diện phương thức trần thuật gồm người kể chuyện, điểm nhìn và phối cảnh, kết cấu, ngôn ngữ và giọng điệu… Hàng loạt các bài viết trong các tuyển tập nghiên cứu phê bình, các tạp chí đã đi theo hướng tiếp cận thi pháp để đánh giá tiểu thuyết sau 1986, nhất là những 10
- cách tân hình thức: Ý thức cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 của Nguyễn Bích Thu [139]; Những nỗ lực cách tân của văn xuôi Việt Nam đương đại - Tham luận tại Hội nghị quốc tế quảng bá văn học Việt Nam do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức tại Hà Nội ngày 2 - 3/3/2015 của Mai Hương [30]; Tính đối thoại trong giọng điệu tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 của Lê Thị Thúy Hằng [102]… Tiếp cận thi pháp học, dù điểm xuất phát nhỏ nhưng là cách tiếp cận tổng thể, coi tác phẩm như một cấu trúc nghệ thuật, một hệ thống các thủ pháp nghệ thuật, nên càng đi sâu, nó càng chiếm lĩnh tác phẩm trọn vẹn. Do đó, thi pháp học được lựa chọn là điểm khai phá cho nhiều tác phẩm, tác giả tiểu thuyết sau 1986: Thời gian trong Thân phận tình yêu; Chất thơ trong Cánh đồng bất tận của Đào Duy Hiệp [27, 267-290], Phiên chợ Giát; Đọc Phạm Thị Hoài; Thân phận tình yêu của Bảo Ninh [27, 249-265]; Nguyễn Bình Phương và dấu hiệu cách tân lối kể trong tiểu thuyết [21, 439]; Hồ Anh Thái và nỗ lực đổi mới văn xuôi Việt Nam sau 1986 [21, 484]… Lí thuyết tự sự cũng là một chìa khóa quan trọng được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng để đánh giá, cắt nghĩa cách tân của nhiều tiểu thuyết sau 1986. Trong kỉ yếu của hai hội thảo Tự sự học tổ chức tại Đại học Sư phạm Hà Nội, có nhiều bài viết về tiểu thuyết giai đoạn này: Kỹ thuật dòng ý thức qua Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh [57, 399]; Tự sự trong Cơ hội của chúa - cách tân và giới hạn [57, 422]; Bi kịch hóa trần thuật - một phương thức tự sự (Trên cứ liệu Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư và Khi tro bụi của Đoàn Minh Phượng) [57, 476]; Mẫu gốc như là thành phần tạo ngh a trong truyện kể (khảo sát qua mẫu gốc lửa và nước trong Giàn Thiêu của Võ Thị Hảo) [58, 496]… Kí hiệu học kết hợp với lí thuyết diễn ngôn hiện đang được ứng dụng tại Việt Nam, có triển vọng trong công cuộc nghiên cứu những vấn đề tương tác ngôn ngữ - văn học - văn hóa cũng là một hướng tiếp cận tiểu thuyết sau 1986 với nhiều bài viết: Ngôn ngữ thân thể trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh [59, 370], Biểu tượng nghịch dị trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại [59, 378], Kí hiệu học với những biểu tượng có tính chất huyền thoại trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại [59, 390], Tiếp cận các cặp đối lập biểu ngh a trong tiểu thuyết Việt Nam hiện nay từ góc độ kí hiệu học [59, 397]… Lý thuyết diễn ngôn xem văn học là một diễn 11
- ngôn do các quy tắc mang tính chất ý thức hệ của thời đại qui định. Khi đặt vấn đề nghiên cứu diễn ngôn, đối tượng nghiên cứu không chỉ là ngôn từ mà chủ yếu là các quy tắc tư tưởng chìm sâu - hữu thức hoặc vô thức chi phối quá trình sáng tác của nhà văn. Tiểu thuyết Việt Nam đương đại nhìn từ góc độ diễn ngôn, luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Hải Phương, Những hình thái diễn ngôn mới trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau Đổi mới của tác giả Nguyễn Văn Hùng [29, 169], Văn xuôi các nhà văn nữ thế hệ sau 1975 nhìn từ diễn ngôn giới của tác giả Thái Phan Vàng Anh [21, 189]… đi theo hướng nghiên cứu này. Thi pháp học, tự sự học, kí hiệu học… xuất hiện như là phản ứng lại hướng nghiên cứu xã hội học độc tôn một thời. Trước đây, nghiên cứu văn học chỉ chú ý đến nội dung, mà chủ yếu là cái nội dung xã hội được phản ánh vào tác phẩm, thậm chí cái xã hội bên ngoài mà tác phẩm phản ánh. Phê bình lấy những yếu tố bên ngoài như con người xã hội và tính dục ấu thời của tác giả, trình độ văn hóa - văn minh của thời đại tác giả, tình trạng kinh tế và mâu thuẫn giai cấp của xã hội trong đó tác giả sống, như là các yếu tố đã biết, coi đó là nguyên nhân để nhìn vào tác phẩm, lý giải tác phẩm như là kết quả. Đó chính phê bình tiền hiện đại. Lấy cái ngữ pháp của sự sáng tạo làm đối tượng chiếm lĩnh trung tâm để thám mã văn bản, thi pháp học, cùng với tự sự học, kí hiệu học, cấu trúc luận… chuyển hướng nghiên cứu từ những yếu tố ngoài văn bản: tác giả, thời đại… sang chính bản thân tác phẩm, xóa bỏ sự đối lập nhị nguyên giữa nội dung và hình thức, để tiến tới coi nội dung chính là hình thức, hình thức chính là nội dung. Có thể nói, các phương pháp này đã gạt bỏ được nỗi sợ hãi bị chụp mũ hình thức chủ nghĩa để dòng chảy nghiên cứu văn học được khơi thông. Đó là hướng đi tương thích với đối tượng nghiên cứu là tiểu thuyết Việt Nam sau 1986, cần thiết để nhận diện những cách tân của một giai đoạn tiểu thuyết có sự cách tân mạnh mẽ. Phê bình hiện đại dựa trên lối tiếp cận từ văn bản, đã chiến thắng giòn gi phê bình tiền hiện đại dựa trên lối tiếp cận từ tác giả. Tuy nhiên, bản thân văn bản là một đối tượng tĩnh, nghiên cứu văn bản là nghiên cứu kết quả chứ không nghiên cứu quá trình . Cho nên các công trình nghiên cứu tiểu thuyết sau 1986 từ thi pháp học, tự sự học, kí hiệu học, cấu trúc luận… thích hợp với nghiên cứu tác phẩm, tác giả, nhận diện và khái quát các đặc điểm của một giai đoạn tiểu thuyết hơn là tái hiện, lý giải sự vận động của tiểu thuyết sau 1986. 12
- Vào những năm cuối của thời kì tiền Đổi mới, các phương pháp phê bình ngoại quan, đặc biệt là phương pháp phê bình tiểu sử học, đã mắc cạn ở một số luận điểm nghệ thuật cơ bản trong đó có vấn đề tác giả. Đổi mới và mở cửa đã giúp các nhà nghiên cứu tách được con người sáng tạo ra khỏi con người xã hội. Tác giả thật sự của văn học được xác định là con người sáng tạo chứ không phải là con người xã hội. Trước đây, văn học chỉ dừng lại xem xét tác giả - người sáng tạo này ở phương diện hữu thức, văn học đổi mới còn hướng đến tảng băng trôi - con người vô thức, phần chìm sâu thẳm của con người. Đó chính là mảnh đất cho hướng nghiên cứu tiểu thuyết từ lý thuyết phân tâm học phát triển. Tác giả Trần Thanh Hà với chuyên luận Học thuyết Freud và sự thể hiện của nó trong văn học Việt Nam đã vận dụng hai vấn đề chính trong phân tâm học Freud là tính dục và vô thức để cảm nhận các tiểu thuyết đương đại của Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh. Bài viết Vài đặc điểm văn xuôi Việt Nam hiện đại của Đỗ Ngọc Thạch đã dành số lượng trang viết khá nhiều để tập trung tìm hiểu các tiểu thuyết đầu thế kỉ XXI và chỉ ra đặc điểm của rất nhiều tiểu thuyết: mạnh bạo coi tình dục như lối dẫn vào tâm linh, từ đó thể hiện khát vọng tình yêu, tình dục, khát khao hướng về bản thể [137]. Nhà văn Nguyễn Đình Tú cũng có bài viết Khuynh hướng tính dục trong sáng tác văn học gần đây cho rằng, trong dòng chảy chung của văn học hiện nay, đã và đang xuất hiện khuynh hướng tính dục trong sáng tác văn học. Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng nghiên cứu sâu vấn đề này khi khảo sát trên 20 cuốn tiểu thuyết tiêu biểu trong dòng tiểu thuyết thân xác trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XXI [79]. Ngoài ra có thể kể đến các bài nghiên cứu của Phan Tuấn Anh: Hài hước phồn thực trong văn xuôi Việt Nam sau 1975, của Trần Thanh Hà: Một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại qua cái nhìn phân tâm học… Phân tâm học cũng là hướng khai phá ở cấp độ tác giả, tác phẩm. Khi nghiên cứu Yếu tố vô thức trong tác phẩm Nguyễn Bình Phương, tác giả Hoàng Thị Huế cùng quan điểm với tác giả Nguyễn Thành ở bài viết Khuynh hướng lạ hóa trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại - một số bình diện tiêu biểu, cho rằng Tác phẩm của Nguyễn Bình Phương không thể không nói là có sự ảnh hưởng thuyết phân tâm học của S.Freud [138]. 13
- Trong các công trình nghiên cứu tiểu thuyết sau 1986 từ góc nhìn phân tâm học, công trình công phu, đầy đặn nhất phải kể đến luận án tiến sĩ của tác giả Văn Thị Phương Trang: Tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI từ góc nhìn phân tâm học [104]. Tác giả đã nhận diện, cắt nghĩa ảnh hưởng của phân tâm học với tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn này từ phương diện đề tài: sự sa đọa nhân cách, sự trỗi dậy của bản năng, vô thức…; từ cốt truyện không chú trọng đến các xung đột, tình tiết mà đi vào tâm cảm, nhất là những mâu thuẫn, giằng xé với chính mình; từ nhân vật được nói đến với ba kiểu loại: nhân vật với đời sống vô thức tâm linh, nhân vật với các phức cảm, nhân vật với đời sống tính dục thường ngày; từ các phương thức biểu hiện như biểu tượng, không gian, thời gian nghệ thuật… Tuy nhiên phê bình phân tâm học ở Việt Nam tồn tại dưới hai dạng: 1) Nhà phê bình định giá tác phẩm của nhà văn là sự phóng chiếu những ham muốn vô thức và mặc cảm của họ. Nhà phê bình một mặt phải chứng minh sự phóng chiếu này qua hệ thống biểu tượng, hình tượng, ngôn từ, màu sắc…Mặt khác, phải đi tìm những cứ liệu liên quan đến tiểu sử, các chi tiết đời tư của tác giả để lý giải điều được giả định. 2) Nhà phê bình phân tích một số bình diện nghệ thuật trong tác phẩm (tính cách, tâm lý, ngôn ngữ, hành động của nhân vật…) để chỉ ra khả năng phân tích tâm lý phân tâm của nhà văn. Trong hai dạng trên thì dạng thứ nhất là “chính danh” của phê bình phân tâm học, còn dạng thứ hai chỉ là “thứ danh”. Các công trình nghiên cứu tiểu thuyết sau 1986 nhìn từ phân tâm học chủ yếu vẫn đang ở dạng thứ danh . Mặt khác, phê bình phân tâm học cho phép ứng dụng lên nhiều loại thể văn học khác nhau, không có giới hạn về quy mô tác phẩm. Song đối tượng thích hợp nhất và dễ nhận diện nhất của phân tâm học thường là các sáng tác mang nặng yếu tố tâm lý, tự thuật, nơi cái tôi nói chung và vô thức nói riêng có khe hở tốt nhất để biểu hiện. Điều này đã chỉ ra tiềm năng cũng như giới hạn của hướng phê bình phân tâm nói chung, phê bình phân tâm tiểu thuyết sau 1986 nói riêng. Không lý thuyết nào có thể thay thế được phân tâm học khi khám phá phần vô thức trong sáng tạo của nhà văn nhưng phải thừa nhận rằng, nếu chỉ sử dụng phân tâm học tiểu sử của Freud mà chưa với tới phân tâm học văn bản của Jung, nhất là phân tâm học cấu trúc - ngôn ngữ của Lancan thì phê bình phân tâm học ở Việt Nam khó thích hợp trên một phổ diện rộng lớn như một số phương pháp phê bình khác. Rất khó vận 14
- dụng lí thuyết phân tâm để hình dung khái quát toàn bộ sự vận động của nền tiểu thuyết sau 1986, một giai đoạn tiểu thuyết có sự bùng nổ của nhiều khuynh hướng. Hướng nghiên cứu nữ quyền luận cũng đã được áp dụng để nghiên cứu tiểu thuyết sau 1986. Nữ quyền luận ở Pháp và tiểu thuyết nữ đương đại Việt Nam của Trần Huyền Sâm; Văn học và giới nữ (Một số vấn đề lý luận và lịch sử) do Phùng Gia Thế và Trần Thiện Khanh chủ biên đều có dạng thức dẫn luận về phê bình nữ quyền và lối viết nữ giới, trên cơ sở đó, nghiên cứu ý thức, âm hưởng nữ quyền trong nhiều tác phẩm văn học Việt Nam, trong đó có tiểu thuyết sau 1986. Ngoài ra có thể kể thêm các bài viết: Tính chất tự thuật trong tiểu thuyết nữ Việt Nam đương đại của Trần Huyền Sâm [130]; Tự sự học nữ quyền luận - một nhánh của tự sự học hậu kinh điển của Trần Ngọc Hiếu [112]; Văn học nữ quyền ở Việt Nam của Hiền Nguyễn [124]… Nếu sự hiện diện của văn học nữ tính và âm hưởng nữ quyền là một biểu hiện của dân chủ hóa văn học thì sự xuất hiện của hướng nghiên cứu nữ quyền luận cho thấy sự đa dạng hóa của khoa nghiên cứu văn học gần đây. Bên cạnh đó, rất nhiều hướng nghiên cứu khác được ứng dụng để nghiên cứu tiểu thuyết sau 1986. Khuynh hướng hiện sinh trong tiểu thuyết sau 1986 của Thái Phan Vàng Anh, Những biểu thuật hậu thực dân: Văn học đổi mới như là di sản hậu thuộc của Đoàn Ánh Dương [21, 177]; Yếu tố liên văn bản trong tiểu thuyết lịch sử Giàn thiêu của Võ Thị Hảo của Nguyễn Văn Hùng [21, 353]; Nguyên lí đối thoại trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010 của Lê Thị Thúy Hằng [102]… thể hiện nỗ lực khám phá tiểu thuyết sau 1986 từ sự đa dạng của lý thuyết tiếp nhận. Mỗi hướng tiếp cận đem đến những phát hiện mới về tiểu thuyết Việt Nam sau 1986. Tuy nhiên, bản thân tên gọi của các lý thuyết tiếp cận này đã nói lên đối tượng đặc thù và khu biệt của nó. Đề cập đến tiếp cận tiểu thuyết sau 1986, không thể không đề cập đến hướng tiếp cận theo các lý thuyết hậu hiện đại. Cùng với việc dịch thuật, giới thiệu lý thuyết hậu hiện đại, việc đặt vấn đề nghiên cứu thực tiễn văn học hậu hiện đại ở Việt Nam đã thu hút sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu văn học và là tiền đề lý thuyết của rất nhiều công trình nghiên cứu về tiểu thuyết sau 1986. Ba bài nghiên cứu: Những dấu hiệu của chủ ngh a hậu hiện đại trong văn học Việt Nam qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài (Lã Nguyên); Những yếu tố hậu hiện 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến 2010
175 p | 171 | 44
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Đặc trưng thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại
160 p | 214 | 41
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI từ góc nhìn phân tâm học
156 p | 172 | 37
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam
177 p | 151 | 35
-
Luận án Tiến sĩ Văn học: Ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại đối với tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010
182 p | 170 | 35
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ Loạn
158 p | 149 | 30
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam hiện đại
156 p | 135 | 25
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Đặc điểm hồi ký văn học Việt Nam từ 1975 đến 2010
158 p | 111 | 14
-
Luận án Tiến sĩ Văn học: Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX dưới góc độ giới
187 p | 48 | 13
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Giá trị văn hóa trong tác phẩm của Nguyễn Văn Xuân
162 p | 20 | 12
-
Luận án Tiến sĩ Văn học: Thi pháp thơ lục bát hiện đại (qua một số trường hợp tiêu biểu)
162 p | 41 | 10
-
Luận án Tiến sĩ Văn học: Tiểu thuyết Việt Nam đương đại nhìn từ lý thuyết liên văn bản
168 p | 30 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Đặc điểm nghệ thuật nhóm sử thi Dăm Giông
204 p | 122 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Nguyên lí đối thoại trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010
27 p | 113 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Đặc điểm nhân vật dũng sĩ trong truyện cổ tích và sử thi một số dân tộc thiểu số Tây Nguyên
219 p | 39 | 7
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Đặc điểm nghệ thuật nhóm sử thi Dăm Giông
52 p | 138 | 5
-
Luận án Tiến sĩ Văn học: Xu hướng cách tân nghệ thuật trong thơ nữ Việt Nam đương đại (Qua các tác phẩm của một số nhà thơ tiêu biểu)
172 p | 52 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Đặc điểm nhân vật dũng sĩ trong truyện cổ tích và sử thi một số dân tộc thiểu số Tây Nguyên
27 p | 11 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn