intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu áp lực bàn chân, mối liên quan với dẫn truyền thần kinh, chỉ số cổ chân – Cánh tay ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2

Chia sẻ: Angicungduoc6 Angicungduoc6 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:192

22
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án nghiên cứu sự thay đổi áp lực gan bàn chân, một số chỉ số dẫn truyền thần kinh chi dưới, chỉ số cổ chân – cánh tay; mối liên quan giữa áp lực gan bàn chân với dẫn truyền thần kinh, chỉ số ABI và một số đặc điểm của bệnh đái tháo đường týp 2.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu áp lực bàn chân, mối liên quan với dẫn truyền thần kinh, chỉ số cổ chân – Cánh tay ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2

  1. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh đái tháo đường là một trong 3 căn bệnh có tốc độ  phát triển  nhanh nhất thế giới. Theo thông báo của Tổ chức y tế thế giới , năm 2014  trên toàn thế  giới có 422 triệu người mắc đái tháo đường, chiếm khoảng  8,5% dân số, tỷ  lệ  bệnh đái tháo đường gia tăng trong 3 thập kỷ  qua đặc  biệt là ở các nước có thu nhập vừa và thấp [2].  Trong 3 thập kỷ  qua, bệnh đái tháo đường đã tăng lên gấp 4 lần, là  nguyên nhân thứ 9 gây tử vong. Cứ 11 người thì có 1 người mắc bệnh đái tháo   đường, trong đó tỷ lệ bệnh đái tháo đường týp 2 chiếm 90%. Châu Á là khu   vực chính của đại dịch toàn cầu với 2 quốc gia đứng đầu là Trung Quốc và  Ấn Độ [2]. Tỷ  lệ  bệnh đái tháo đường gia tăng kèm theo thời gian phát hiện   bệnh kéo dài làm gia tăng biến chứng của bệnh. Bệnh đái tháo đường là  nguyên nhân gây ra biến cố  tim mạch, mù lòa, suy thận, cắt cụt chi và  những hậu quả  lâu dài khác  ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Năm  2015, Tổ  chức vết thương bàn chân do đái tháo đường thông báo bệnh lý  bàn chân đái tháo đường ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế, xã hội   của quốc gia và tỷ  lệ  hiện mắc hàng năm 2 % đến 4 %  ở  các nước phát   triển và tỷ  lệ  này cao hơn  ở  các nước đang phát triển [2]. Trong các biến  chứng, loét bàn chân tuy không dẫn đến tử vong nhanh chóng nhưng là gánh  nặng cho bệnh nhân, gia đình và xã hội do làm tăng chi phí điều trị, thời   gian nằm viện kéo dài và về lâu dài làm giảm khả năng lao động của người   bệnh, ảnh hưởng nghiêm trọng chất lượng cuộc sống . Chi phí cho điều trị  và chăm sóc bệnh lý bàn chân đái tháo đường hàng năm tại Mỹ là 9 tỷ đến  13 tỷ đô la Mỹ [2]. Tỷ lệ loét chân do đái tháo đường trên toàn cầu là 6,3%, nam cao hơn 
  2. 2 nữ, ở bệnh đái tháo đường týp 2 cao hơn đái tháo đường týp 1. Khu vực bắc   Mỹ chiếm tỷ lệ cao nhất 13,0% và thấp nhất là châu Đại dương 3,0%; châu Á  5,5%; châu Âu 5,1% [2]. Tại  Ấn Độ  có khoảng 10% bệnh nhân  đái tháo  đường bệnh lý bàn chân. Tỷ lệ cắt cụt chi ở những bệnh nhân có biến chứng   bàn chân chiếm khoảng 40%.  Ở các nước phát triển, như  ở Anh, 50% bệnh   nhân đái tháo đường vào viện vì bệnh lý bàn chân. Một nghiên cứu trên 6000   người bệnh đái tháo đường đến khám cho thấy: tỷ lệ có loét bàn chân: 20%,   cắt cụt chi: 2,5% [2].  Ở  Việt Nam, Bệnh viện Nội tiết Trung  ương đã có những nghiên  cứu cho thấy phần lớn bệnh nhân đái tháo đường có biến chứng bàn chân  thường vào viện  ở  giai đoạn muộn và tỷ  lệ  cắt cụt chi  ở  bệnh nhân đái  tháo đường có bệnh lý bàn chân cũng rất cao, khoảng 40% [2]. Tổn thương bàn chân  ở  bệnh nhân  đái tháo đường  là hậu quả  của  nhiều nguyên nhân như: tổn thương thần kinh, tổn thương mạch máu, chấn   thương và nhiễm trùng. Các nguyên nhân này có thể phối hợp với nhau cùng   một lúc hoặc vào những thời điểm khác nhau. Trong bệnh lý bàn chân, 3 yếu   tố: tổn thương mạch máu, thần kinh và nhiễm trùng luôn kết hợp với nhau   một cách chặt chẽ, đôi khi chúng cũng có thể là các tổn thương độc lập [2].  Các nghiên cứu cho thấy những điểm chịu áp lực cao ở bàn chân có mối liên   quan chặt chẽ với các tổn thương loét bàn chân. Vì vậy, áp lực gan bàn chân  là yếu tố được đưa ra để dự đoán những tổn thương bàn chân sớm ở người  bệnh đái tháo đường. Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu đánh giá áp lực gan bàn chân ở  bệnh nhân đái tháo đường, tuy nhiên,  ở  Việt Nam chưa có nghiên cứu nào  đánh giá sự thay đổi áp lực gan bàn chân nhằm phát hiện, ngăn chặn sớm và  làm   giảm   tỷ   lệ   những   tổn   thương   bệnh   lý   bàn   chân   ở   người   đái   tháo 
  3. 3 đường. Chính vì vậy chúng tôi tiến hành đề  tài: “Nghiên cứu áp lực bàn   chân, mối liên quan với dẫn truyền thần kinh, chỉ số cổ chân – cánh tay   ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2” với mục tiêu: 1.  Khảo sát áp lực gan bàn chân, một số chỉ số dẫn truyền thần kinh, chỉ   số ABI và một số yếu tố nguy cơ ở người đái tháo đường týp 2. 2.  Đánh giá mối liên quan giữa áp lực gan bàn chân với một số chỉ số dẫn   truyền thần kinh, chỉ số ABI và một số đặc điểm ở người bệnh ĐTĐ týp   2.
  4. 4 CHƯƠNG 1  TỔNG QUAN 1.1. Bệnh đái tháo đường Bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) đang gia tăng nhanh chóng trên toàn thế  giới kéo theo những hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe và kinh tế đối với   toàn xã hội. Năm 2017, theo thống kê của Liên đoàn đái tháo đường thế giới  trên toàn cầu có 451 triệu người mắc bệnh ĐTĐ  ở  độ  tuổi 18­99 và  ước  tính đến năm 2045 con số  này sẽ  là 693 triệu người. Trong đó có khoảng  49,7% bệnh nhân mắc ĐTĐ mà không được chẩn đoán [2].  Bên cạnh đó  cùng với việc tăng sử  dụng thực phẩm không thích hợp, ít hoạt động thể  lực ở trẻ em tại nhiều quốc gia đã làm gia tăng bệnh ĐTĐ ở lứa tuổi trẻ. 1.1.1. Khái niệm về bệnh đái tháo đường ĐTĐ là bệnh rối loạn chuyển hóa không đồng nhất, có đặc điểm   tăng glucose huyết do khiếm khuyết về  tiết insulin, về  tác động insulin  hoặc cả  hai. Tăng glucose mạn tính trong thời gian dài gây nên những rối   loạn chuyển hóa carbonhydrate, protid, lipid, gây tổn thương  ở  nhiều cơ  quan khác nhau, đặc biệt ở tim và mạch máu, thận, mắt, thần kinh [ 2], [2],  [2]. 1.1.2. Cơ chế bệnh sinh bệnh đái tháo đường týp 2 Sinh lý bệnh của ĐTĐ týp 2 khá phức tạp và cho đến nay còn chưa  được hiểu biết đầy đủ. Có nhiều yếu tố  đóng góp vào cơ  chế  bệnh sinh   như  yếu tố  gen, môi trường, béo phì, lối sống ít vận động, nhiễm độc,… Các yếu tố này dẫn tới quá trình làm suy giảm chức năng tế bào bêta tuyến  tụy gây thiếu hụt insulin hoặc gây ra tình trạng kháng insulin hoặc cả  hai. 
  5. 5 Vì vậy đặc trưng sinh lý bệnh của ĐTĐ týp 2 là rối loạn bài tiết insulin và  bất thường về tác dụng của insulin tại các cơ quan đích như  gan, cơ  và tổ  chức mỡ, dẫn tới các rối loạn chuyển hóa đường, mỡ và protein. Hình 1.1. Cơ chế tăng đường máu * Nguồn: theo Defronzo R.A. (2009)[2] ĐTĐ týp 2 chiếm trên 90% trong tổng số bệnh nhân mắc bệnh ĐTĐ  [2]. Thường gặp  ở  người lớn tuổi (> 40 tuổi), nhưng gần  đây xuất hiện   ngày càng nhiều ở lứa tuổi 30, thậm chí thanh thiếu niên, có thể do gia tăng  tỷ lệ béo phì và con người ít hoạt động. Khoảng 50% bệnh nhân ĐTĐ týp 2  đã có một hay nhiều biến chứng ngay tại thời điểm phát hiện bệnh. Các  biến chứng, đặc biệt là biến chứng tim mạch (chiếm 70 – 80% các biến  chứng) ảnh hưởng trầm trọng đến sức khỏe người bệnh. Bệnh có rất nhiều nguyên nhân, xác định được nguyên nhân đặc hiệu  còn khó khăn, nhưng không có hiện tượng hủy hoại tế bào β tự miễn. Hầu   hết bệnh nhân ĐTĐ týp 2 có thừa cân. Tình trạng toan chuyển hóa do tăng   acid cetonic ít khi xảy ra một cách tự  nhiên, thường xảy ra khi có stress  hoặc kết hợp với những bệnh khác như nhiễm khuẩn. ĐTĐ týp 2 diễn biến  chậm, ít có triệu chứng rõ rệt nên người bệnh không biết mình bị  bệnh, 
  6. 6 nhưng lại tiềm  ẩn nguy cơ  phát triển các biến chứng về  mạch máu. Nồng  độ  insulin huyết tương bình thường hoặc tăng. Tình trạng kháng insulin có  thể  được cải thiện bằng các biện pháp giảm cân và/ hoặc bằng thuốc hạ  đường huyết, nhưng ít khi trở lại được trạng thái bình thường. Nguy cơ phát  triển ĐTĐ týp 2 tăng lên theo tuổi, béo phì, không hoạt động thể  lực, tăng   huyết áp, rối loạn chuyển hóa lipid, có sự tham gia của yếu tố chủng tộc và   địa lý. Yếu tố di truyền trong ĐTĐ týp 2 mạnh hơn ĐTĐ týp 1, di truyền của  ĐTĐ týp 2 đa dạng, phức hợp và còn chưa xác định rõ ràng [2]. ĐTĐ týp 2 là một bệnh không đồng nhất, không phải là một bệnh   duy nhất, mà là một tập hợp các hội chứng khác nhau, do sự bất thường về  chế  tiết và tác dụng của insulin, hậu quả  là kháng insulin và giảm tiết  insulin do suy kiệt tế bào β [2].  1.1.2.1. Rối loạn tiết insulin Tế  bào  β tụy bị  rối loạn về  khả năng sản xuất insulin để  đảm bảo  cho chuyển hóa gluocse bình thường. Bất thường về số lượng insulin, thực   chất là một peptid khác nhau thuộc “gia đình insulin” gồm insulin thực sự,  proinsulin   nguyên   và   proinsulin   được   tách   ra   ở   vị   trí   32­33.   Proinsulin  nguyên và proinsulin được tách ra  ở  vị  trí 32­33 tăng gấp 2­3 lần  ở  bệnh  nhân ĐTĐ týp 2 so với người không bị ĐTĐ. Bệnh nhân ĐTĐ týp 2 có giảm   tiết insulin ở pha sớm sau khi uống glucose.
  7. 7 Hình 1.2. Biểu đồ starling của sự tiết insulin * Nguồn: theo Mai Thế Trạch (2007) [2] Sự kém nhậy cảm với glucose làm giảm tiết insulin của tế bào β có thể  do giảm sự  xuất hiện của protein vận chuyển glucose (GLUT 2), hoặc tích tụ  triglycerid và acid béo tự do trong máu, tích tụ triglycerid trong tụy làm “ngộ độc  lipid” ở tụy, hoặc là vai trò của amylin hay tăng nhạy cảm của tế  bào  β  với  chất ức chế trương lực α adrenergic [2]. 1.1.2.2. Kháng insulin Tế bào β đảo tụy là nơi tiết ra insulin và insulin lưu hành trong máu đến  các tế  bào đích truyền tín hiệu và thực hiện nhiệm vụ  của mình, insulin là  hormone đóng vai trò quan trọng trong chuyển hóa carbonhydrat với cơ  chất   chính là chuyển glucose vào trong tế bào, vì vậy khi có bất thường về insulin  sẽ gây nên các rối loạn trong chuyển hóa carbonhydrat. “Kháng insulin là một  tình trạng (của tế bào, cơ quan, hay cơ thể) cần một lượng insulin nhiều hơn   bình thường để đạt được đáp ứng sinh học bình thường” [2]. Insulin truyền tín hiệu bằng cách gắn vào các receptor đặc hiệu trên  màng tế  bào, các thụ  thể  này thuộc nhóm tyrosine kinase receptor, giống  như receptor cho các yếu tố tăng trưởng. Các receptor hoạt động nhờ sự kết  hợp của 2 tiểu đơn vị. Các thông tin của insulin sẽ  không bị  thay đổi khi   chúng được truyền qua các receptor đặc hiệu nhưng cũng có thể  thay đổi   khi truyền tin qua các receptor được hình thành bởi 1 tiểu đơn vị  của thụ  thể insulin và 1 tiểu đơn vị của các yếu tố  phát triển giống insulin (IGF1).   Insulin có ái lực với receptor đặc hiệu cao gấp 100 đến 150 lần so với các   receptor của IGF1, chính vì vậy  ở  nồng độ  insulin sinh lý thì sự  gắn của   insulin với thụ thể IGF1 sẽ không có ý nghĩa [2]. Sự  gắn insulin và receptor của màng tế bào là hiện tượng truyền tín  hiệu để  thực hiện quá trình phosphoryl hóa và dephosphoryl hóa, 4 loại 
  8. 8 protein   từ   IRS1   đến   IRS4   được   phát   hiện   trong   cấu   trúc   của   receptor  insulin. Tín hiệu của insulin được đưa vào tế  bào khi quá trình phosphoryl  hóa ở receptor được thực hiện [2], [2]. Có 2 cách truyền tín hiệu của insulin  vào tế bào: [2], [2], [2]. + Cách 1: Thông quá các chất truyền tin: AKT/PKB + Cách 2: Thông qua các Protein tín hiệu: Ras/Raf/MAP Kháng insulin có thể  do giảm hiệu quả  của ch ất truy ền tin, các  protein tín hiệu chính. Sự giảm này làm xáo trộn quá trình truyền tín hiệu  của insulin dẫn đến kết quả  là kháng insulin ở  tế bào đích. Tùy thuộc vào   khiếm khuyết tín hiệu của insulin do giảm hiệu quả  của chất truyền tin,   protein tín hiệu dẫn đến sự  đề  kháng insulin sẽ   ở  các mức độ  khác nhau  [2],[2]. Sự  truyền tín hiệu của insulin gây nên quá trình chuyển glucose vào  tế  bào và sự  vận chuyển glucose qua các chất vận chuyển từ  nội bào tới  màng plasma trên bề mặt [2], [2]. Có ít nhất 12 loại protein vận chuyển khác  nhau  ở  các loại tế  bào khác nhau [2]. GLUT­4 là chất vận chuyển glucose  thông qua insulin gặp ở hầu hết các loại tế bào (tế bào gan, não, cơ, mỡ …).  GLUT­1 gặp nhiều ở tế bào não, GLUT ­2 gặp nhiều ở tế bào gan, GLUT­3  gặp chủ  yếu  ở  đường tiêu hóa. Một số  nghiên cứu trên tế  bào cơ, mỡ  cho  thấy sự khiếm khuyết gây kháng insulin ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2 có liên quan   đến chất vận chuyển glucose GLUT­4 trong con đường vận chuyển glucose   phụ thuộc insulin.
  9. 9 Bình thường Kháng Insulin Recetor tiếp nhận insulin Protein vận chuyển  Protein vận chuyển  GLUT4 GLUT4 Tín hiệu insulin thông  Tín hiệu insulin  qua PI3 kinase, PDK1  thông qua PI3 kinase,  AKT/PKB PDK1 AKT/PKB Kích hoạt hệ thống vận  Thiếu hụt hệ thống vận  chuyển chuyển Hình 1.3. Cơ chế vận chuyển glucose trong kháng insulin * Nguồn: theo Hangring H.U. và cs (2013)[2] ­ Ở cơ: chủ yếu là do không tổng hợp được glycogen ở cơ và chuyển  hóa  ở  cơ  kém. Quá trình này bị  rối loạn là do giảm hoạt động của enzym  tổng hợp glycogen, giảm phosphoryl hóa để chuyển glucose thành glucose 6  phosphat  ở  cơ. Giảm vận chuyển GLUT4 từ  trong bào tương ra màng tế  bào để vận chuyển glucose dưới tác dụng của insulin [2]. ­  Ở  gan: tăng glucagon dẫn đến tăng tạo glucose từ  glycogen, tăng  hoạt tính enzym phosphoenol pyruvat carboxykinase (PEP­CK) làm tăng tạo  đường ở gan, giảm số lượng các receptor ở các tổ chức phụ thuộc insulin.  Người bệnh ĐTĐ týp 2 trong giai đoạn sớm thì chức năng tế bào bêta   còn đáp  ứng đủ  bù trừ  cho tình trạng kháng insulin, nồng độ  insulin trong   máu vẫn  ở  mức bình thường hoặc cao. Chính sự  bù trừ  này giữ  cho mức  đường máu còn trong giới hạn bình thường hoặc tăng nhẹ  vì vậy bệnh   thường không được chẩn đoán trong nhiều năm đầu do đường huyết lúc  đói vẫn bình thường, đường huyết sau ăn tăng từ từ. Sau một thời gian dài,  dần dần khả năng tiết insulin của tế bào bêta tụy cạn kiệt, dẫn đến giảm  tiết insulin. Vai trò của stress oxy hóa và các gốc tự do là những cơ chế bệnh sinh 
  10. 10 ở  mức tế  bào, mức phân tử  ngày càng thu hút mối quan tâm của các nhà   khoa học. Các gốc tự  do và các dạng oxy hoạt động được hình thành và  đóng vai trò sinh lý quan trọng trong nhiều hoạt động của tế bào nhưng mặt  khác chúng cũng gây nhiều tác hại cho cơ thể. Chúng là những tác nhân độc  hại làm tổn thương màng lipid của tế  bào, bất hoạt các men, các thành  phần protein. Một số  tác nhân gây ĐTĐ được giả  thiết là làm tổn thương   tế  bào  β  thông qua các stress oxy hóa. Sự  gia tăng của các stress oxy hóa   trong bệnh ĐTĐ là hậu quả của nhiều yếu tố như ngộ độc đường gây tăng  tạo các gốc tự  do, giảm yếu tố  chống oxy hóa gây mất cân bằng giữa sự  sản sinh các gốc tự do và khả năng đề kháng lại quá trình oxy hóa. Kháng insulin đã xẩy ra từ  giai  đoạn tiền  ĐTĐ  týp 2, nhiều năm  trước khi ĐTĐ týp 2 xuất hiện. Ở giai đoạn này insulin tăng tiết nhằm đáp  ứng  với  lượng glucose đưa vào, trong khi các yếu tố  nguy cơ  mắc phải  được thêm vào như  béo phì và tình trạng tĩnh tại. Kháng insulin được xem   là yếu tố  cấu thành không liên quan di truyền của bệnh trong   phần lớn  bệnh nhân.Trong đề kháng insulin tiên phát, nếu chức năng tế bào bêta bình   thường vẫn duy trì được nồng độ  glucose tương đối bình thường. Rối loạn   dung nạp glucose có thể ở bệnh nhân kháng insulin còn bù. Những người có  rối loạn dung nạp glucose cũng có thể có tình trạng cường insulin lúc đói và   sau ăn, do không bù đủ đối với sự kháng insulin. Điều này có thể do mức độ  cao của đề kháng insulin hoặc là giới hạn khả năng để tăng tiết insulin. Mặc   dù một số trường hợp rối loạn dung nạp glucose sẽ trở về bình thường hoặc  có thể chuyển sang ĐTĐ týp 2. Loại sau này do giảm tiết insulin. Điều này  có thể là kết quả của bất thường di truyền có sẵn và / hay là mắc phải do   hậu quả  lâu dài của sự  tăng  glucose  máu nhẹ  hoặc tăng FFA, thường quy  cho ngộ độc glucose mạn tính và nhiễm độc chất béo.  Vai trò di truyền trong bệnh nguyên ĐTĐ týp 2 đã được chấp nhận và 
  11. 11 đã minh chứng qua trên 90% ĐTĐ ở người sinh đôi. Thêm vào đó tỷ lệ cao   mắc bệnh ĐTĐ  ở  các cá nhân thế  hệ  thứ  nhất của bệnh nhân ĐTĐ cho   thấy yếu tố  di truyền trong ĐTĐ týp 2 và kháng insulin là tiền triệu ĐTĐ  týp 2 trong cộng đồng.  Các yếu tố khác phối hợp với sự  kiểm soát kém glucose máu như  là  tăng FFA cũng góp phần. Béo phì thường phối hợp với kháng insulin, vì  phần lớn ĐTĐ týp 2 đều béo phì. Kháng insulin do béo phì được xem là yếu   tố  góp phần  ở  các bệnh nhân này. Tuy nhiên béo phì không phải luôn là  kháng insulin  ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2, kháng insulin có thể do béo phì đơn  độc và ĐTĐ týp 2 không béo phì cũng có thể có kháng insulin. 1.1.3. Các yếu tố nguy cơ Các yếu tố  nguy cơ  gây bệnh ĐTĐ týp 2 được nhóm vào trong 4  nhóm có nguy cơ lớn như: nhóm di truyền, nhân chủng, hành vi lối sống và   nhóm nguy cơ chuyển tiếp (nguy cơ trung gian). 1.1.3.1. Các yếu tố gen Yếu tố  di truyền đóng vai trò rất quan trọng trong bệnh ĐTĐ týp 2.  Những đối tượng có mối liên quan huyết thống với người bị bệnh ĐTĐ như  có bố, mẹ  hoặc anh chị  em ruột bị  bệnh ĐTĐ thường có nguy cơ  bị  bệnh   ĐTĐ cao gấp 4 ­ 6 lần người bình thường (trong gia đình không có ai mắc  bệnh ĐTĐ).  Bệnh ĐTĐ týp 2 có liên quan đến yếu tố  gen và các yếu tố  môi   trường. Có hơn 120 locus di truyền được đề xuất có liên quan đến ĐTĐ týp  2, mức đường huyết và insulin trong dân số châu Âu và đa sắc tộc. Đặc biệt  nguy cơ  mắc bệnh ĐTĐ týp 2  ở  đối tượng có mẹ  mắc ĐTĐ cao hơn đối  tượng có bố mắc ĐTĐ [2]. Đặc biệt là những người mà cả  bên nội và bên   ngoại đều có người mắc bệnh ĐTĐ. Khi cha hoặc mẹ bị bệnh ĐTĐ thì nguy  
  12. 12 cơ bị bệnh ĐTĐ của con là 30%, khi cả hai cha mẹ đều bị bệnh thì nguy cơ  mắc bệnh này tăng tới 50%. Hai trẻ sinh đôi cùng trứng, một người bị mắc  bệnh ĐTĐ thì người kia bị xếp vào nhóm đe doạ thực sự bị bệnh ĐTĐ. 1.1.3.2. Các yếu tố nhân chủng học (giới, tuổi, chủng tộc) Tỷ lệ mắc bệnh và tuổi mắc bệnh ĐTĐ thay đổi theo sắc tộc, ở Tây   Âu tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ týp 2 ở  người da vàng cao hơn  ở người da trắng  từ  2 ­ 4 lần, tuổi mắc  ở dân da vàng trẻ hơn thường trên 30 tuổi, ở  người   da trắng thường trên 50 tuổi. Báo cáo điều tra quốc gia từ 2007 – 2009 tại  Mỹ ghi nhận đối với lứa tuổi trên 20 tuổi cho thấy tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ ở  người da trắng không phải gốc Tây Ba Nha 7,1%; Người Mỹ  gốc châu Á  11,8%; người Tây Ba Nha / La tinh: 12,6% [2].  Yếu tố tuổi (đặc biệt là độ  tuổi từ  40 tuổi trở lên) được xếp lên vị  trí đầu tiên trong số  các yếu tố  nguy cơ  của bệnh ĐTĐ týp 2. Khi cơ  thể  già đi, chức năng của tuỵ  nội tiết cũng giảm theo và khả  năng tiết insulin  của tuỵ  cũng bị  giảm. Khả  năng tiết insulin của tuỵ  giảm làm nồng độ  glucose máu có xu hướng tăng lên, đồng thời giảm nhạy cảm của tế  bào  đích với các kích thích của insulin. Khi tế bào tuỵ  không còn khả năng tiết  insulin đủ  với nhu cầu cần thiết của cơ  thể, glucose máu khi đói tăng và   bệnh ĐTĐ thực sự xuất hiện. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh tuổi có liên   quan đến sự  xuất hiện bệnh ĐTĐ týp 2, tuổi càng tăng tỷ  lệ  mắc bệnh   ĐTĐ và rối loạn dung nạp glucose (RLDNG) càng cao. Năm 2011 Trung tâm  kiểm soát và ngăn ngừa bệnh tật Hoa Kỳ thông báo tỷ lệ bệnh ĐTĐ tăng theo  tuổi, 3,7% nhóm 22 – 44 tuổi; 13,7 % ở nhóm 45 – 64 tuổi và 26,9% ở nhóm >   65 tuổi [2]. Bệnh ĐTĐ ảnh hưởng không nhỏ đến tỷ lệ mắc mới và tỷ lệ tử vong  
  13. 13 ở  lứa tuổi trẻ, chính vì vậy việc  ứng dụng các biện pháp can thiệp có hiệu   quả ở lứa tuổi trung niên là cần thiết [2].  1.1.3.3. Các yếu tố nguy cơ liên quan đến hành vi và lối sống       * Béo phì (phân bố và các yếu tố liên quan) Béo phì là một hội chứng đặc trưng bởi sự  tăng tuyệt đối của khối  mỡ  cơ  thể: Béo phì là triệu chứng do nhiều nguyên nhân và sinh lý bệnh  chưa sáng tỏ; là tình trạng bệnh lý bị  tác động bởi nhiều yếu tố [ 2]. Béo  phì là biểu hiện đặc trưng bởi sự  tăng khối mỡ  thường   biểu hiện tăng  triglycerid dưới dạng mô mỡ [2]. Béo phì là nguy cơ của nhiều bệnh không  lây nhiễm như ĐTĐ, rối loạn lipid máu, xơ vữa động mạch, THA... [2]. Ở  người béo phì, mỡ phân phối ở bụng nhiều dẫn đến tỷ lệ vòng bụng /vòng   mông tăng  hơn  bình thường. Béo  bụng  có liên  quan chặt  chẽ   với  hiện  tượng kháng insulin do thiếu hụt sau thụ  thể, dẫn  đến sự  thiếu insulin  tương đối do giảm số  lượng thụ  thể   ở  mô ngoại vi (chủ  yếu mô cơ, mô   mỡ). Do kháng insulin cộng với giảm tiết insulin dẫn đến giảm tính thấm  màng tế bào với glucose  ở  tổ chức cơ và mỡ, ức chế  quá trình phosphoryl   hoá và oxy hoá glucose, làm chậm quá trình chuyển carbohydrate thành mỡ,  giảm tổng hợp glycogen  ở  gan, tăng tân tạo đường mới, dễ  dẫn đến tiền  ĐTĐ và sau đó là bệnh ĐTĐ xuất hiện. Các k ết quả  nghiên cứ u d ịch t ễ  h ọc t ừ  năm 2003 đế n 2004 cho  thấy kho ảng 32% ng ườ i M ỹ  tr ưở ng thành mắ c béo phì và khoả ng 34%   số  ng ườ i khác thừ a cân [2]. Tại Việt Nam, một số  nghiên cứu cho thấy những người có BMI >  25 kg/m2  có nguy cơ  bị  bệnh ĐTĐ týp 2 nhiều hơn gấp 3,74 lần so với   người bình thường. Có khoảng 70 ­ 80% người bệnh ĐTĐ týp 2 bị béo phì.  Béo phì là một trong những nguy cơ có thể phòng tránh. Nghiên cứu của Hu  
  14. 14 F.B. và cộng sự  năm 1980 ­ 1986 thực hiện trên 84.941 phụ  nữ  không bị  bệnh ĐTĐ tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu, kết quả cho thấy thừa cân và   béo phì là nguy cơ số 1 gây tình trạng tiền đái tháo đường và là tiền đề cho  sự phát triển thành bệnh ĐTĐ týp 2 sau 16 năm theo dõi [2]. * Ít hoạt động thể lực Nhiều nghiên cứu khác nhau trên thế giới đã cho thấy việc tập luyện  thể lực thường xuyên có tác dụng giảm nhanh chóng nồng độ glucose huyết  tương bệnh nhân ĐTĐ týp 2, đồng thời giúp duy trì sự bình ổn của lipid máu,  huyết áp, cải thiện tình trạng kháng insulin và giúp cải thiện tâm lý. Sự phối   hợp hoạt động thường xuyên và điều chỉnh chế độ ăn có thể giúp làm giảm   58% tỷ lệ mới mắc ĐTĐ týp 2. Đã có nhiều bằng chứng cho rằng hoạt động  thể lực có rất nhiều lợi ích trên chuyển hóa, trao đổi chất của một số mô và  cơ quan bao gồm cả mô cơ xương, mỡ, gan, tuyến tụy và cả não. Đã có nhiều   nghiên cứu đưa ra giảm 7% trọng lượng cơ  thể  và thay đổi lối sống bằng  việc đi bộ  nhanh khoảng 150 phút mỗi tuần giúp giảm nguy cơ  mắc bệnh  ĐTĐ týp 2 khoảng 58%. [2].  * Chế độ ăn Nhiều nghiên cứu đã nhận thấy tỷ  lệ  bệnh ĐTĐ tăng cao  ở  những   người có chế  độ  ăn nhiều chất béo bão hoà, nhiều carbohydrate tinh chế.  Ngoài ra thiếu hụt các yếu tố vi lượng hoặc vitamin góp phần làm thúc đẩy  sự tiến triển bệnh ở người trẻ tuổi cũng như người cao tuổi. Người già mắc   bệnh ĐTĐ có sự  tăng sản xuất gốc tự do, nếu bổ sung các chất chống oxy   hoá như  vitamin C, vitamin E thì phần nào cải thiện được hoạt động của   insulin và quá trình chuyển hoá. Một số  người cao tuổi mắc ĐTĐ bị  thiếu   magie và kẽm, khi được bổ  sung những chất này đã cải thiện đã cải thiện   tốt chuyển hoá glucose.
  15. 15 Chế độ ăn nhiều xơ, ăn ngũ cốc ở dạng chưa tinh chế (khoai, củ), ăn   nhiều rau làm giảm nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ.  * Các yếu tố khác + Stress + Lối sống phương Tây hoá, thành thị hoá, hiện đại hoá. Các nghiên cứu khác nhau trên thế giới, đã cho thấy bệnh ĐTĐ tăng  nhanh  ở  những nước đang phát triển, đang có tốc độ  đô thị  hoá nhanh; đó   cũng là những nơi đang có sự chuyển tiếp về dinh dưỡng, lối sống. Ví dụ:   tỷ lệ bệnh ĐTĐ ở Trung Quốc là 2% trong khi đó người Trung Quốc sống   ở Mauritius có tỷ lệ mắc bệnh là 13%. + Các yếu tố liên quan đến thai nghén (tình trạng sinh, ĐTĐ thai kỳ, ĐTĐ,   con cháu của những phụ nữ ĐTĐ khi mang thai, môi trường trong tử cung). Những người có tiền sử RLDNG, khả năng tiến triển thành bệnh ĐTĐ   thực sự  là rất cao.  Hàng năm có khoảng 5%  đến 10%  người tiền  ĐTĐ  chuyển thành bệnh ĐTĐ và cũng một tỷ  lệ  tương đương có glucose máu  trở  về  bình thường [2]. Khả  năng tiến triển thành bệnh ĐTĐ týp 2 của  những người RLDNG là rất cao. Theo Harris M.I. và cộng sự  nghiên cứu  năm 1989  ở  Mỹ  cho thấy, tỷ  lệ  RLDNG gặp khá nhiều và tăng dần theo   tuổi ở người da trắng và nam giới da đen nhưng giảm ở phụ nữ da đen trên  54 tuổi, có thể  do tỷ lệ béo bụng ở  phụ  nữ  da đen cao làm xuất hiện sớm   bệnh ĐTĐ ở người có rối loạn glucose máu lúc đói [ 2]. Theo Saad M.F. và  cộng sự RLDNG có nguy cơ  phát triển thành bệnh ĐTĐ týp 2 cao gấp 6,3  lần so với người bình thường [2]. Cách dự phòng bệnh ĐTĐ ở những người  có RLDNG hiệu quả  vẫn là điều chỉnh chế  độ  ăn uống, sinh hoạt và tăng  cường hoạt động thể lực.
  16. 16 1.1.4. Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường theo Hội nội tiết đái tháo  đường Việt Nam dựa vào một trong các tiêu chí [2], [2]. + Glucose huyết thanh lúc đói (FPG) ≥ 7mmol/l (126mg/dl). Đói khi   người bệnh nhịn ăn ít nhất 8 giờ. Hoặc: + Glucose máu huyết tương sau 2 giờ  ≥ 11,1 mmol/l (≥ 200mg/dl) khi   làm nghiệm pháp dung nạp glucose đường uống được tiến hành theo WHO,  sử  dụng tương đương 75g glucose khan (anhydrous glucose) hòa tan trong  200ml nước. Hoặc: + HbA1c ≥ 6,5 % (48mmol/mol), xét nghiệm làm theo phương pháp đã  đượcchương trình chuẩn quốc gia cấp chứng nhận và được chẩn hóa áp dụng  trong nghiên cứu Diabetes Control and Complication trail (DCCT) xét nghiệm  theo phương phá sắc ký lỏng cao áp.  Hoặc: + Những bệnh nhân có triệu chứng tăng đường máu kinh điển, hoặc có  cơn   tăng   đường   máu   kèm   theo   đường   máu   ngẫu   nhiên   ≥   11,1   mmol/l   (200mg/dl). Ghi chú: Nếu bệnh nhân không có triệu chứng kinh điển của tăng đường  máu (bao gồm tiểu nhiều, uống nhiều, ăn nhiều, sút cân không rõ nguyên nhân),  ngoài HbA1c, các xét nghiệm khác cần được làm lại lần 2 để  xác định chẩn   đoán. Thời gian thực hiện xét nghiệm lần 2 sau lần 1 có thể từ 1 đến 7 ngày  [2].  1.1.5. Biến chứng mạn tính bệnh đái tháo đường týp 2 Thời gian phát hiện tăng đường máu kéo dài thì nguy cơ  xuất hiện   các biến chứng càng tăng. Bệnh nhân ĐTĐ typ 2 thường có thời gian tăng  đường máu mà không được phát hiện, do vậy nhiều bệnh nhân khi mới  chẩn đoán đã xuất hiện những biến chứng [ 2]. Tỷ lệ bệnh ĐTĐ ngày càng 
  17. 17 gia tăng trên toàn thế giới nhưng do có sự cải thiện về phòng bệnh và điều  trị tích cực bệnh ĐTĐ đã giúp ngăn ngừa các biến chứng cấp và làm chậm  sự xuất hiện của các biến chứng mạn. Bệnh ĐTĐ týp 2 chiếm tỉ lệ lớn, chủ  yếu xảy ra sau tuổi 40, là một bệnh diễn tiến chậm khó xác định được thời   điểm bị bệnh, nên ngay ở thời điểm bệnh được chẩn đoán đã có thể xuất hiện ít   nhiều các biến chứng mạn tính. Nếu không được chẩn đoán sớm và điều trị  kịp thời, các biến chứng sẽ gia tăng góp phần làm gia tăng tỉ lệ biến chứng  mạn tính của ĐTĐ. Các biến chứng mạn tính làm gia tăng tỷ  lệ  tàn phế  và tử  vong trên  bệnh nhân ĐTĐ. Vì thế, gánh nặng biến chứng mạn do ĐTĐ sẽ  gia tăng  nhanh trong những năm tới, trong đó bao gồm các biến chứng mạch máu  lớn và mạch máu nhỏ. * Biến chứng mạch máu nhỏ Các   biến   chứng   mạch   máu   nhỏ   bao   gồm   biến   chứng   mắt,   biến  chứng thận, và biến chứng thần kinh. +   Biến   chứng   mắt:   Trong   các   biến   chứng   mắt   do   ĐTĐ   thì   biến  chứng võng mạc là thường gặp và quan trọng nhất. Khoảng 25% – 40 %  bệnh nhân ĐTĐ týp 2 đã có các biến chứng võng mạc vào thời điểm chẩn  đoán ĐTĐ. Sau 15 năm từ khi được chẩn đoán ĐTĐ, 85% bệnh nhân ĐTĐ  týp 2 dùng insulin và 65% bệnh nhân không dùng insulin có các tổn thương   đáy mắt [2]. Bệnh võng mạc ĐTĐ là nguyên nhân hàng đầu gây giảm thị  lực trên toàn cầu.  Ước tính có khoảng 285 triệu người với ĐTĐ trên toàn  thế giới, khoảng một phần ba có dấu hiệu bệnh võng mạc và trong số này   một phần ba là bệnh võng mạc đe dọa thị  lực, bao gồm phù hoàng điểm  [2]. Tất cả các biến chứng  ở  mắt do ĐTĐ có thể  được ngăn ngừa bằng  cách chẩn đoán sớm và điều trị. Do đó, kiểm tra mắt định kỳ  là cần thiết 
  18. 18 để giảm mất thị lực liên quan đến bệnh tiểu đường. Kiểm soát đường máu  tốt và các yếu tố  nguy cơ  khác như  THA và rối loạn lipid (RLLP) máu là   mục tiêu chính để  ngăn ngừa các biến chứng  ở  mắt của bệnh ĐTĐ týp 2  [2]. ­ Đục thuỷ tinh thể là một nguyên nhân quan trọng khác gây mù loà ở  người bệnh ĐTĐ. Đục thuỷ tinh thể do ĐTĐ có hai thể: thể dưới vỏ và thể  lão hoá. Thể dưới vỏ chủ yếu xảy ra trong ĐTĐ týp 1, có thể tiến triển rất   nhanh, có khi cả hai mắt cùng bị.  + Biến chứng thận: Biến chứng thận trong bệnh ĐTĐ liên quan đến  tổn thương vi mạch cầu thận, dẫn đến microalbumin niệu, protein niệu (có  thể có hội chứng thận hư) và cuối cùng là suy thận.  Bệnh thận ĐTĐ được xác định là sự  xuất hiện albumin trong nước  tiểu hoặc giảm mức lọc cầu thận hoặc cả hai, đây là biến chứng nghiêm  trọng, chiếm khoảng 20 đến 40 % tổng số  bệnh nhân mắc ĐTĐ [2]. Do  bệnh nhân ĐTĐ ngày càng tăng, đặc biệt là ĐTĐ týp 2 nên bệnh thận ĐTĐ  là nguyên nhân hàng đầu gây suy thận giai đoạn cuối.  + Biến chứng thần kinh: Trong số các biến chứng mạn tính của ĐTĐ  thì biến chứng thần kinh là hay gặp nhất. Tăng đường máu mạn tính gây  mất myelin của sợi thần kinh, dẫn đến mất chức năng của nó. Có nhiều  giả thiết về quá trình sinh bệnh học bệnh thần kinh ĐTĐ, bao gồm sự hình  thành các sản phẩm glycat hoá muộn, tăng sorbitol, tăng hoạt tính protein  kinase. Tất cả đều gây phá huỷ mao mạch nuôi dưỡng thần kinh. Các biến chứng thần kinh do ĐTĐ bao gồm tổn thương đa dây thần   kinh ngoại vi, tổn thương đơn dây thần kinh và tổn thương thần kinh thực  vật. Tổn thương đa dây thần kinh ngoại vi thường xuất hiện ở các sợi trục   dài  trước, do  đó  thường biểu hiện sớm  nhất  ở  chân rồi  ở  tay với tổn  
  19. 19 thương dây cảm giác và vận động đối xứng. Tổn thương đơn dây thần   kinh ít gặp hơn nhiều so với tổn thương đa dây thần kinh, hay gặp nhất  ở  các dây thần kinh sọ  não. Tổn thương thần kinh thực vật có thể  xảy ra  ở  tất cả  các cơ  quan, trong đó quan trọng là hệ  tim mạch, tiêu hóa và tiết   niệu. Năm 2017, Jaisway M. và cộng sự nghiên cứu xác định tỷ lệ các yếu  tố nguy cơ đối với bệnh thần kinh ngoại vi do đái tháo đường ở nhóm bệnh  nhân trẻ  tuổi. Nghiên cứu sử  dụng thang điểm sàng lọc bệnh lý thần kinh   của Michigan đánh giá 1734 bệnh nhân ĐTĐ týp 1 và 258 bệnh nhân ĐTĐ  týp 2 ghi nhận tỷ lệ bệnh thần kinh ngoại vi  ở bệnh nhân ĐTĐ týp 1 là 7%   và ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2 là 22% [2].  Quản lý và điều trị bệnh lý thần kinh ĐTĐ trước hết phải kiểm soát   đường huyết, phòng hoặc giảm tình trạng bệnh lý thần kinh, giảm triệu   chứng đau. Giáo dục bệnh nhân là khâu rất quan trọng, để nhận biết được các  dấu hiệu, triệu chứng của biến chứng thần kinh và cách chăm sóc. *Biến chứng mạch máu lớn Xơ  vữa động mạch là một biến chứng thường gặp của bệnh ĐTĐ  đặc biệt là ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2. Xơ vữa động mạch ở đây xảy ra sớm   hơn, nặng hơn, lan rộng hơn và hay  ảnh hưởng đến các động mạch ở  xa.  Người mắc bệnh ĐTĐ có nguy cơ mắc bệnh mạch vành tăng từ  2 – 3 lần  so với người bình thường. Bệnh lý mạch máu lớn chiếm tới 80% nguy cơ  tử  vong  ở  bệnh nhân ĐTĐ týp 2. Nhiều nghiên cứu cho thấy bệnh mạch  máu xuất hiện ở lứa tuổi trẻ hơn so với người không mắc bệnh ĐTĐ [2]. + Bệnh mạch vành: Bệnh mạch vành là yếu tố  tiên lượng xấu  ở  bệnh nhân ĐTĐ týp 2, tỷ lệ tử vong tăng từ 2 đến 4 lần ở bệnh nhân ĐTĐ   có bệnh lý tim mạch [2]. Bệnh nhân ĐTĐ có tỷ lệ bệnh mạch vành cao 2 ­ 
  20. 20 3 lần so với người bình thường. Tổn thương mạch vành trong bệnh nhân  ĐTĐ rải rác hơn và ảnh hưởng nhiều đến các mạch máu nhỏ làm cho việc  điều trị tái tạo mạch máu rất khó khăn. Khoảng 70% bệnh nhân ĐTĐ týp 2  trên 65 tuổi tử vong là do bệnh tim và đột quỵ [2]. Các yếu tố  nguy cơ  của bệnh mạch vành: Tăng huyết áp, tiền sử  bệnh tim mạch gia đình ở tuổi 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0