Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Ảnh hưởng của điện thoại thông minh đến giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tuổi vị thành niên trong gia đình nông thôn hiện nay (Nghiên cứu trường hợp tại xã Tú Sơn, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng)
lượt xem 25
download
Luận án tìm hiểu việc sử dụng điện thoại thông minh và ảnh hưởng của nó đến giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tuổi vị thành niên trong gia đình nông thôn hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo luận án để nắm chi tiết nội dung nghiên cứu.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Ảnh hưởng của điện thoại thông minh đến giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tuổi vị thành niên trong gia đình nông thôn hiện nay (Nghiên cứu trường hợp tại xã Tú Sơn, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng)
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG THỊ HÀ TRANG ẢNH HƯỞNG CỦA ĐIỆN THOẠI THÔNG MINH ĐẾN GIAO TIẾP GIỮA CHA MẸ VÀ CON CÁI TUỔI VỊ THÀNH NIÊN TRONG GIA ĐÌNH NÔNG THÔN HIỆN NAY (NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TẠI XÃ TÚ SƠN, HUYỆN KIẾN THỤY, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG) LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC Hà Nội - 2018
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG THỊ HÀ TRANG ẢNH HƯỞNG CỦA ĐIỆN THOẠI THÔNG MINH ĐẾN GIAO TIẾP GIỮA CHA MẸ VÀ CON CÁI TUỔI VỊ THÀNH NIÊN TRONG GIA ĐÌNH NÔNG THÔN HIỆN NAY (NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TẠI XÃ TÚ SƠN, HUYỆN KIẾN THỤY, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG) Ngành: Xã hội học Mã số: 8.31.03.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LÊ NGỌC VĂN Hà Nội - 2018
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn “Ảnh hưởng của điện thoại thông minh đến giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tuổi vị thành niên trong gia đình nông thôn hiện nay – nghiên cứu trường hợp tại xã Tú Sơn, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng” hoàn toàn do tôi thực hiện. Các trích dẫn và số liệu được sử dụng trong luận văn được dẫn nguồn chính xác trong phạm vi nghiên cứu và hiểu biết của tôi. Tác giả luận văn Đặng Thị Hà Trang
- LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn thạc sỹ này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Khoa Xã hội học – Học viện khoa học xã hội đã giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành chương trình học cao học. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc, chân thành PGS.TS. Lê Ngọc Văn đã dành rất nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu và giúp em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Tôi xin cảm ơn Ủy ban nhân dân xã Tú Sơn, huyện Kiến Thụy, TP. Hải Phòng đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi tiếp xúc với người dân ở đây để điều tra khảo sát và sử dụng dữ liệu để viết luận văn. Nhân đây, tôi xin cảm ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã giúp đỡ và bên cạnh tôi suốt thời gian qua, để tôi hoàn thành tốt luận văn này. Mặc dù tôi đã cố gắng để hoàn thiện luận văn bằng cả sự nhiệt tình và năng lực. Tuy nhiên không thể tránh khỏi thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp quý báu của quý thầy cô. Xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 8 năm 2018
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU................................................................................................... 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI.............. 24 1.1 Cơ sở lý luận....................................................................................... 24 1.2. Cở sở thực tiễn ................................................................................... 31 Chương 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG ĐIỆN THOẠI THÔNG MINH CỦA CHA MẸ VÀ CON CÁI TUỔI VỊ THÀNH NIÊN TRONG GIA ĐÌNH NÔNG THÔN HIỆN NAY.......................................................... 33 2.1 Tần suất sử dụng điện thoại thông minh của cha mẹ và con cái tuổi vị thành niên trong gia đình nông thôn hiện nay ............................................. 34 2.2 Tần suất giao tiếp giữa cha mẹ và con cái trước và sau khi sử dụng điện thoại thông minh....................................................................................... 38 2.3 Thái độ giao tiếp giữa cha mẹ và con cái trước và sau khi sử dụng điện thoại thông minh....................................................................................... 43 2.4 Những yếu tố tác động đến giao tiếp giữa cha mẹ và con cái ................. 46 Chương 3: TÁC ĐỘNG CỦA ĐIỆN THOẠI THÔNG MINH ĐẾN GIAO TIẾP GIỮA CHA MẸ VỚI CON CÁI VỊ THÀNH NIÊN TRONG GIA ĐÌNH NÔNG THÔN HIỆN NAY........................................................... 52 3.1 Tác động tích cực của việc sử dụng điện thoại thông minh đến giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tuổi vị thành niên trong gia đình nông thôn hiện nay 54 3.2 Tác động tiêu cực của việc sử dụng điện thoại thông minh đến giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tuổi vị thành niên trong gia đình nông thôn hiện nay 64 KẾT LUẬN ............................................................................................. 68 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 71
- DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ Bảng 2.1:Tần suất sử dụng điện thoại của cha mẹ và trẻ vị thành niên trong một ngày .................................................................................................. 34 Biểu đồ 2.1: Tần suất sử dụng điện thoại thông minh của cha mẹ và trẻ vị thành niên trong một ngày ......................................................................... 35 Bảng 2.2: Tần suất và mục đích cha mẹ sử dụng các tiện ích của điện thoại thông minh ............................................................................................... 36 Bảng 2.3: Tần suất và mục đích trẻ vị thành niên sử dụng các tiện ích......... 37 của điện thoại thông minh ......................................................................... 37 Bảng 2.4: Tần suất cha mẹ trò chuyện với con cái ...................................... 39 Bảng 2.5: Tần suất cha mẹ chia sẻ với con cái về các lĩnh vực .................... 41 Bảng 2.7: Thái độ của con cái khi cha mẹ chia sẻ về các lĩnh vực ............... 43 Bảng 2.8 Mối liên hệ giữa thu nhập của cha mẹ trong một tháng với tần suất cha mẹ trò truyện với con cái..................................................................... 46 Bảng 2.9 Mối liên hệ giữa trình độ học vấn của cha mẹ với tần suất cha mẹ trò truyện với con cái ................................................................................ 48 Bảng 13: Mối liên hệ giữa nghề nghiệp của cha mẹ với tần suất cha mẹ trò truyện với con cái ..................................................................................... 49 Bảng 3.1 Mức độ cần thiết của việc sử dụng điện thoại thông minh............. 52 trong giao tiếp giữa cha mẹ với con cái hiện nay ........................................ 52 Bảng 3.2 Mức độ ảnh hưởng của việc sử dụng điện thoại thông minh đến giao tiếp giữa cha mẹ với con cái ...................................................................... 55 Bảng 3.3 Mối quan hệ giữa mức độ ảnh hưởng của điện thoại thông minh với tần suất cha mẹ liên hệ với con cái về một số lĩnh vực ................................ 57 Bảng 3.4 Nơi trẻ vị thành niên tìm kiếm sự trợ giúp khi gặp một số vấn đề về giới tính, sức khỏe sinh sản, học tập, vui chơi giải trí.................................. 60
- Bảng 3.5 Mối liên hệ giữa tần suất và mức độ cần thiết con cái trò chuyện với cha mẹ về một số vấn đề thông qua điện thoại thông minh.......................... 61 Bảng 3.6 Sử dụng điện thoại thông minh lấy đi thời gian giao tiếp giữa cha mẹ và con cái............................................................................................ 64 Bảng 3.7 Sử dụng điện thoại thông minh làm rạn nứt tình cảm của con cái với cha mẹ...................................................................................................... 65
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Giao tiếp là quá trình truyền đạt, tiếp nhận và trao đổi thông tin nhằm thiết lập các mối liên hệ giữa con người với con người. Một trong những cách phân loại giao tiếp là giao tiếp trực tiếp và giao tiếp gián tiếp (qua người khác hoặc qua một phương tiện kỹ thuật nào đó). Hiện nay, vấn đề giao tiếp thông qua điện thoại thông minh đang được quan tâm và có những ý kiến khác nhau về vấn đề này. Richard Ling (2014) cho rằng điện thoại thông minh làm thay đổi cách mọi người giao tiếp [34]. Marilyn Campbell (2005) cho biết thanh niên sử dụng điện thoại thông minh để tạo ra một xã hội năng động và có mạng lưới chặt chẽ, cho phép các thành viên có thể liên lạc với các thành viên khác trong nhóm [32]. Kerry Devitt, Debi Roker (2009) cho rằng việc sử dụng điện thoại thông minh khiến cho một số người trẻ thu mình vào thế giới xã hội của chính họ, hoặc có cảm giác an toàn giả [31]… Như vậy, sự xuất hiện của điện thoại thông minh có ảnh hưởng đến việc giao tiếp khi sử dụng thiết bị kỹ thuật số này. Chính vì vậy, ảnh hưởng của điện thoại thông minh đến vấn đề giao tiếp rất đáng được quan tâm và nghiên cứu. Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái là một trong những mối quan hệ có ảnh hưởng quan trọng nhất và có ý nghĩa nhất trong cuộc sống của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, con cái ở độ tuổi vị thành niên có nhiều thay đổi về tâm sinh lý đòi hỏi cha mẹ cần có những quan tâm đặc biệt đến con cái ở độ tuổi này. Chính vì sự thay đổi này, các em tò mò nhiều hơn về cơ thể của bản thân, nên nhu cầu tìm kiếm thông tin về bản thân được đặt ra. Liệu trẻ vị thành niên có giao tiếp với cha mẹ để tìm hiểu những thông tin về bản thân, về giới tính, về tâm tư tình cảm tuổi mới lớn? Ngoài ra, ở lứa tuổi này việc học tập và vui chơi giả trí cũng cần được quan tâm sát sao. Việc giao tiếp giữa cha mẹ và con cái không chỉ giúp cha mẹ thực hiện chức năng xã hội hóa con cái mà còn 1
- thực hiện chức năng gắn kết tình cảm giữa các thành viên trong gia đình. Dưới sự xuất hiện và sử dụng rộng rãi điện thoại thông minh có tác động đến giao tiếp giữa cha mẹ và con cái như thế nào? Liệu việc sử dụng điện thoại thông minh có làm rạn nứt mối quan hệ giữa cha mẹ với con cái, làm phá vỡ các chức năng của gia đình hay không? Đây là một vấn đề không chỉ thuộc lĩnh vực quan tâm của xã hội học gia đình mà còn là sự quan tâm nghiên cứu của xã hội học truyền thông. Hiện nay, vấn đề này đã được một số nhà khoa học trên thế giới tìm hiểu và nghiên cứu, tuy nhiên ở Việt Nam vẫn chưa có nhiều nghiên cứu liên quan về vấn đề này mà chủ yếu là những bài báo, bài viết chưa được nghiên cứu đi sâu và cụ thể. Ở Việt Nam có rất ít những nghiên cứu liên quan về vấn đề ảnh hưởng của điện thoại thông minh đến giao tiếp giữa cha mẹ và con cái, một vài nghiên cứu cũng có đề cập đến vấn đề này nhưng chủ yếu là những nghiên cứu mô tả chưa đi sâu nói lên bản chất của hiện tượng xã hội này. Sự xuất hiện và du nhập của thiết bị công nghệ hiện đại – điện thoại thông minh khiến người ta nghĩ ngay đến khu vực đô thị, nơi tiếp nhận nhanh chóng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Chính vì vậy, có những nghiên cứu đã tìm hiểu và nghiên cứu về ảnh hưởng của điện thoại thông minh đến giao tiếp của người dân đô thị mà chưa có ai nghiên cứu vấn đề này của người dân nông thôn. Theo báo cáo Hành vi người dùng điện thoại thông minh của Nielsen Việt Nam (2017), điện thoại thông minh không còn là một hiện tượng mới lạ đối với thị trường Việt Nam, điều này có thể thấy rõ thông qua tỉ lệ sở hữu thiết bị di động thông minh đã tăng lên rõ rệt trên khắp đất nước trong suốt 5 năm qua. Cụ thể, tỉ lệ người sử dụng điện thoại thông minh so với số lượng những người sử dụng điện thoại thông thường chiếm 84% vào năm 2017, tăng 10% so với một năm trước (78%). Ở các thành phố thứ cấp, 71% người dân sử dụng điện thoại thông minh trong số 93% người sử dụng điện thoại di động. Đáng chú ý hơn, ở khu vực nông thôn, trong khi 89% dân số sử 2
- dụng điện thoại di động, thì đã có 68% trong số đó sở hữu 1 chiếc điện thoại thông minh [35]. Như vậy cho thấy, không chỉ người dân đô thị mới sử dụng điện thoại thông minh mà tỷ lệ người dân nông thôn sử dụng điện thoại thông minh cũng rất cao. Khu vực nông thôn Việt Nam hiện nay đang diễn ra quá trình đô thị hóa rất nhanh dẫn đến sự thay đổi của lối sống, văn hóa, .. của người dân nông thôn. Đề tài lựa chọn địa bàn nghiên cứu là xã Tú Sơn, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng vì đây là xã đáp ứng được yêu cầu chọn mẫu nghiên cứu của đề tài: Thứ nhất, đây là xã đang trong quá trình đô thị hóa và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội rõ ràng. Thứ hai, xã này cũng đáp ứng được mẫu thực nghiệm và mục tiêu nghiên cứu của đề tài. Chính vì những lý do trên, học viên chọn đề tài nghiên cứu là : Ảnh hưởng của điện thoại thông minh đến giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tuổi vị thành niên trong gia đình nông thôn hiện nay – nghiên cứu trường hợp tại xã Tú Sơn, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Tổng quan này là phân tích, đánh giá các công trình nghiên cứu, các bài viết liên quan đến đề tài “Ảnh hưởng của điện thoại thông minh đến giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tuổi vị thành niên trong gia đình nông thôn hiện nay” đã được công bố trong và ngoài nước, chỉ ra những đóng góp của các tác giả đi trước mà luận văn cần tiếp thu kế thừa, cũng như những hạn chế và khoảng trống mà luận văn cần đi sâu nghiên cứu. Từ đó, xác định mục tiêu, nội dung, phương pháp, câu hỏi, giả thuyết nghiên cứu của đề tài. 2.1 Tình hình nghiên cứu trên thế giới 2.1.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu về điện thoại thông minh Cùng với sự phát triển của khoa học, đời sống của con người ngày càng được nâng cao, nhu cầu đảm bảo sức khỏe được quan tâm không chỉ là sức khỏe thể chất mà cả sức khỏe tinh thần. Trong điều kiện đó, nhiều nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm hiểu xem điện thoại thông minh tác động như thế 3
- nào đến đời sống xã hội của người sử dụng. Nhiều nghiên cứu về những nhân tố dẫn đến sự thay đổi trong đời sống xã hội đã chỉ ra vai trò của điện thoại thông minh, phương tiện thông tin liên lạc mới hiện nay …. Một số nghiên cứu điển hình như: Cuốn The Cell Phone's Impact on Society (Kết nối Điện thoại thông minh: Tác động của điện thoại thông minh trong xã hội) của Richard Ling (2004) được đánh giá là một cuốn sách mà bất cứ ai quan tâm đến việc đánh giá các tác động xã hội của việc sử dụng điện thoại thông minh cần nghiên cứu và tìm hiểu. Cuốn sách của Richard Ling, thông qua những mô tả chi tiết và phân tích của một số nghiên cứu, cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc có giá trị về tác động của khoa học và công nghệ làm thay đổi động lực xã hội của người dân trong đời sống công cộng, chỉ ra việc sử dụng điện thoại thông minh đã làm thay đổi cách thức giao tiếp của con người. Điện thoại thông minh không chỉ là một sự đổi mới kỹ thuật hay là xu hướng xã hội. Cuốn sách này, dựa trên nghiên cứu trên toàn thế giới liên quan đến hàng chục nghìn cuộc phỏng vấn và quan sát theo ngữ cảnh, nhìn vào tác động của điện thoại trong cuộc sống hàng ngày của con người. Dựa trên nghiên cứu tiến hành trên hàng chục quốc gia, cuốn sách đã xem xét sự tương tác giữa con người với điện thoại thông minh…. Các cuộc thảo luận hấp dẫn và dự báo về tương lai của điện thoại sẽ cung cấp cho các nhà nghiên cứu ở khắp mọi nơi một quá trình thông tin xác thực hơn, đồng thời cung cấp cho các nhà nghiên cứu những ý tưởng mới. Cuốn sách gồm 8 chương với các nội dung quan trọng làm sáng tỏ mối quan hệ giữa điện thoại thông minh và con người. Trong đó, trọng tâm của Chương 5 đề cập đến việc thông qua điện thoại thông minh, thanh thiếu niên được tạo điều kiện cho các tương tác xã hội của họ. Thông qua quan điểm văn hóa, Richard Ling nhấn mạnh việc thanh thiếu niên sử dụng điện thoại thông minh để tạo ra một xã hội năng động và có mạng lưới chặt chẽ, cho phép các thành viên có thể liên lạc với các thành viên khác của nhóm "bất cứ lúc nào bất cứ nơi nào – cho bất cứ lý 4
- do nào". Trong chương này ông cũng cho rằng có lẽ nhóm thanh thiếu niên, nhiều hơn bất kỳ nhóm nào khác, đã sử dụng điện thoại thông minh để duy trì và phát triển mạng xã hội. [34] Đề tài nghiên cứu: “Tác động của điện thoại thông minh đến đời sống xã hội của giới trẻ” của nhà tâm lý học Marilyn Campbell (2005) thuộc trường đại học công nghệ Queensland đã chỉ ra vị trí quan trọng của điện thoại thông minh trong cuộc sống của thanh niên hiện nay. Tác giả khẳng định, Điện thoại thông minh trong thực tế đã chuyển từ một công cụ công nghệ thành một công cụ xã hội. Điện thoại thông minh có những tác động cả tích cực và tiêu cực đến các mối quan hệ bạn bè, các mối quan hệ gia đình và quan hệ trong nhà trường. Tác động tích cực của điện thoại thông minh là động lực dẫn đến thay đổi trong gia đình, về các vấn đề như đảm bảo an toàn cho con cái và giúp bố mẹ giám sát, quản lý con cái: cha mẹ thay đổi cách nhìn nhận vấn đề tự do giao tiếp của con cái. Một số tác động tiêu cực của điện thoại thông minh như: phát sinh những khó khăn tài chính, sao nhãng việc học tập; hành vi gian lận và bắt nạt nảy sinh thông qua điện thoại thông minh…[32] Cuốn sách Magic in the Air: Mobile Communication and the Transformation of Social Life (Ma thuật trong không khí: truyền thông di động và các chuyển đổi của cuộc sống xã hội) của James Everett Katz (2006) là phân tích trên phạm vi rộng nhất của thông tin di động từ trước cho đến nay. Nó phản ánh các khía cạnh xã hội từ sự tác động của điện thoại thông minh làm nổi lên vai trò của nó trong cuộc sống hàng ngày. Tác giả phát hiện ra rằng điện thoại thông minh cung cấp nhiều lợi ích cho người sử dụng, và một số những lợi ích này là cần thiết. Ông cũng khẳng định điện thoại thông minh không hoàn toàn chỉ có tác động tích cực. Sau khi xem xét ông vạch ra một số bước để cải thiện tác động tiêu cực của điện thoại thông minh. Tác giả cũng thảo luận về việc sử dụng và lạm dụng điện thoại thông minh trong môi 5
- trường giáo dục, nơi ông tìm thấy rằng việc sử dụng điện thoại gây ra sự mất tập trung của học sinh trong lớp học; còn là phương tiện khiến học sinh có hành vi gian lận trong các kì thi... Cha mẹ không còn phản đối việc con cái của họ có điện thoại thông minh trong lớp học, thay vào đó họ đang gây sức ép yêu cầu nhà trường thay đổi quy định cho phép học sinh có điện thoại trong lớp học. Tác giả cũng cho thấy giáo viên đang ngày càng lạm dụng điện thoại trong lớp học, thậm chí làm gián đoạn bài giảng của mình để trả lời những cuộc gọi quan trọng. [30] Trong bài viết “The Role of Mobile Phones in Family Communication” (Vai trò của điện thoại di động trong truyền thông gia đình) đăng trên Tạp chí trẻ em và xã hội, tập 23, số 3, Trang 189-202 của tác giả Kerry Devitt, Debi Roker cho rằng : trong khi có rất nhiều nghiên cứu về truyền thông gia đình và các mối quan hệ gia đình, có rất ít thông tin về việc liệu (và nếu như vậy) điện thoại di động đã tác động như thế nào đến các mối quan hệ này. Nghiên cứu của các tác giả liên quan đến cuộc phỏng vấn bán cấu trúc với 60 gia đình, bao gồm cả cha mẹ/ người chăm sóc và thanh niên từ 11–17 tuổi. Các cuộc phỏng vấn đã cho thấy cách điện thoại di động được sử dụng trong giao tiếp gia đình; quan điểm của người tham gia về lợi ích và bất lợi của việc sử dụng điện thoại di động; và các vấn đề về an toàn, giám sát và bảo mật. Những phát hiện này cho thấy rằng những người trẻ tuổi và cha mẹ thấy điện thoại di động là một cách quan trọng để các gia đình giữ liên lạc, và theo dõi và đảm bảo sự an toàn của giới trẻ. Tuy nhiên, một số người tham gia cảm thấy có một nhược điểm, liên quan đến một số người trẻ thu mình vào thế giới xã hội của chính họ, hoặc có cảm giác an toàn giả là kết quả của việc có một thiết bị di động. Sự khác biệt về giới trong quan điểm và cách sử dụng cũng được tìm thấy. [31] Bài viết “Impact of parents mobile device use on parent-child interaction” (Tác động của việc sử dụng thiết bị di động của cha mẹ đối với 6
- tương tác cha-con) đăng trong Tạp chí Máy tính trong hành vi con người, tập 75 số phát hành C, tháng 10/2017, trang 579-593. Bài viết này đã cung cấp những thông tin khái quát về sự tác động của thiết bị di động đến cha mẹ trong quá trình chăm sóc con cái và kết quả của sự tác động này lên mối quan hệ cha-con. Đánh giá này được tiến hành trên các tài liệu được công bố đến tháng 11/2016, 27 nguồn đã được xác định. Việc cha mẹ sử dụng điện thoại một cách thường xuyên để liên lạc làm cho họ bị phụ thuộc vào thiết bị di động. Điều này làm tăng khả năng phá vỡ các tương tác cha - con bởi thiết bị di động. Cha mẹ bị phân tâm bởi điện thoại di động dẫn đến giảm tần suất tương tác và trở nên nhạy cảm với con cái của họ hơn. Trẻ em tham gia vào các hành vi nguy hiểm trong khi cố gắng lấy lại sự chú ý của cha mẹ. Việc sử dụng điện thoại di động có nguy cơ góp phần gây nên các xung đột gia đình. Có thể thấy đã có khá nhiều nghiên cứu trên thế giới về tác động của việc sử dụng điện thoại thông minh đến đời sống của con người. Những nghiên cứu này là những tài liệu quan trọng cho những nghiên cứu tiếp sau về điện thoại thông minh. Tuy nhiên các nghiên cứu mang tính bao quát, đánh giá những yếu tố ảnh hưởng trên một bình diện rộng, vì thế chưa chỉ ra những biến đổi cụ thể đối với đối tượng riêng, trên một phương diện nhất định nào đó. Dựa trên những kết quả của những nghiên cứu trước đó, tác giả luận văn thực hiện đề tài nhằm đưa ra những nhận định cụ thể về tác động của việc sử dụng điện thoại thông minh đối với một đối tượng cụ thể là trẻ vị thành niên, từ đó đưa ra những kiến nghị và giải pháp phù hợp cho đối tượng mà nghiên cứu đề cập đến. [28] 2.1.2 Tổng quan tình hình nghiên cứu về giao tiếp giữa cha mẹ và con cái Nghiên cứu “Ease of communication between Icelandic children and their parents among the greatest in the world” của Tổ chức Y tế Thế giới đã nghiên cứu giao tiếp của trẻ em Iceland với cha mẹ các em. Nghiên cứu cho thấy trẻ em ở Iceland dễ dàng nói chuyện với cha mẹ, những người cha ở Icelend đã đứng đầu danh sách trong việc giao tiếp dễ dàng với cả con trai và 7
- con gái. Báo cáo ghi nhận giao tiếp của cha mẹ rất quan trọng đối với sự an toàn và sức khỏe của trẻ em, hoạt động như một “cổng thông tin quan trọng” trong đó gia đình đóng vai trò như một tài sản bảo vệ sức khỏe, trang bị cho thanh thiếu niên để đối phó với các tình huống căng thẳng và giúp chúng chống lại các ảnh hưởng xấu… Giao tiếp với cha mẹ cũng làm giảm những tác động tiêu cực của việc sử dụng phương tiện điện tử của các trẻ trong độ tuổi thanh thiếu niên. Nghiên cứu còn cho biết, thanh thiêu niên ở Icelend gần gũi với mẹ hơn. Mặc dù người cha có mối quan hệ đặc biệt với con cái, trẻ em và thanh niên lại dễ dàng tìm cách nói chuyện với mẹ hơn. [22] Nghiên cứu “Consistencies and Discrepancies in Communication Between Parent and Teenage Children About Sexuality” trong bài báo của Teresita María Sevilla, Juan Pablo Sanabria, Linda Teresa Orcasita, Diana Marcela Palma Pontificia Universidad Javeriana de Cali, Colombia cũng đã đề cập đến vấn đề gia đình là một trong những tác nhân xã hội quan trọng trong giáo dục giới tính của trẻ ở tuổi vị thành niên. Tuy nhiên, có những rào cản giao tiếp trong gia đình. Nghiên cứu này cũng mô tả và tìm hiểu quá trình mà cha mẹ và trẻ vị thành niên giao tiếp về vấn đề tình dục. [32] Từ quan điểm xã hội học, Martine Segalen [33] tập hợp được các kết quả nghiên cứu giao tiếp giữa cha mẹ và con cái ở khu vực Tây Âu thông qua điện thoại di động. Con cái khi được sở hữu điện thoại di động đã được giải phóng khỏi sự kiểm soát của cha mẹ, nhưng lại có thể liên hệ được tại mọi thời điểm. Khi xuất hiện internet, trẻ em lại có thêm trợ thủ để kết nối với bạn bè, chơi game hoặc tìm kiếm thông tin cho việc học hành, đến lúc này chúng được gọi là nhóm trẻ em “tự do có giám sát”, chúng vẫn ngồi nhà trong sự giám sát của cha mẹ nhưng thực sự internet và điện thoại di động đã làm vỡ tung bốn bức tường hiện hữu, chúng “đi ra ngoài” theo lối riêng của chúng. Nghiên cứu tập trung vào sự thay đổi kiểm soát của cha mẹ đối với con cái khi có sự xuất hiện của điện thoại di động và internet nhưng chưa nghiên cứu 8
- sâu về vấn đề giao tiếp giữa cha mẹ và con cái thông qua điện thoại như thế nào. Tác giả cũng chưa đi sâu vào ảnh hưởng của điện thoại thông minh đến giao tiếp giữa cha mẹ và con cái. Tác giả Steven Martino và cộng sự đã nghiên cứu thực nghiệm “ Trò chuyện với trẻ em về giới tính, tình dục”. Mục tiêu của thực nghiệm là đánh giá mức độ trò chuyện giữa bố mẹ và các em về vấn đề giới tính, tình dục và ảnh hưởng của nó đến mức độ gần gũi, thân mật của con cái với bố mẹ. các nhà thực nhiệm tiến hành mời 320 thiếu niên tham gia trả lời câu hỏi về vấn đề trên. Mặt khác, tác giả cũng đề nghị các nghiệm thể đánh giá về mức độ gần gũi của mình với cha mẹ qua một bộ bảng hỏi. Qua nghiên cứu tác giả cho biết, với nhóm các em thường xuyên nói chuyện với cha mẹ mình về vấn đề giới tính, tình dục thì các em luôn có xu hướng gần gũi với cho mẹ hơn. Đặc biệt, một số em cảm thấy cha mẹ giống như những người bạn đáng tin cậy thực sự. Do đó, những em này có thể bày tỏ mọi vướng mắc xung quanh vấn đề giới tính một cách dễ dàng. Trong khi đó, với nhóm những em ít nói chuyện này với cha mẹ, các em luôn có xu hướng không muốn thổ lộ những vướng mắc của mình. Các em cũng gặp khó khăn nhiều hơn trong giải quyết những vấn đề cá nhân của mình. Như vậy, giao tiếp chữa cha mẹ và con cái về vấn đề giới tính, tình dục cũng đã được các nhà nghiên cứu quan tâm, kết quả nghiên cứu cho thấy giao tiếp giữa cha mẹ và con cái về vấn đề này ảnh hưởng lớn đến mức độ gần gũi và thân mật giữa cha mẹ và con cái. Trên thế giới cũng đã có những nghiên cứu về giao tiếp giữa cha mẹ và con cái, tuy nhiên các nghiên cứu trên cũng chưa đi tìm hiểu cụ thể giao tiếp giữa cha mẹ và con cái ở độ tuổi vị thành niên trong gia đình nông thôn 2.2 Tình hình nghiên cứu trong nước 2.2.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu về điện thoại thông minh Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về điện thoại thông minh cũng như về công nghệ thông tin. Còn ở Việt Nam, chưa có công trình lớn nào 9
- nghiên cứu về vấn đề này, mới chỉ xuất hiện phổ biến dưới hình thức bài báo, bài viết và phân tích ở mức phổ thông nhất. Tuy nhiên, những bài viết này cũng đã cung cấp những kiến thức, thống kê cần thiết cho con người. Cụ thể: Phân tích một cách tổng quát, bao gồm mọi vấn đề xoay quanh tác động của công nghệ đến mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội, phải nhắc đến cuốn “Khoa học và công nghệ Việt Nam 2016” của Bộ Khoa học và Công nghệ, Nxb Khoa học và Kỹ thuật. Trong cuốn này, các tác giả (thuộc ban biên soạn) phân tích về các vấn đề sau của khoa học công nghệ: Định hướng phát triển khoa học và công nghệ; Quản lý Nhà nước về khoa học và công nghệ; nguồn lực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; kết quả hoạt động khoa học và công nghệ; giải thưởng khoa học và công nghệ; cách mạng công nghiệp 4.0. Đặc biệt, trong phần Cách mạng công nghiệp 4.0, nhóm tác giả tập trung phân tích tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 (cụ thể là công nghệ thông tin và truyền thông) đến các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cụ thể: công nghệ thông tin và truyền thông tác động ở lĩnh vực sản xuất, kinh doanh (tạo ra các sản phẩm đầu ra được tùy biến cá nhân và sản xuất tại chỗ; tạo ra những mặt trận cạnh tranh mới; tái định nghĩa chuỗi giá trị trong các mô hình kinh doanh và yêu cầu nhân lực có tư duy đa ngành); công nghệ thông tin và truyền thông tác động ở phạm vi quốc gia (tác động đối với Chính phủ; đối với kinh doanh/ doanh nghiệp; đối với người dân; đối với thị trường lao động; đối với giáo dục và đối với an ninh quốc phòng); tác động ở phạm vi toàn cầu (tác động đến tương quan sức mạnh toàn cầu; đẩy nhanh hơn tiến trình chuyển sang kinh tế tri thức – thông minh; làm thay đổi tư duy và tổ chức lại các chuỗi sản xuất – giá trị; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động – xã hội) [3]. Trong đề tài “Giao tiếp trong gia đình đô thị dưới ảnh hưởng của điện thoại thông minh” của tác giả Nguyễn Hà Vy cũng đã chỉ ra thực trạng giao tiếp giữa cha mẹ và con cái trong gia đình đô thị, thực trạng sử dụng và ảnh hưởng của điện thoại thông minh đến giao tiếp của gia đình đô thị. Đề tài đã 10
- vận dụng ba lý thuyết để nghiên cứu và làm rõ vấn đề đó là: Thứ nhất, lý thuyết Xã hội học gia đình; Thứ hai, lý thuyết về truyền thông; Thứ ba, lý thuyết lối sống đô thị. Đề tài đã có những kết luận sau: Trong gia đình đô thị hiện nay, trung bình mỗi ngày một người dành 5 tiếng đồng hồ cho việc sử dụng điện thoại thông minh. Trong khi cha mẹ có thể dùng điện thoại thông minh bất cứ lúc nào thì con cái bị giới hạn bởi thời gian học tập, chỉ thường dùng điện thoại thông minh sau giờ học tập. Tuy vậy, thời gian mà con cái sử dụng điện thoại thông minh lại nhiều hơn cha mẹ (con cái sử dụng điện thoại thông minh 6 -7 tiếng/ngày, cha mẹ sử dụng điện thoại thông minh khoảng 3- 4 tiếng/ngày). Mục đích dùng điện thoại thông minh chủ yếu là cho việc giải trí, ngoài ra còn để hỏi thăm mọi người và phục vụ cho học tập – làm việc. Điện thoại thông minh có tác động cả tích cực và tiêu cực đến giao tiếp của gia đình đô thị nhưng mặt tích cực nhiều hơn. Nhịp sống hối hả tại các đô thị làm giảm thời gian giao tiếp của cha mẹ - con cái với nhau, nhưng cũng nhờ nó mà cha mẹ - con cái thuận tiện hơn trong việc liên lạc với nhau để chia sẻ thông tin và tình cảm. Giao tiếp giữa cha mẹ - con cái ngày càng ít trực tiếp hơn do sử dụng điện thoại thông minh, hình thức gián tiếp thông qua điện thoại thông minh chiếm thời gian lớn trong giao tiếp giữa cha mẹ - con cái Các thành viên trong gia đình thuận tiện hơn khi trao đổi với nhau và cũng cảm thấy có tính riêng tư khi trao đổi qua điện thoại. Các thành viên trong gia đình cũng lo ngại việc sử dụng điện thoại thông minh làm thời gian giao tiếp trực tiếp giảm đi, cha mẹ - con cái xa cách hơn trước, và đặc biệt là các bậc phụ huynh lo lắng con mình sẽ bị nghiệm game online hay mạng xã hội, lười làm việc nhà. Vấn đề về sức khoẻ thể lực và thị lực cũng được quan tâm. Những điều lo ngại này các em học sinh cũng có quan tâm nhưng ở mức độ chưa cao. Một bức tường vô hình đã được dựng lên mà các em chưa thật sự cảm nhận được hết, khi các thành viên trong gia đình chỉ thích thú với điện thoại thông minh thì chất lượng giao tiếp trực tiếp đã giảm đi rất nhiều. Sự 11
- hiện diện của điện thoại thông minh đã tạo ra một lối sống mới cho gia đình đô thị mà gia đình nông thôn không thể có, đó là giao tiếp gián tiếp qua điện thoại thông minh. Cho dù là trao đổi về nội dung giáo dục, chia sẻ niềm vui, khó khăn thảo luận với nhau để cùng nghỉ ngơi giải trí thì cũng có thể thông qua điện thoại thông minh để trao đổi được, không nhất thiết phải ngồi lại cùng nhau hay họp gia đình. Đồng thời nó cũng đe doạ tới mối quan hệ của các thành viên khi thời gian ngồi nói chuyện cùng nhau giảm đi. [25] Như vậy, các tác giả đã phân tích một cách vi mô tác động của công nghệ thông tin đến mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội theo hướng tích cực. Các bài báo, bài viết, có thể nhắc đến một số bài viết sau: Bài viết “Công nghệ đã thay đổi cuộc sống con người như thế nào?” của nhà báo Nguyễn Thắm đăng trên trang Báo Mới, ngày 20 tháng 5 năm 2017 [19]. Trong bài viết này, tác giả đã tập trung phân tích tác động tích cực của công nghệ đến một khía cạnh của đời sống xã hội, đó là trong hoạt động tìm kiếm việc làm. Cụ thể, tác giả chỉ ra: Công nghệ giúp con người tìm việc và làm việc hiệu quả hơn; Công nghệ giúp con người chủ động trong việc học tập, làm chủ tri thức; Công nghệ giúp con người liên lạc, kết nối gần nhau hơn (trong phần này, người viết đề cập chi tiết đến lợi ích này của điện thoại thông minh); Công nghệ giúp việc giải trí sẽ trở nên thú vị hơn và Công nghệ giúp giảm bớt nguy hiểm cho con người. [19] Bài viết “Giới trẻ hiện đại quá phụ thuộc vào công nghệ!” của nhà báo Thanh Hương đăng trên trang Báo Mới, ngày 22 tháng 3 năm 2017 [11]. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích cả tác động tích cực lẫn tiêu cực của công nghệ đến giới trẻ, nhưng chủ yếu tập trung vào phân tích tác động tiêu cực. Về mặt tích cực, người viết khẳng định sự bùng nổ của các thiết bị công nghệ và độ phủ sóng internet rộng rãi là một lợi thế cho người sử dụng, giúp rút ngắn được thời gian tìm kiếm, xử lý thông tin. Công việc hàng ngày luôn đòi hỏi phải gần gũi với các thiết bị công nghệ để nhận các công văn, thông 12
- tư,…vì tất cả các tài liệu đều đươc trao đổi qua facebook, mail, skypes. Về mặt tiêu cực, tác giả chỉ ra một số tác hại sau: sự lạm dụng vô điều kiện của không ít bạn trẻ hiện nay; lạm dụng máy móc, không đầu tư chất xám, suy luận và lập luận của bản thân; là căn nguyên dẫn đến căn bệnh vô cảm trong xã hội, mà nhân vật chính là giới trẻ; v.v [11] 2.2.2 Tổng quan tình hình nghiên cứu về giao tiếp giữa cha mẹ con cái Cuốn sách Gia đình Việt Nam Các giá trị truyền thống và những vấn đề tâm – bệnh lý xã hội của GS.BS Đặng Phương Kiệt Chủ biên cũng đã đề cập đến vấn đề Quan niệm về sự phát triển của trẻ em và những quyền của trẻ em có viết “Dẫu con cái là một bộ phận của gia đình, song trong quá khứ cha mẹ hiếm khi lắng nghe lời con. Con cái thường được xem là một sở hữu của người cha…” [14] Ở chương 20 của cuốn sách này nghiên cứu về Khủng hoảng gia đình – một nguyên nhân gây rối nhiễu hành vi trẻ em và vị thành niên cho kết quả như sau: Có rất nhiều lý do đe dọa tổ ấm gia đình. Nghiên cứu trên đã chia các loại rối nhiếu gia đình như: Trục trặc hôn nhân, Khó khăn kinh tế, lối sống của cha mẹ, Cách ứng xử với con cái, Không hiểu con. Trong đó, không hiểu con phổ biến nhất ở lứa tuổi vị thành niên và gia đoạn dậy thì. Nghiên cứu cũng chỉ ra hai lý do cách ứng xử với con cái và không hiểu con khá tế nhị, khó nhận dạng, không dễ được chấp nhận. Điều quan trọng, đây cũng là hai lý do phổ biến nhất mà nghiên cứu thấy trong các tác nhân gây rối loạn tâm lý trẻ em. Ở chương này, nghiên cứu trên cho thấy, vấn đề hiểu con cái ở độ tuổi vị thành niên rất tế nghị và không dễ dàng, mà để hiểu được con cái thì phương tiện giao tiếp rất quan trọng. Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái ở độ tuổi vị thành niên rất quan trọng nhưng nghiên cứu trong cuốn sách này chưa đi sâu và cụ thể. [14] Ở chương 28, Ma túy vị thành niên một dấu hiệu khủng hoảng gia đình và xã hội đề cập đến nghiên cứu của Duncan, David tiến hành kiểm chứng giả 13
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của truyền thông đại chúng trong thực hiện quyền trẻ em ở tỉnh Bình Phước hiện nay
228 p | 530 | 101
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của truyền thông đại chúng trong thực hiện quyền trẻ em ở tỉnh Bình Phước hiện nay
27 p | 208 | 29
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Xã hội học: Tiếp cận chăm sóc sức khỏe ban đầu của người dân nông thôn tại y tế cơ sở (nghiên cứu hai xã Tân Quý tây và Hưng Long, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh)
18 p | 161 | 20
-
Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
175 p | 86 | 18
-
Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
163 p | 63 | 15
-
Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Sự tham gia của phụ nữ trong hệ thống chính trị thời kỳ đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (Nghiên cứu tại tỉnh Tiền Giang)
198 p | 18 | 11
-
Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Quan hệ lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay (Nghiên cứu trường hợp tại Khu công nghiệp Thăng Long, Hà Nội)
200 p | 23 | 10
-
Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Bình đẳng giới trong các quyết định ở gia đình nhóm dân tộc thiểu số tại Việt Nam
233 p | 25 | 10
-
Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Thực trạng chăm sóc trẻ em trong gia đình nông thôn ở huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình
207 p | 36 | 8
-
Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Việc tham gia nhóm phi chính thức và hành vi sai lệch của học sinh THPT tại thành phố Hà Nội
172 p | 34 | 8
-
Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Sự tham gia bảo hiểm xã hội của người lao động trong doanh nghiệp ngoài nhà nước ở Hà Nội
179 p | 41 | 8
-
Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Liên kết xã hội của công nhân trong khu công nghiệp hiện nay (Nghiên cứu trường hợp tại khu công nghiệp Thăng Long – Hà Nội
191 p | 59 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 148 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Mâu thuẫn giữa học sinh Trung học phổ thông và cha mẹ trong giai đoạn hiện nay (Nghiên cứu trường hợp tại Hà Nội)
204 p | 15 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Hoạt động bảo trợ của Giáo hội Công giáo cho nhóm NMĐT tại Tổng giáo phận thành phố Hồ Chí Minh
188 p | 14 | 5
-
Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bolikhamxay hiện nay
238 p | 11 | 5
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bolikhamxay hiện nay
27 p | 10 | 2
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Hoạt động bảo trợ của Giáo hội Công giáo cho nhóm người mẹ đơn thân tại Tổng giáo phận thành phố Hồ Chí Minh
25 p | 10 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn