Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Quan niệm về giá trị con cái trong gia đình hiện nay(Trường hợp Thành phố Hà Nội)
lượt xem 9
download
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài "Quan niệm về giá trị con cái trong gia đình hiện nay(Trường hợp Thành phố Hà Nội)" nhằm nghiên cứu nhận diện quan niệm về giá trị con cái đối với cha mẹ trong các gia đình tại Hà Nội hiện nay, đồng thời phân tích ảnh hưởng của yếu tố đặc điểm cá nhân các bậc cha mẹ đến quan niệm của họ về giá trị con cái. Trên cơ sở đó, Luận án đề xuất kiến nghị và hàm ý chính sách khuyến khích sinh con đối với người dân thủ đô Hà Nội thời gian tới.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Quan niệm về giá trị con cái trong gia đình hiện nay(Trường hợp Thành phố Hà Nội)
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, tư liệu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Nguyễn Thị Lan
- MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 10 1.1. Các nghiên cứu về giá trị cảm xúc của con cái 10 1.2. Các nghiên cứu về giá trị xã hội của con cái 14 1.3. Các nghiên cứu về giá trị kinh tế của con cái 19 1.4. Nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến quan niệm về giá trị con cái 27 1.5. Khoảng trống trong các nghiên cứu 30 1.6. Những vấn đề luận án cần tập trung nghiên cứu 34 Chƣơng 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 37 2.1. Các khái niệm và lý thuyết nghiên cứu về giá trị con cái 37 2.2. Phương pháp nghiên cứu 57 2.3. Khái quát bối cảnh kinh tế - văn hóa - xã hội Việt Nam và thành phố Hà Nội hiện nay 65 Chƣơng 3: THỰC TRẠNG QUAN NIỆM VỀ GIÁ TRỊ CON CÁI CỦA CÁC BẬC CHA MẸ Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY 73 3.1. Quan niệm của các bậc cha mẹ về giá trị cảm xúc của con cái 73 3.2. Quan niệm của các bậc cha mẹ về giá trị xã hội của con cái 85 3.3. Quan niệm của các bậc cha mẹ về giá trị kinh tế của con cái 98 3.4. Thang bậc giá trị con cái trong quan niệm của các bậc cha mẹ 109 3.5. Quan niệm về giá trị con cái và mong muốn sinh con của các bậc cha mẹ 112 Chƣơng 4: ẢNH HƢỞNG CỦA YẾU TỐ ĐẶC ĐIỂM CÁ NHÂN CÁC BẬC CHA MẸ ĐẾN QUAN NIỆM CỦA HỌ VỀ GIÁ TRỊ CON CÁI 122 4.1. Ảnh hưởng của yếu tố đặc điểm cá nhân các bậc cha mẹ đến quan niệm của họ về giá trị cảm xúc của con cái 123 4.2. Ảnh hưởng của yếu tố đặc điểm cá nhân các bậc cha mẹ đến quan niệm của họ về giá trị xã hội của con cái 133 4.3. Ảnh hưởng của yếu tố đặc điểm cá nhân các bậc cha mẹ đến quan niệm của họ về giá trị kinh tế của con cái 146 KẾT LUẬN 158 KHUYẾN NGHỊ 162 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ 166 DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 167 PHỤ LỤC 178
- DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 2.1: Thông tin mẫu nghiên cứu 61 Bảng 3.1: Số con trung bình mong muốn sinh của các bậc cha mẹ phân theo đặc trưng của người trả lời 114 Bảng 3.2: Ảnh hưởng của quan niệm về giá trị con cái đến số con mong muốn sinh của các bậc cha mẹ 115 Bảng 4.1: Quan niệm về lợi ích cảm xúc của con cái và đặc trưng của các bậc cha mẹ 123 Bảng 4.2: Tác động của các yếu tố đặc điểm cá nhân các bậc cha mẹ đến các quan niệm về lợi ích cảm xúc của con cái 126 Bảng 4.3: Quan niệm về phí tổn tinh thần cho con cái và đặc trưng của các bậc cha mẹ 128 Bảng 4.4: Tác động của các yếu tố cá nhân các bậc cha mẹ đến quan niệm về phí tổn tinh thần của cha mẹ khi có con cái 131 Bảng 4.5: Quan niệm về lợi ích xã hội của con cái và đặc trưng của các bậc cha mẹ 134 Bảng 4.6: Tác động của các yếu tố đặc điểm cá nhân các bậc cha mẹ đến quan niệm về lợi ích xã hội của con cái 138 Bảng 4.7: Quan niệm về con cái hạn chế cơ hội của cha mẹ và các đặc trưng của người trả lời 141 Bảng 4.8: Tác động của yếu tố đặc điểm cá nhân các bậc cha mẹ đến quan niệm về phí tổn cơ hội xã hội của cha mẹ khi có con cái 145 Bảng 4.9: Quan niệm về lợi ích kinh tế của con cái và đặc trưng của các bậc cha mẹ 147 Bảng 4.10: Tác động của yếu tố đặc điểm cá nhân các bậc cha mẹ đến quan niệm về phí tổn kinh tế của con cái 151 Bảng 4.11: Quan niệm về chi phí kinh tế cho con cái và đặc trưng của các bậc cha mẹ 152 Bảng 4.12: Tác động của các yếu tố đặc điểm cá nhân các bậc cha mẹ đến quan niệm về phí tổn kinh tế cho con cái 156
- DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Trang Biểu đồ 3.1: Quan niệm của các bậc cha mẹ về các lợi ích cảm xúc của con cái 74 Biểu đồ 3.2: Quan niệm của các bậc cha mẹ về về lợi ích cảm xúc của con trai và con gái 76 Biểu đồ 3.3: Quan niệm của các bậc cha mẹ về các phí tổn tinh thần khi có con cái 79 Biểu đồ 3.4: Quan niệm của các bậc cha mẹ về những khó khăn của họ trong việc giáo dục con cái 82 Biểu đồ 3.5: Quan niệm của các bậc cha mẹ về phí tổn tinh thần của họ khi có con trai và con gái 84 Biểu đồ 3.6: Quan niệm của các bậc cha mẹ về các lợi ích xã hội của con cái 86 Biểu đồ 3.7: Quan niệm của các bậc cha mẹ về lợi ích xã hội của con trai và con gái 90 Biểu đồ 3.8: Quan niệm của các bậc cha mẹ về các phí tổn cơ hội xã hội của cá nhân khi có con cái 95 Biểu đồ 3.9: Quan niệm của các bậc cha mẹ về phí tổn cơ hội xã hội của cá nhân họ khi có con trai và con gái 98 Biểu đồ 3.10: Quan niệm của các bậc cha mẹ về lợi ích kinh tế của con cái 101 Biểu đồ 3.11: Quan niệm của các bậc cha mẹ về lợi ích kinh tế của con trai và con gái 102 Biểu đồ 3.12: Quan niệm của các bậc cha mẹ về phí tổn kinh tế cho con cái 106 Biểu đồ 3.13: Quan niệm của các bậc cha mẹ về những khó khăn trong nuôi dưỡng con cái 107 Biểu đồ 3.14: Quan niệm của các bậc cha mẹ về phí tổn kinh tế cho con trai và con gái 108 Biểu đồ 3.15: Vị trí thang bậc giá trị con cái trong quan niệm của các bậc cha mẹ 111 Biểu đồ 3.16: Số con mong muốn sinh của các bậc cha mẹ 113 Biểu đồ 3.17: Mong muốn giới tính đứa con muốn sinh của các bậc cha mẹ 117
- 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trong 30 năm qua, mức sinh của Việt Nam đã giảm gần một nửa. Theo đó, tổng tỷ suất sinh (TFR) giảm từ 3,8 con/phụ nữ năm 1989 xuống còn 2,09 con/phụ nữ vào năm 2019, trong đó TFR ở khu vực thành thị giảm mạnh, hiện chỉ đạt 1,83 con/phụ nữ. Một số vùng đô thị, kinh tế - xã hội phát triển, mức sinh đã xuống thấp, có nơi thấp xa so với mức sinh thay thế, điển hình là Thành phố Hồ Chí Minh, địa phương đầu tàu về kinh tế cũng như mức độ đô thị hóa song mức sinh chỉ đạt 1,36 con/phụ nữ. Theo Chi cục Dân số kế hoạch hóa gia đình Thành phố Hồ Chí Minh, tình trạng nhiều cặp vợ chồng không có nhu cầu sinh con thứ hai, ngại sinh con thứ hai diễn ra phổ biến trong những năm gần đây ở thành phố. Hà Nội là khu vực đô thị có nhiều tương đồng về phát triển kinh tế - xã hội với thành phố Hồ Chí Minh hiện cũng đang có xu hướng tương tự khi tình trạng nhiều cặp vợ chồng trẻ chỉ sinh một con hoặc ngại sinh con thứ hai đang ngày càng phổ biến [90]. Mặc dù hiện nay mức sinh của Hà Nội vẫn đạt mức sinh thay thế song nguy cơ giảm sinh của Hà Nội vẫn luôn tiềm ẩn, đặc biệt là khu vực đô thị của Thành phố nếu như không có các biện pháp khuyến khích người dân sinh con kịp thời. Khi mức sinh xuống thấp kéo dài không đủ sản sinh ra những đoàn hệ dân số (con cái) thay thế cha mẹ trong một thời gian dài sẽ tác động trực tiếp đến tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên, đồng thời làm biến đổi cơ cấu dân số, tăng nhanh tỷ trọng nhóm người già. Mức sinh thấp góp phần đẩy nhanh tốc độ già hóa dân số; gia tăng các dòng di cư (do mức sinh thấp, lực lượng lao động thiếu hụt tác động đến các chính sách di cư làm tăng các dòng di cư, thu hút lao động nhập cư) và gây những áp lực lớn đối với tăng trưởng kinh tế cũng như hệ thống an sinh xã hội của quốc gia. Trong bối cảnh mức sinh suy giảm mạnh ở nước ta hiện nay, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quyết định số 588/QĐ-TTg với mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, tăng 10% tổng tỷ suất sinh ở các tỉnh, thành phố có mức sinh thấp và bảo đảm mục tiêu duy trì vững chắc mức sinh thay thế (mỗi phụ nữ sinh 2,1 con) trên
- 2 toàn quốc. Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030 cũng xác định đây là 1 trong 8 mục tiêu quan trọng (đến năm 2030) Việt Nam cần đạt được. Đối với Hà Nội, Kế hoạch số 74-KH/TU về việc thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Thành phố Hà Nội về công tác dân số trong tình hình mới cũng xác định việc cần bảo đảm duy trì vững chắc mức sinh thay thế là một trong những mục tiêu quan trọng mà công tác dân số của Thành phố cần quan tâm chú trọng thực hiện. Tổng tỷ suất sinh (TFR) là một trong những thước đo chính phản ánh mức sinh và được hiểu là số con sinh ra sống bình quân của một người phụ nữ trong suốt cuộc đời họ [102]. Trong mối liên quan với với nhu cầu của cha mẹ về con cái, Hoffman cho rằng, mức sinh là kết quả của quá trình ra quyết định có mục đích bằng cách đề cập đến nhu cầu của cha mẹ được đáp ứng bởi trẻ em [37]. Nhận thức giá trị của con cái hình thành nên động cơ sinh đẻ và sinh sản của cha mẹ. Giá trị của con cái bắt nguồn từ những lợi ích mà chúng mang lại cho gia đình cũng như thể hiện trong các phí tổn mà gia đình, các bậc cha mẹ phải bỏ ra cho chúng. Các phương pháp tiếp cận kinh tế, xã hội và tâm lý khác nhau nhằm tìm hiểu các phí tổn và lợi ích cụ thể của việc có con đã cho thấy tầm quan trọng của chúng đối với các ý định và hành vi sinh sản của các cộng đồng dân số [36, tr.61-78]. Do đó, việc nghiên cứu các giá trị con cái trong quan điểm, đánh giá của người dân có ý nghĩa quan trọng trong gợi mở các cơ hội duy trì mức sinh thay thế (2,1con/phụ nữ), từ đó đưa ra các giải pháp, hàm ý chính sách khuyến sinh phù hợp. Hà Nội là khu vực có tốc độ đô thị hóa nhanh, sự phân bố đô thị không đồng đều (khu vực đô thị trung tâm, đô thị mở rộng và nông thôn), có sự phân tầng sâu sắc trong mức sống, thu nhập của người dân, đa dạng trong văn hóa, lối sống của người cư trú. Trong bối cảnh đan xen giữa đô thị hóa mạnh mẽ ở khu vực trung tâm với những thay đổi sâu sắc về phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, trình độ dân trí, hình thành lối sống hiện đại trong cộng đồng này và sự manh nha chuyển đổi từ nông thôn thành đô thị của các vùng quê truyền thống, liệu rằng những giá trị cuộc sống, trong đó có giá trị con cái trong quan điểm, đánh giá của
- 3 người dân có sự thay đổi như thế nào? Các giá trị con cái có mối liên quan như thế nào với mong muốn sinh con của người dân hiện nay? Ở các nhóm xã hội khác nhau, nhóm các bậc cha mẹ có đặc điểm xã hội khác nhau sẽ có những quan niệm về giá trị con cái khác nhau như thế nào? Nghiên cứu làm rõ những vấn đề này sẽ là cơ sở thực tiễn góp phần xây dựng các giải pháp khuyến khích các nhóm xã hội sinh con bảo đảm duy trì mức sinh thay thế của Hà Nội thời gian tới. Vì những lý do trên, nghiên cứu “Quan niệm về giá trị con cái trong gia đình hiện nay”(Trường hợp Thành phố Hà Nội) là đề tài nghiên cứu được nghiên cứu sinh lựa chọn. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu nhận diện quan niệm về giá trị con cái đối với cha mẹ trong các gia đình tại Hà Nội hiện nay, đồng thời phân tích ảnh hưởng của yếu tố đặc điểm cá nhân các bậc cha mẹ đến quan niệm của họ về giá trị con cái. Trên cơ sở đó, Luận án đề xuất kiến nghị và hàm ý chính sách khuyến khích sinh con đối với người dân thủ đô Hà Nội thời gian tới. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa cơ sở lý luận về giá trị con cái. - Xây dựng thang đo quan niệm về giá trị con cái của các bậc cha mẹ trong các gia đình ở Thành phố Hà Nội. - Phân tích thực trạng quan niệm về giá trị con cái của các bậc cha mẹ ở Thành phố Hà Nội hiện nay - Phân tích ảnh hưởng của yếu tố đặc điểm cá nhân các bậc cha mẹ ở Thành phố Hà Nội đến quan niệm của họ về giá trị con cái. - Đề xuất kiến nghị và hàm ý chính sách nhằm khuyến khích sinh con đối với người dân ở Hà Nội thời gian tới. 3. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Quan niệm về giá trị con cái trong gia đình hiện nay
- 4 3.2. Khách thể nghiên cứu Người dân trong độ tuổi từ 18-60 sinh sống tại các các quận đô thị trung tâm, quận đô thị mở rộng và huyện nông thôn của Thành phố Hà Nội. 3.3. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về nội dung Đề tài tập trung nghiên cứu quan niệm về giá trị con cái trong các gia đình tại Hà Nội hiện nay qua đánh giá của các bậc cha mẹ về lợi ích của con cái mang lại cho cha mẹ và phí tổn của cha mẹ cho con cái, đồng thời phân tích ảnh hưởng của yếu tố đặc điểm cá nhân các bậc cha mẹ đến quan niệm của họ về giá trị con cái. - Phạm vi thời gian Thời gian thực hiện nghiên cứu đề tài từ tháng 6-2020 đến tháng 3-2022. - Phạm vi không gian Nghiên cứu thực hiện khảo sát người dân sinh sống tại các khu đô thị trung tâm, đô thị mở rộng và các khu vực nông thôn của Thành phố Hà Nội. 4. Câu hỏi nghiên cứu Toàn bộ Luận án tập trung trả lời các câu hỏi nghiên cứu sau: CH1: Quan niệm về giá trị của con cái đối với cha mẹ trong các gia đình hiện nay biểu hiện như thế nào? CH2: Yếu tố đặc điểm cá nhân của các bậc cha mẹ có ảnh hưởng như thế nào đến quan niệm của họ về giá trị con cái? 5. Giả thuyết nghiên cứu GT1a: Quan niệm về giá trị con cái của các bậc cha mẹ trong gia đình biểu hiện qua đánh giá của các bậc cha mẹ về lợi ích của con cái mang lại cho cha mẹ và phí tổn của cha mẹ cho con cái, trong đó, lợi ích cảm xúc của con cái là lợi ích lớn nhất và chi phí kinh tế cho con cái là phí tổn lớn nhất. GT1b: Trong quan niệm của các bậc cha mẹ, giá trị cảm xúc từ con cái cao hơn so với giá trị kinh tế của con cái. GT2: Giới tính, độ tuổi, khu vực cư trú, học vấn và thu nhập của các bậc cha mẹ có ảnh hưởng đến quan niệm của họ về giá trị con cái.
- 5 6. Khung phân tích và các biến số 6.1. Khung phân tích Bối cảnh kinh tế - chính trị - xã hội Quan niệm về giá trị con cái của các bậc cha mẹ Đặc điểm nhân Số con khẩu học: tuổi, mong giới tính, khu Giá trị Giá trị Giá trị cảm xúc xã hội kinh tế muốn sinh vực cư trú, thu của các bậc nhập, học vấn, Lợi ích Lợi ích Lợi ích cha mẹ nghề nghiệp,… cảm xúc xã hội kinh tế của các bậc Phí tổn Phí tổn Phí tổn cha mẹ tinh thần cơ hội kinh tế 6.2. Các biến số - Biến số độc lập: Các đặc điểm nhân khẩu: tuổi, giới tính, thu nhập, học vấn, nghề nghiệp… của các bậc cha mẹ - Biến số phụ thuộc: + Các quan niệm về giá trị con cái của các bậc cha mẹ + Số con mong muốn sinh của các bậc cha mẹ 7. Phƣơng pháp luận Để xác định các nhóm giá trị con cái đang hiện diện trong quan niệm của các bậc cha mẹ ở Thành phố Hà Nội, những đánh giá của các bậc cha mẹ về lợi ích của con cái và phí tổn cho con cái trên các phương diện cảm xúc, xã hội và kinh tế cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến quan niệm về giá trị con cái của các bậc cha mẹ hiện nay, luận án tiếp cận vấn đề nghiên cứu theo lý thuyết về giá trị con cái của các tác giả: Hoffman Lois và Hoffman Martin [37]; Cigdem Kagitcibasi [41, 42, 43]; David Lucas và Paul Mayer [52].
- 6 Lý thuyết giá trị con cái của Hoffman Lois - Hoffman Martin và Cigdem Kagitcibasi cho thấy cần phải nghiên cứu giá trị con cái với đầy đủ các giá trị vật chất và tinh thần trên các chiều cạnh kinh tế, cảm xúc, xã hội; đồng thời cần phải tìm ra vị trí thứ bậc cao, thấp của các giá trị thành phần của giá trị con cái trong quan niệm của các bậc cha mẹ hiện nay. Từ đó sẽ xác định được các nhu cầu cao hơn hay thấp hơn, là nhu cầu mang tính vật chất (kinh tế) hay phi vật chất (cảm xúc, xã hội) mà cha mẹ mong muốn được thỏa mãn nhiều hơn từ con cái trong bối cảnh xã hội hiện đại. Do đó khi nghiên cứu về giá trị con cái trong quan niệm của các bậc cha mẹ, tác giả sẽ xây dựng thang đo về giá trị con cái đầy đủ trên các chiều cạnh: giá trị cảm xúc, giá trị xã hội và giá trị kinh tế của con cái mang lại cho cha mẹ; đồng thời nghiên cứu, xác định vị trí các thang bậc giá trị cảm xúc, giá trị xã hội và giá trị kinh tế của con cái trong quan niệm của các bậc cha mẹ, từ đó tìm ra nhu cầu nào là nhu cầu cao hơn hay thấp hơn mà cha mẹ mong muốn được thỏa mãn từ con cái trong xã hội hiện đại hiện nay. Tiếp cận giá trị con cái từ quan điểm lý thuyết của David Lucas và Paul Mayer, tác giả nhận thấy, việc nghiên cứu, xác định giá trị con cái cần tìm hiểu đầy đủ các lợi ích mà con cái mang lại cho cha mẹ và các phí tổn mà cha mẹ bỏ ra khi có con cái. Giá trị con cái được xác định chính xác nhất thông qua việc lấy tổng các lợi ích mà cha mẹ nhận được từ con cái trừ đi các chi phí cho con cái của họ. Do đó, khi xây dựng thang đo giá trị con cái trong quan niệm của các bậc cha mẹ trên các phương diện cảm xúc, xã hội và kinh tế, tác giả sẽ xây dựng chỉ báo đo lường các giá trị này trên 2 chiều cạnh: các lợi ích mà con cái mang lại cho cha mẹ và các phí tổn của cha mẹ cho con cái. Lý thuyết giá trị con cái của các tác giả trên cũng cho thấy khi nghiên cứu về giá trị con cái cần phải tìm thấy sự liên quan của các giá trị con cái trong quan niệm của người dân với mong muốn sinh con của họ; ảnh hưởng của yếu tố đặc điểm cá nhân của các bậc cha mẹ đến quan niệm của họ về giá trị con cái. Từ đó sẽ có thể nhận thấy những ảnh hưởng của yếu tố văn hóa đến mong muốn sinh con của người dân. Do đó khi nghiên cứu, tìm hiểu mối liên quan giữa quan niệm về giá trị con cái và số con mong muốn sinh của các bậc cha mẹ ở Thủ đô Hà Nội, tác giả sẽ xây dựng mô hình thực nghiệm kiểm chứng mối quan hệ này; đồng thời tìm ra các yếu
- 7 tố về đặc điểm cá nhân của các bậc cha mẹ có ảnh hưởng như thế nào đến quan niệm của họ về giá trị con cái? từ đó có những đề xuất khuyến nghị, hàm ý chính sách nhằm khuyến khích sinh đẻ đối với người dân ở Thủ đô Hà Nội thời gian tới. 8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 8.1. Ý nghĩa khoa học Luận án sẽ góp phần làm rõ, bổ sung, hoàn thiện thêm về khái niệm giá trị con cái cũng như làm sáng tỏ các chiều cạnh lý thuyết khi vận dụng nghiên cứu về giá trị con cái ở Việt Nam hiện nay. Cụ thể, Luận án sẽ góp phần làm rõ và hoàn thiện thêm về khái niệm giá trị con cái với các giá trị thành phần: giá trị cảm xúc, giá trị xã hội và giá trị kinh tế của con cái được đo lường đầy đủ trên các chiều cạnh tích cực và tiêu cực mà con cái mang lại cho cha mẹ. Ngoài ra, nghiên cứu còn có ý nghĩa kiểm chứng các lý thuyết được ứng dụng, bao gồm lý thuyết về giá trị con cái của Hoffman, Kagitcibasi, Lucas và Mayer để nhìn nhận và phân tích các giá trị thành phần của con cái, vị trí thứ bậc các thang giá trị con cái trong quan niệm của các bậc cha mẹ, từ đó tìm ra các nhu cầu mong muốn thỏa mãn từ con cái của các bậc cha mẹ; đồng thời phân tích và làm sáng tỏ mối quan hệ giữa quan niệm về giá trị con cái với mong muốn sinh con của các bậc cha mẹ, phân tích ảnh hưởng của yếu tố đặc điểm cá nhân các bậc cha mẹ đến quan niệm của họ về giá trị con cái, từ đó Luận án có cơ sở lý luận đề xuất các kiến nghị hàm ý chính sách khuyến khích người dân sinh con. 8.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận án được thực hiện nhằm góp phần làm rõ thực trạng quan niệm của các bậc cha mẹ về giá trị con cái hiện nay thông qua quan niệm của họ về các lợi ích của con cái mang lại và các phí tổn mà cha mẹ phải bỏ ra để nuôi dạy con cái, qua đó phản ánh các nhu cầu mong muốn được thỏa mãn từ con cái của các bậc cha mẹ, đồng thời cho thấy được các khó khăn trong cuộc sống mà cha mẹ có thể gặp phải khi có con cái trong bối cảnh xã hội hiện đại. Trên cơ sở kiểm chứng mối quan hệ giữa quan niệm về giá trị con cái và số con mong muốn sinh của các bậc cha mẹ, phân tích ảnh hưởng của yếu tố đặc điểm cá nhân các bậc cha mẹ đến quan niệm của họ về giá trị con cái, nghiên cứu đề xuất một số khuyến nghị nhằm giúp các nhà hoạch định chính sách về dân số có thêm dữ
- 8 liệu thông tin và tham khảo trong quá trình xây dựng các chính sách dân số, đặc biệt là các chính sách khuyến sinh phù hợp nhằm duy trì và bảo đảm mức sinh thay thế của thủ đô Hà Nội thời gian tới. Kết quả nghiên cứu được sử dụng để tham khảo về mặt thực tiễn cho việc giảng dạy các môn học về dân số và phát triển, xã hội học giới và gia đình. 9. Điểm mới của Luận án Thứ nhất, qua việc thao tác hóa khái niệm giá trị con cái và xây dựng thang đo quan niệm giá trị con trên hai chiều cạnh tích cực và tiêu cực của các giá trị mà con cái mang lại cho cha mẹ; là các lợi ích của con cái và các phí tổn của cha mẹ cho con cái, Luận án khẳng định cách tiếp cận mới về giá trị con cái - Giá trị con cái cần được tiếp cần đầy đủ trên cả 2 chiều cạnh, mặt tích cực của con cái mang lại cho cha mẹ và mặt tiêu cực là những phí tổn mà cha mẹ phải bỏ ra cho con cái. Qua đó xác định được rõ hơn các vị trí thang bậc cao nhất và thấp hơn đối với các giá trị của con cái mang lại cho cha mẹ. Thứ hai, trên cơ sở mô tả, nhận diện các lợi ích con cái mang lại và phí tổn cho con cái của các bậc cha mẹ trong các chiều cạnh cảm xúc, xã hội và kinh tế, Luận án phác hoạ bức tranh về giá trị con cái trong quan niệm của các bậc cha mẹ, từ đó khẳng định các nhu cầu cao nhất/thấp nhất mà các bậc cha mẹ mong muốn được thỏa mãn từ con cái; đồng thời chỉ ra những khó khăn lớn nhất/ít nhất mà các bậc cha mẹ gặp phải khi họ có con cái trong bối cảnh xã hội hiện đại. Thứ ba, qua việc xây dựng mô hình thực nghiệm mối liên quan giữa quan niệm về giá trị con cái và số con mong muốn sinh của các bậc cha mẹ, nghiên cứu xác định và kiểm chứng sự ảnh hưởng của quan niệm về giá trị con cái với mong muốn sinh con của các bậc cha mẹ hiện nay. Thứ tư, qua việc phân tích ảnh hưởng của các yếu tố về đặc điểm cá nhân các bậc cha mẹ đến quan niệm của họ về giá trị con cái, ngoài những ảnh hưởng của yếu tố độ tuổi và khu vực cư trú của cha mẹ đến quan niệm của họ về giá trị con cái; Luận án khẳng định các yếu tố về giới tính, trình độ học vấn, thu nhập và mức sinh hiện tại của các bậc cha mẹ có ảnh hưởng đến quan niệm của họ về giá trị con cái. Qua đó Luận án đề xuất một số kiến nghị hàm ý chính sách khuyến khích sinh con
- 9 đối với người dân Thủ đô Hà Nội thời gian tới, góp phần thực hiện tốt Chiến lược dân số đến năm 2030 của Chính phủ. 10. Cấu trúc của Luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, Luận án có kết cấu 4 chương, bao gồm: Chương 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu Chương 2. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Chương 3. Thực trạng quan niệm về giá trị con cái của các bậc cha mẹ ở thành phố Hà Nội hiện nay Chương 4. Ảnh hưởng của yếu tố đặc điểm cá nhân các bậc cha mẹ đến quan niệm của họ về giá trị con cái
- 10 Chƣơng 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU “Giái trị con cái” (value of children) được nghiên cứu từ đầu những năm 70 của thế kỷ XX khi Fawcett và Hoffman vận dụng để đo lường thực nghiệm các quyết định và hành vi sinh sản, trong đó có tính đến những tác động của yếu tố văn hóa - xã hội khác nhau đến các quyết định và hành vi sinh sản của các cặp vợ chồng. Trong công trình nghiên cứu, Hoffman cho rằng: “Giá trị con cái đề cập đến các chức năng mà chúng phục vụ hoặc những nhu cầu mà chúng đáp ứng đối với cha mẹ” (Hoffman and Hoffman, 1973). Sau đó tiếp cận về giá trị con cái của Hoffman có ảnh hưởng mạnh mẽ trong những năm 1970 và 1980 khi các nghiên cứu vận dụng để lý giải về những nguyên nhân chủ quan thúc đẩy xu hướng và quy mô sinh đẻ cao, cũng như làm rõ một số yếu tố tác động làm biến đổi mức sinh ở các gia đình trong quá trình hiện đại hóa và phát triển. Giá trị con cái liên quan đến bản chất và mức độ giá trị (tiềm năng) của con cái đối với cha mẹ, tạo động lực cho quyết định sinh con của cha mẹ (Arnold và cộng sự, (1975), Dẫn theo Nauck, B., Klaus, D., 2007) [61]. Trong mối liên quan với hành vi sinh sản của con người, phương pháp tiếp cận giá trị con cái cho phép giải thích một cách có hệ thống về sự biến đổi của quyết định sinh sản bằng cách tính toán đến các yếu tố cá nhân và văn hóa. Giá trị con cái thường được xem xét là tổng lợi ích của cha mẹ khi sinh con và nuôi dưỡng trừ đi các chi phí của nó (Kagitcibasi C, 1982) [41]. Dó đó, việc xác định các giá trị của con cái bao hàm trong đó cả những yếu tố tích cực và tiêu cực mà con cái mang đến cho cha mẹ trên các chiều cạnh cảm xúc, xã hội và kinh tế (Trommsdorfl G, 2010) [114]. 1.1. CÁC NGHIÊN CỨU VỀ GIÁ TRỊ CẢM XÚC CỦA CON CÁI Giá trị cảm xúc là một trong những giá trị nổi bật và đầu tiên nhất mà con cái mang lại cho cha mẹ và các thành viên trong gia đình. Giá trị cảm xúc đề cập đến cảm giác vui vẻ và sảng khoái gắn liền với mong đợi của cha mẹ về việc có con (Dẫn theo Fazeli. E và cộng sự, 2016) [29]. Là một trong những giá trị cốt lõi của con cái đối với các bậc cha mẹ và gia đình, giá trị cảm xúc của con cái được nhiều nghiên cứu quan tâm khai thác sâu sắc ở nhiều khía cạnh khác nhau và hiện diện
- 11 chủ yếu trong vai trò làm gia tăng cảm xúc phấn khích, vui vẻ, hạnh phúc hay căng thẳng, ức chế của cha mẹ khi có con cái (Hoffman & Hoffman, 1973 [37]; Kagitcibasi 1982, 2015 [42,44]; Lucas & Mayer, 1994 [77]; Trommsdorff, Nauck, 2005 [112]; Mayer & Trommsdroff, 2010 [55]; Nauck, 2014 [63]). Theo đó, giá trị cảm xúc của con cái hàm chứa các giá trị về tình cảm, tâm lý của cha mẹ xảy ra khi các bậc cha mẹ có con, bao gồm các cảm xúc tích cực và tiêu cực mà con cái mang lại cho cha mẹ. Con cái mang lại các cảm xúc tích cực cho cha mẹ Các nghiên cứu về những cảm xúc tích cực của con cái mang lại cho mẹ tập trung xem xét các trạng thái cảm xúc được thăng hoa của các bậc cha mẹ khi có con cái. Ngay từ những nghiên cứu đầu tiên nhất về giá trị con cái, các nhà nghiên cứu đã phát hiện những giá trị tinh thần của con cái trong việc mang lại niềm vui, hạnh phúc cho cha mẹ và các thành viên khác trong gia đình. Trong phát hiện của Hoffman& Hoffman (1973) [37]], sự phấn khích và niềm vui là giá trị đứng thứ 2 trong 9 giá trị vật chất và tinh thần mà con cái mang lại cho cha mẹ. Đối với các bậc cha mẹ, con cái là nguồn gốc của hạnh phúc, niềm vui và tình cảm. Các giá trị này của con cái trong nhiều nghiên cứu được đo lường trong quan điểm của các bậc cha mẹ về “niềm vui khi có trẻ nhỏ ở quanh nhà" hoặc "niềm vui mà bạn nhận được khi xem con mình lớn lên" (Nauck, 2007) [62, tr.615-629]. Trong nghiên cứu về Giá trị con cái ở Thổ Nhĩ Kỳ, Kagitcibasi chứng minh rằng, con cái là nguồn cung năng lượng “cảm xúc” dồi dào (với những cung bậc tình cảm, mức độ thăng trầm khác nhau), là tố chất kích thích (affect, stimulation) làm phong phú thêm ý nghĩa cuộc sống cha mẹ thông qua mối tương tác liên thế hệ cả bên trong và bên ngoài gia đình (Kagitcibasi, 1982). Sau đó khi nghiên cứu Giá trị con cái đối với cha mẹ trẻ và người già, Hoffman và cộng sự đã tiến hành khảo sát 2 nhóm cha mẹ trẻ tuổi và cha mẹ già ở bang Florida về sự hài lòng và không hài lòng khi có con. Kết quả nghiên cứu cho thấy, đối với cả hai nhóm, con cái thường được xem là thỏa mãn nhu cầu về tình yêu và sự đồng hành, niềm vui và sự kích thích (Hoffman, L.W., K.A. McManus, and Y. Brackbill, 1987). Tiếp cận giá trị cảm xúc của con cái ở góc độ này, Nauck (2014) cho rằng, con cái cung cấp sự
- 12 kích thích về thể chất và tâm lý cho các bậc cha mẹ, thể hiện nổi bật trong tương tác sớm giữa cha mẹ và con cái, khi trẻ sơ sinh và trẻ mới biết đi cần được dinh dưỡng, chăm sóc và quan sát liên tục. Do đó, lợi ích chung của con cái để tối ưu hóa sự kích thích của cha mẹ nằm ở khả năng tạo ra những thách thức và trách nhiệm tức thì và thường không thay thế được. Ở một nghiên cứu khác, Coleman (1990) nhận thấy, con cái đóng vai trò như một yếu tố sản xuất tiềm năng quan trọng để hiện thực hóa chức năng tái sinh sản xã hội của cha mẹ. Ở mỗi quyết định sinh sản, các yếu tố cấu trúc xã hội có tương tác mạnh mẽ với quan niệm giá trị con cái của mỗi người cha, mẹ và nhằm nâng cao hạnh phúc và vị thế xã hội của cha mẹ. D. Friedman, M.Hechter (1994) khi nghiên cứu Lý thuyết về giá trị con cái đã đo lường mức độ thỏa dụng của con cái gắn với việc có con cái (con trai, gái) với mức độ cảm nhận hạnh phúc của cha mẹ, qua đó xem xét những ảnh hưởng của con cái đối với các mức độ cảm nhận hạnh phúc của cha mẹ; sự hy sinh, lòng vị tha của cha mẹ đối với con cái. Kết quả nghiên cứu cho thấy, khi mỗi thanh niên “trở thành” hoặc “được làm cha/mẹ” là họ đã chuyển đổi vai trò trong chu trình sống của cá nhân, những quyền lợi, bổn phận và trách nhiệm làm cha mẹ, sự sinh sản có phù hợp, đáp ứng hay không đáp ứng được những kỳ vọng, chuẩn mực của dòng họ, cộng đồng xã hội trở thành mối quan tâm lớn của họ khi có/mong muốn có con cái. Xuất phát từ hướng tiếp cận trên, một số nhà nhân khẩu học đề cập đến tầm quan trọng và mối liên hệ giữa việc sinh con và việc cảm thấy ý nghĩa cuộc sống khi được làm cha mẹ. Hạnh phúc là động lực quan trọng khiến người ta đi tới quyết định sinh con, đẻ cái. Có con hay không có con, mặt khác, cũng được coi là cách thức cơ bản để con người đạt tới trạng thái viên mãn hoặc ngược lại. Tác giả Becker (1981), cho rằng, thanh niên quyết định tiến tới hôn nhân, sinh con đầu lòng hoặc sinh các con tiếp theo, là do họ - với tư cách là người cha/mẹ tiềm năng (hoặc cha/mẹ thực tế) - thường quan niệm, kỳ vọng rằng mình sẽ đạt được vị thế tốt hơn, hạnh phúc hơn hiện tại sau khi quyết định này được thực hiện. Khi khám phá động cơ làm cha mẹ trong thế giới công nghiệp phương Tây, tác giả Dyer đã chỉ ra rằng, hầu hết các cá nhân đều mong muốn có con cái vì những lý do liên quan đến hạnh phúc và hạnh phúc cá nhân (Dyer, 2007) [27, tr.69-77].
- 13 Ở Việt Nam, các nghiên cứu về cảm xúc tích cực của con cái đối với các bậc cha mẹ chủ yếu tập trung hướng đến tìm hiểu các thỏa mãn nhu cầu tâm lý, tình cảm của các bậc cha mẹ có được từ con cái và được đo lường thông qua đánh giá của các bậc cha mẹ về mức độ quan trọng của giá trị này. Nghiên cứu trên phương diện lý luận của các tác giả Hoàng Đốp (2004), Ngô Thị Tuấn Dung (2012) đã cho thấy giá trị tâm lý, tình cảm của con cái biểu hiện trong việc chúng là nguồn thỏa mãn cảm xúc tâm lý của các bậc cha mẹ. Trong nghiên cứu của tác giả Trần Thị Minh Thi về Những giá trị cơ bản của gia đình Việt Nam đương đại (2021), giá trị tình cảm, tâm lý của con cái được tác giả đo lường qua quan niệm của các bậc cha mẹ về ý nghĩa của việc có con trong việc mang lại niềm vui, hạnh phúc cho họ, đồng thời kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra đây là giá trị con cái được các bậc cha mẹ đánh giá có vị trí quan trọng nhất trong cuộc sống của họ hiện nay. Con cái mang lại các cảm xúc tiêu cực cho cha mẹ Khi phân tích các chiều cạnh lợi ích của con cái và chi phí cho con cái, Lusca và Mayer (1994) đã chứng minh rằng, mặt bất lợi trong các giá trị tinh thần, tình cảm của con cái đối với cha mẹ là ở chỗ chúng tạo ra hàng loạt các căng thẳng cảm xúc cho các bậc cha mẹ khi có con cái. Tiếp cận các mặt bất lợi của con cái từ góc độ này, nghiên cứu của Miettinen A và cộng sự cho thấy, trong cuộc sống hiện đại, khi vai trò của nữ giới ngày càng tiến rộng ra ngoài gia đình bởi các đòi hỏi của thị trường lao động, việc làm, tình trạng căng thẳng của phụ nữ ngày càng gia tăng do gánh nặng kết hợp giữa việc làm và công việc gia đình (Miettinen A, Basten S, Rotkirch A, 2011) [56]. Nghiên cứu của Bbeun Sae Lee (2016) [18, tr.133-144], chỉ ra rằng, tác động trung gian của sự căng thẳng trong việc nuôi dạy con cái của cha mẹ có ảnh hưởng đến số lượng con cái lý tưởng mà các bậc cha mẹ mong muốn. Dưới tác động của mọi áp lực xã hội cùng các căng thẳng cảm xúc của các bậc cha mẹ trong quá trình nuôi dạy đứa con đầu, những cân nhắc, tính toán trong việc sinh thêm con của họ càng trở nên chặt chẽ hơn, từ đó tác động và làm suy giảm mức sinh trong cộng đồng dân số. Mức độ căng thẳng cảm xúc của các bậc cha mẹ khi có con cái là yếu tố tác động hình thành tâm lý của nhiều ông bố, bà mẹ, đặc biệt là phụ nữ trong thời gian
- 14 mang thai và sau sinh. Một số nghiên cứu tâm lý học, y học đã chỉ rõ mức độ trầm cảm của nhiều bà mẹ sau khi sinh con, đặc biệt trong quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng con nhỏ trong cuộc sống hiện đại. Ở Việt Nam, nghiên cứu về thực trạng trầm cảm và tìm kiếm hỗ trợ của phụ nữ sau sinh của nhiều tác giả cho thấy, tỉ lệ trầm cảm sau sinh ở phụ nữ Việt Nam cao hơn rất nhiều so với thế giới: năm 2007, tỷ lệ trầm cảm sau sinh là 41%, năm 2010 tỷ lệ này là 29,2, năm 2018 mức độ trầm cảm sau sinh của phụ nữ tại địa bàn nghiên cứu là 34,2% (Lê Thị Thúy và cộng sự, 2018) [109]. Như vậy, giá trị cảm xúc của con cái trong gia đình qua các nghiên cứu được cụ thể hóa thành các trạng thái tâm lý, tình cảm của các bậc cha mẹ có được từ con cái. Đó là tình yêu thương, niềm vui, sự hạnh phúc, sự kích thích, phấn khích trong các hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng, dạy bảo con cái khôn lớn, trưởng thành. Đồng thời, đó cũng là những căng thẳng cảm xúc, áp lực trong tâm lý, tinh thần mà các bậc cha mẹ phải chịu đựng, vượt qua trong suốt quá trình nuôi dạy con cái. Các cảm xúc tích cực của con cái đã được nhiều nghiên cứu quốc tế và một số nghiên cứu trong nước tìm hiểu, tuy nhiên các cảm xúc tiêu cực của con cái mới chỉ được xem xét trong một số nghiên cứu quốc tế và một số nghiên cứu về tâm lý học, y học của Việt Nam. Các nghiên cứu về giá trị con cái ở Việt Nam, đặc biệt là nghiên cứu thực nghiệm hầu như chưa đề cập đến vấn đề này. 1.2. CÁC NGHIÊN CỨU VỀ GIÁ TRỊ XÃ HỘI CỦA CON CÁI Giá trị xã hội của con cái đề cập đến các lợi ích xã hội liên quan đến việc sinh con của các bậc cha mẹ (Mayer và Trommsdorff, 2010) [55]. Biểu hiện cụ thể của giá trị xã hội của con cái là sự chấp thuận của xã hội (phù hợp với pháp luật và chuẩn mực xã hội); của cộng đồng xã hội (dòng họ, gia đình lớn) đối việc có con của các bậc cha mẹ và càng nổi bật trong các xã hội có chế độ huyết thống và dòng dõi. Đồng thời, giá trị xã hội của con cái đối với các bậc cha mẹ còn thể hiện ở chỗ có con dẫn đến thay đổi mối quan hệ của cha mẹ cũng như mối liên hệ của cha mẹ với người thân, bạn bè và làm thay đổi địa vị của các bậc cha mẹ trong cộng đồng địa phương (Trommsdorff, 2009) [113]. Tuy nhiên giá trị nào của con cái cũng đều hiện diện ở hai chiều cạnh, tích cực/lợi ích và tiêu cực/phí tổn (Lucas & Mayer, 1994), do đó giá trị xã hội của con cái cũng hiện hữu các mặt bất lợi và thể hiện
- 15 trong việc hạn chế tự do cá nhân, hạn chế các cơ hội nghề nghiệp cũng như làm gia tăng trách nhiệm của các bậc cha mẹ với gia đình. Con cái mang lại lợi ích xã hội cho cha mẹ Trong nghiên cứu Giá trị con cái ở Thổ Nhĩ Kỳ (1982), tác giả Kagitcibasi chỉ ra rằng, việc giúp gắn kết các cặp vợ chồng lại gần nhau hơn, (như một lý do để mong muốn có thêm một đứa con) là 1 trong 12 lý do phổ biến của người dân nước này khi muốn sinh con. Mức độ quan trọng của lý do này đối với phụ nữ thể hiện sâu sắc hơn nam giới cho thấy sự phụ thuộc, địa vị thấp hơn của phụ nữ trong mối quan hệ hôn nhân. Vì người chồng có các mối quan hệ xã hội khác, nên việc gần gũi vợ - chồng không quá quan trọng đối với anh ta như đối với người vợ, người tìm thấy một đứa con khác có ích trong việc “đưa chồng về nhà”. Mong muốn kéo chồng về gần nhà dường như là một động lực quan trọng cho việc sinh con của nhiều phụ nữ [41]. Lợi ích xã hội của con cái đối với các bậc cha mẹ còn thể hiện trong việc chúng duy trì nòi giống và tôn thống gia đình (đặc biệt là con trai), thông qua việc chúng mang dòng họ (của người cha nếu gia đình theo chế độ phụ hệ) và thờ tự hương khói cho cha mẹ và các thành viên trong gia đình khi họ mất đi. Trong tôn giáo truyền thống của châu Phi, sinh sản là cách tuyệt đối để đảm bảo rằng một người không bị cắt đứt khỏi sự bất tử của cá nhân (Hellen Wave, 1978) [125]. Ở các quốc gia Châu Á, các gia đình theo chế độ phụ hệ và có văn hóa gia trưởng phổ biến hầu hết ở khắp vùng, miền, theo đó mà việc nối dõi tông đường và thờ cúng tổ tiên thể hiện duy nhất trong vai trò của người con trai. Giá trị của con trai ở phương diện này đặc biệt thể hiện rõ ở một số nền văn hóa gia trưởng (truyền thống phụ hệ, xác lập phả hệ), nơi duy trì tập quán con trai nối dõi dòng họ, thờ cúng tổ tiên, tục lệ con gái khi kết hôn di chuyển về sinh sống cùng gia đình nhà chồng. Theo tục lệ, con gái được gả cưới cho gia đình nhà chồng và ít đóng góp hơn cho gia đình cha mẹ đẻ. Những kỳ vọng của cha mẹ đẻ về “giá trị con gái” thường là kém hơn so với con trai và điều này phần nào làm giảm đi động cơ, mong muốn của cha, mẹ trong cả sự chọn lựa sinh sản hoặc đầu tư cho phát triển (chăm sóc, thừa kế tài sản…) của con gái ở gia đình…, kéo theo là thái độ hoặc hành vi phân biệt đối xử với con gái/phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Lý giải về điều này, một số nghiên cứu
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của truyền thông đại chúng trong thực hiện quyền trẻ em ở tỉnh Bình Phước hiện nay
228 p | 534 | 101
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của truyền thông đại chúng trong thực hiện quyền trẻ em ở tỉnh Bình Phước hiện nay
27 p | 208 | 29
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Xã hội học: Tiếp cận chăm sóc sức khỏe ban đầu của người dân nông thôn tại y tế cơ sở (nghiên cứu hai xã Tân Quý tây và Hưng Long, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh)
18 p | 166 | 20
-
Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
175 p | 87 | 18
-
Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
163 p | 64 | 15
-
Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Sự tham gia của phụ nữ trong hệ thống chính trị thời kỳ đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (Nghiên cứu tại tỉnh Tiền Giang)
198 p | 21 | 12
-
Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Quan hệ lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay (Nghiên cứu trường hợp tại Khu công nghiệp Thăng Long, Hà Nội)
200 p | 33 | 11
-
Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Việc tham gia nhóm phi chính thức và hành vi sai lệch của học sinh THPT tại thành phố Hà Nội
172 p | 40 | 11
-
Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Bình đẳng giới trong các quyết định ở gia đình nhóm dân tộc thiểu số tại Việt Nam
233 p | 35 | 10
-
Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Thực trạng chăm sóc trẻ em trong gia đình nông thôn ở huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình
207 p | 40 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Sự tham gia bảo hiểm xã hội của người lao động trong doanh nghiệp ngoài nhà nước ở Hà Nội
179 p | 42 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 151 | 8
-
Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bolikhamxay hiện nay
238 p | 15 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Mâu thuẫn giữa học sinh Trung học phổ thông và cha mẹ trong giai đoạn hiện nay (Nghiên cứu trường hợp tại Hà Nội)
204 p | 18 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Hoạt động bảo trợ của Giáo hội Công giáo cho nhóm NMĐT tại Tổng giáo phận thành phố Hồ Chí Minh
188 p | 18 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Hoạt động của Hội đồng nhân dân xã trên địa bàn thành phố Hà Nội
26 p | 19 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bolikhamxay hiện nay
27 p | 14 | 2
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Hoạt động bảo trợ của Giáo hội Công giáo cho nhóm người mẹ đơn thân tại Tổng giáo phận thành phố Hồ Chí Minh
25 p | 19 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn