intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu hình thái, thể lực và đa hình gen ty thể của người Gia Rai và Ê Đê định cư ở Tây Nguyên

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:180

11
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án Tiến sĩ Y học "Nghiên cứu hình thái, thể lực và đa hình gen ty thể của người Gia Rai và Ê Đê định cư ở Tây Nguyên" trình bày các nội dung chính sau: Mô tả một số đặc điểm hình thái, thể lực của người Gia Rai và Ê Đê định cư ở Tây Nguyên giai đoạn 2018 và 2019; Xác định đặc điểm đa hình gen ty thể của người Gia Rai và Ê Đê định cư ở Tây Nguyên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu hình thái, thể lực và đa hình gen ty thể của người Gia Rai và Ê Đê định cư ở Tây Nguyên

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN QUÂN Y  NGUYỄN MINH TÙNG NGHIÊN CỨU HÌNH THÁI, THỂ LỰC VÀ ĐA HÌNH GEN TY THỂ CỦA NGƯỜI GIA RAI VÀ Ê ĐÊ ĐỊNH CƯ Ở TÂY NGUYÊN LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC HÀ NỘI ­ NĂM 2022
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN QUÂN Y NGUYỄN MINH TÙNG NGHIÊN CỨU HÌNH THÁI, THỂ LỰC VÀ ĐA HÌNH GEN TY THỂ CỦA NGƯỜI GIA RAI VÀ Ê ĐÊ ĐỊNH CƯ Ở TÂY NGUYÊN Chuyên ngành: Khoa học Y sinh Mã số: 9 72 01 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. GS. TS. Nguyễn Văn Ba 2. PGS. TS. Nguyễn Đăng Tôn HÀ NỘI ­ NĂM 2022 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan số  liệu trong đề  tài luận án là một phần số  liệu trong đề  tài  “Nghiên cứu các giải pháp nâng cao năng lực bảo vệ  chăm sóc sức khỏe cộng đồng  
  3. vùng biên giới Tây Nguyên và tạo sản phẩm hàng hóa từ  nguồn dược liệu bản địa”.  Các số liệu trong luận án được lấy từ thành quả lao động của các thành viên trong đề  tài và số  liệu luận án được lấy từ  một phần trong số liệu nghiên cứu của đề  tài. Ban   chủ  nhiệm đề  tài đã cho phép tôi được sử  dụng các số  liệu này để  phân tích và viết  luận án để bảo vệ lấy bằng tiến sĩ. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực và chưa   từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả Nguyễn Minh Tùng
  4. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành công trình nghiên cứu này, tôi xin đượ c gửi lòng biết ơn tới: Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện Quân y, Phòng Sau đại học ­ Học viện Quân y, Bộ môn Giải phẫu ­ Học viện Quân y, Viện Nghiên cứu hệ gen ­ Vi ện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Các Sở Y tế, Trung tâm y tế huyện, Trạm y tế xã thuộc các tỉnh Tây Nguyên. Tôi cũng xin đượ c gửi lời cảm  ơn đến đồng bào các dân tộc Gia Rai và Ê Đê đã   tham gia cộng tác cùng nghiên cứu này. Tôi xin đượ c gửi cảm ơn tới các thành viên trong đề tài khoa học công nghệ cấp   nhà nước đã cho phép tôi đượ c sử  dụng các thành quả  lao động để  phân tích và viết   luận án. Đặc biệt tôi xin đượ c bày tỏ  lòng kính trọng và biết  ơn gửi tới hai thầy hướng  dẫn luận án: GS.TS. Nguy ễn Văn Ba, TS. Nguyễn Đăng Tôn đã dành nhiều thời gian,   công sức, trí tuệ và tình cảm để giúp đỡ tôi hoàn thành luận án. Tôi xin đượ c bày tỏ  lòng biết  ơn đến gia đình, bạn bè và những ngườ i thân đã   giúp tôi hoàn thành công trình nghiên cứu này./. Hà Nội, ngày ........ tháng ........ năm 2022 Nghiên cứu sinh Nguyễn Minh Tùng
  5. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục Danh mục chữ viết tắt trong luận án Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ Danh mục các hình ảnh
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ, KÝ HIỆU VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN TT Phần viết tắt Phần viết đầy đủ 1. ATP Adenosine triphosphate 2. BMI Body Mass Index (Chỉ số khối cơ thể) 3. DNA Deoxyribonucleic Acid 4. FBM Fat Body Mass (Khối mỡ cơ thể) 5. LBM Lean Body Mass (Khối nạc cơ thể) 6. LMC Liên mào chậu 7. LMCV Liên mỏm cùng vai 8. PCR Polymerase Chain Reaction (Phản ứng chuỗi polymerase) 9. rCRS Revised   Cambridge   Reference   Sequence   (Trình   tự  10. WHO World Health Organization (Tổ chức Y tế Thế giới).
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng Tên bảng Trang
  8. DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Biểu đồ Tên biểu đồ Trang
  9. DANH MỤC CÁC HÌNH Hình Tên hình Trang
  10. ĐẶT VẤN ĐỀ Các chỉ tiêu nhân trắc là một bộ phận quan trọng trong các chỉ số sinh học của con   người. Chúng được sử dụng không chỉ riêng trong công tác y tế để theo dõi, đánh giá hình  thái, thể lực, dinh dưỡng và tình trạng bệnh tật mà còn được ứng dụng trong nhiều ngành   kinh tế quốc dân khác như xây dựng các tiêu chuẩn kích thước người để thiết kế máy móc,  phương tiện sản xuất, sinh hoạt, và trong tuyển quân, tuyển sinh v.v...[1]. Trên thế  giới, đánh giá nhân trắc học đã xuất hiện từ  rất sớm, có thể  nói là từ  khi  con người biết xác định chiều cao và cân nặng của mình [1].  Hiện nay dù có nhiều phương  tiện thăm dò hiện đại, nhưng nhân trắc học vẫn là phương pháp không xâm lấn, đơn giản, ít   tốn kém, được áp dụng phổ biến nhất trên toàn thế giới để đánh giá về tỷ lệ và thành phần   cơ thể con người [2]. Tại Việt Nam, các chuẩn mẫu tham khảo đầu tiên đại diện cho thập   kỷ  70 đã được tổng kết bởi Đỗ  Xuân Hợp và Nguyễn Quang Quyền trong “Hằng số sinh   học người Việt Nam” [3]. Kể từ đó có nhiều nghiên cứu về chỉ số sinh học người Việt Nam  nói chung và chỉ số hình thái, thể lực nói riêng đã được thực hiện [ 4], [5]. Ngoài các yếu tố  mô trường sống và điều kiện kinh tế xã hội,  các nghiên cứu chỉ ra rằng yếu tố di truyền là   yếu tố quyết định chính đến các kiểu hình hoạt động thể chất như khả năng hấp thụ oxy tối  đa [6], [7] và sức mạnh cơ bắp [8], [9]. Vì vậy, nghiên cứu đại thể về hình thái, thể lực kết  hợp nghiên cứu cấp độ phân tử xác định sự đa dạng di truyền quần thể là một trong những  hướng đi quan trọng trong nghiên cứu y sinh.  Nghiên cứu di truyền quần thể  có thể  sử  dụng gen trong nhân, nhưng có một số  nhược điểm như: tần số đột biến thấp, di truyền từ cả bố và mẹ, bị phân ly qua mỗi thế hệ  nên việc xác định các mối quan hệ di truyền rất khó khăn. Ngày nay, nghiên cứu di truyền   ty thể người với lợi thế tần số đột biến cao, số lượng lớn và di truyền theo dòng mẹ đang là   các công cụ hữu hiệu trong các nghiên cứu di truyền quần thể. Ngoài ra, đột biến gen ty thể  cũng gây ra một số bệnh lý di truyền, đặc biệt các rối loạn tổng hợp ATP và trao đổi chất tế  bào từ đó ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của hệ thần kinh và hệ cơ nói riêng hay thể lực   nói chung [10].  Để có các nghiên cứu chuyên sâu về gen ty thể, việc xây dựng cơ sở dữ liệu biến dị  di truyền người Việt Nam là điều cần thiết. Tuy nhiên, bộ gen ty thể người Việt Nam chưa   được công bố đầy đủ, đặc biệt các dân tộc ít người. Bên cạnh đó, nghiên cứu các chỉ  tiêu   nhân trắc ở người dân tộc thiểu số chưa được tiến hành định kỳ, thường xuyên để  thấy sự  thay đổi trong điều kiện sống của cộng đồng các dân tộc.  Ở nước ta, Tây Nguyên từng là   một vùng nghèo, kinh tế khó khăn, gần đây đã trở thành 1 trong 6 vùng kinh tế lớn của cả  nước, là khu vực đa dạng nhất về thành phần dân tộc. Trong đó, người Gia Rai và Ê Đê là   dân tộc thiểu số có dân số đông nhất, có ngôn ngữ riêng và nhiều nét văn hóa lâu đời [11]. 
  11. Nhằm phát huy nguồn lực “con người” dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên nói chung và  người Gia Rai, Ê Đê nói riêng. Đồng thời cung cấp cơ sở khoa học để  đánh giá sức khỏe   thể chất và tinh thần của người Tây Nguyên, cung cấp một số chỉ số dùng cho công tác bảo  vệ chăm sóc sức khỏe, phòng và chữa bệnh của ngành Y tế, chúng tôi đã tiến hành đề tài:   “Nghiên cứu hình thái, thể lực và đa hình gen ty thể của người Gia Rai và Ê Đê định   cư ở Tây Nguyên” với các mục tiêu: 1. Mô tả  một số đặc điểm hình thái, thể  lực của người Gia Rai và Ê Đê định cư   ở  Tây Nguyên giai đoạn 2018 và 2019. 2. Xác định đặc điểm đa hình gen ty thể của người Gia Rai và Ê Đê định cư  ở Tây  Nguyên.
  12. CHƯƠNG 1  TỔNG QUAN 1.1. TỔNG QUAN VỀ NHÂN TRẮC HỌC HÌNH THÁI VÀ THỂ LỰC 1.1.1. Tầm quan trọng của thể lực Thể lực là năng lực vận động của con người, nó phản ánh mức độ phát triển của các   cơ quan trong một cơ thể hoàn chỉnh thống nhất, có thể nói cách khác, thể lực là sức mạnh   của con người để khắc phục lực đối kháng bên ngoài [12]. Sự phát triển thể lực là quá trình  thay đổi hình dáng chức năng của cơ thể con người trong đời sống cá thể. Bên cạnh đó, nó  còn mang tính đặc thù về  chủng tộc, giới tính, lứa tuổi, nghề  nghiệp và phụ  thuộc vào   nhiều yếu tố. Trong đó, những chỉ tiêu đặc biệt quan trọng để theo dõi đánh giá sự  lớn lên   là: cân nặng, chiều cao, vòng ngực... Các chỉ tiêu này phản ánh một cách trung thành đầy   đủ và khách quan các yếu tố bên trong (di truyền) cũng như bên ngoài (điều kiện kinh tế ­  xã hội, điều kiện sống, chế độ dinh dưỡng...) ảnh hưởng đến sự  phát triển của cơ  thể [13].  Và ngành học nghiên cứu các chỉ số kích thước cơ thể gọi là nhân trắc học hình thái. Hiện   nay dù có nhiều phương tiện thăm dò hiện đại, nhưng nhân trắc học vẫn là phương pháp   không xâm lấn, đơn giản, ít tốn kém, được áp dụng phổ  biến nhất trên toàn thế  giới để  đánh giá về tỷ lệ và thành phần cơ thể của con người [ 2]. Cụ thể, trong mối quan hệ giữa   môi trường và sức khỏe, các thông số  hình thái thể  lực được coi là thước đo sức khỏe và   khả năng lao động của con người. Chính vì vậy chúng được vận dụng rộng rãi trong nhiều   lĩnh vực khoa học kỹ thuật, khám sức khỏe hay chẩn đoán lâm sàng một số bệnh liên quan  đến thể lực.  Tóm lại, hình thái thể  lực là một trong những chỉ  số  quan trọng quyết định chất  lượng dân số  và sự  phát triển xã hội. Vì vậy, Đảng và nhà nước ta đã luôn quan tâm đến   công tác dân số con người, coi đó là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất   nước, là một trong những vấn đề  kinh tế  ­ xã hội hàng đầu của nước ta, là một yếu tố  cơ  bản để  nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã hội.   Nghị quyết của Bộ Chính trị số 47/NQ/TW, ngày 22 tháng 5 năm 2005 đã đưa ra mục tiêu  “Nâng cao chất lượng dân số Việt Nam về thể chất, trí tuệ, tinh thần, cơ cấu nhằm đáp ứng  nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [14]. Theo mục  6, điều 3, Pháp lệnh dân số Việt Nam: “Chất lượng dân số là sự phản ánh các đặc trưng về 
  13. thể chất, trí tuệ và tinh thần của toàn bộ dân số” [ 15]. Như vậy, một trong ba đặc trưng của  chất lượng dân số là thể chất (thể chất gồm nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có các số  đo   về chiều cao, cân nặng, sức mạnh, tốc độ, sức bền, sự khéo léo... dinh dưỡng, bệnh tật, tuổi   thọ, các yếu tố giống nòi, gen di truyền của người dân). Chú trọng và nâng cao thể chất sẽ  là một trong những nhiệm vụ quan trọng để nâng cao chất lượng dân số. 1.1.2. Sơ lược lịch sử nghiên cứu nhân trắc học trên thế giới Nhân trắc học là khoa học nghiên cứu các kích thước cơ thể  con người. Nhân trắc   học ra đời từ rất lâu, có thể nói là từ khi con người biết đo chiều cao và cân nặng của mình   [1], [16]. Theo Tanner T.M., công trình nghiên cứu đầu tiên về sự tăng trưởng con người là   của Lampert C.F. với luận án “Nguyên nhân giới hạn của sự  phát triển cơ  thể  động vật”  bảo vệ ngày 5 tháng 11 năm 1754 tại Đại học Y khoa ở Halle. Trong luận án này, Lampert   C.F. đã đưa ra lý thuyết cho rằng sự tăng trưởng là do áp lực của các chất dịch trong mạch   máu lớn hơn sức cản của các tổ chức sợi của cơ thể, đặc biệt là tổ  chức xương. Vì vậy, cơ  thể tăng trưởng hay căng ra (theo mọi chiều) và sự tăng trưởng chỉ ngừng lại khi có sự cân   bằng áp lực. Về mặt thực hành, ông đã mô tả một số kỹ thuật và mốc đo (như là chiều cao  đứng, cân nặng, chiều dài của chi, vòng cánh tay, vòng ngực qua núm vú...) và sử dụng hệ  đếm cơ  số  12 thay vì hệ  thập phân để  cuối cùng tạo nên các bảng mô tả  các kích thước   nhân trắc theo tuổi và theo giới [17]. Tuy nhiên, công trình của Lampert C.F. không được  biết đến trong một thời gian dài. Vào năm 1914, R. Martin được xem là người đặt nền  móng cho nhân trắc học hiện đại với tác phẩm “Giáo trình về nhân học”, trong đó ông đã   đề  xuất và hoàn chỉnh một hệ  thống dụng cụ  đo đạc, các phương pháp nghiên cứu trong  nhân trắc học, đặc biệt là sự   ứng dụng toán thống kê sinh học [4]. Kể từ  đây, các nghiên  cứu nhân trắc ngày càng phong phú, phát triển song song với lịch sử phát triển nhân chủng   học. Tuỳ  theo mục đích nghiên cứu người ta chia ra: nhân trắc nhân chủng học ­ chuyên   nghiên cứu hình thái các chủng tộc loài người; nhân trắc học đường ­ nghiên cứu thể lực và  các tiêu chuẩn kiểm tra sức khoẻ học sinh; nhân trắc công nghiệp hay ergonomy phục vụ  cho lĩnh vực thiết kế đồ dùng, dụng cụ và phương tiện sản xuất [ 1]. Trong đó, nhân trắc y  học nghiên cứu sự phát triển cơ thể trẻ em theo từng lứa tuổi, phân loại tình trạng thể lực  và dinh dưỡng, xác định các thay đổi hình thái do bệnh lý... Cụ  thể, các chỉ  số  nhân trắc   học có thể  giúp xác định các nguy cơ  mắc các bệnh không lây nhiễm như  bệnh đái tháo  đường, bệnh tim mạch… hay theo dõi tình trạng dinh dưỡng ở phụ nữ mang thai hoặc bệnh 
  14. nhân béo phì  [18], [19], [20]. Ngoài ra, phương pháp nhân trắc học có thể  góp phần xác  định sớm tình trạng suy giảm thể chất và nâng cao chất lượng cuộc sống [21]. 1.1.3. Sơ lược lịch sử nghiên cứu nhân trắc học ở Việt Nam Ở  Việt Nam, nhân trắc học được quan tâm khá sớm, từ  những năm 30 của thế  kỷ  XX, tại Viện Giải phẫu học Hà Nội và ban Nhân học thuộc Viện Viễn đông Bác cổ  với   những công trình của Đỗ Xuân Hợp, Bigot A., Huard P. được công bố  chủ  yếu trong Nội  san “Các công trình nghiên cứu của Viện Giải phẫu học, Đại học Y khoa Đông dương” từ  1936 đến 1944. Tuy nhiên, các công trình trong thời kỳ  này vẫn còn ít nhiều hạn chế  vì  chưa vận dụng được toán học thống kê vào việc trình bày và nhận định kết quả, các dụng  cụ nghiên cứu không được nói tới [22]. Nghiên cứu bị đứt đoạn qua 9 năm kháng chiến chống Pháp và bắt đầu khôi phục  trở lại từ khi hoà bình được lập lại ở miền Bắc năm 1954, do nhu cầu xây dựng chủ  nghĩa   xã hội, các công tác điều tra cơ bản về y tế đã được đẩy mạnh, trong đó điều tra nhân trắc  đã có những bước tiến đáng kể. Toán học thống kê đã được vận dụng để nhận định kết quả  chính xác hơn. Nhiều nghiên cứu về hình thái thể lực trên nhiều đối tượng khác nhau đáng  chú ý trong giai đoạn này có thể kể là:  Hằng số hình thái nhân loại học của Đỗ Xuân Hợp  và cộng sự  (1967) [22]; Nghiên cứu một số  kích thước hình thái và thể  lực của học sinh   phổ thông từ  7 đến 18 tuổi ở Thái Bình của Đinh Kỷ và cộng sự  (1972) [23]; Nhận xét về  chiều cao, vòng ngực, cân nặng của công nhân Hà nội của Lê Gia Khải và cộng sự (1969)  [24]; Nghiên cứu về  các chế  độ  đánh giá thể  lực học sinh Việt Nam  của Nguyễn Quang  Quyền và cộng sự (1971) [25]... Các nghiên cứu thời kỳ này cho thấy người Việt Nam nói  chung là thấp, bé, nhẹ  cân và gầy hơn người nước ngoài, nhưng mặt khác vẫn đảm bảo  được sức chịu đựng và dẻo dai, biểu hiện  ở  các thăm dò chức năng hô hấp, tuần hoàn rất  bình thường [26]. Hai hội nghị toàn miền Bắc về hằng số sinh học ở người Việt Nam bình thường đã  được triệu tập (1967 và 1972). Qua đó, hàng chục công trình về nhân trắc học đã được tổng  kết trong tập “Hằng số sinh học người Việt Nam” năm 1975 [3]. Những kết quả nghiên cứu  này được xem như là chuẩn mẫu tham khảo đầu tiên của người Việt Nam ở hai thập kỷ 60  và 70. Các nghiên cứu này đã xây dựng được một số thang phân loại các kích thước cơ thể  và các chỉ số thể lực người Việt Nam trong giai đoạn đó; giúp ích cho việc kiểm tra và theo   dõi sức khoẻ của học sinh trong quá trình học tập; đề ra tiêu chuẩn và kế hoạch tuyển quân;  
  15. xây dựng chế  độ  sinh hoạt, luyện tập trong quân đội; trong thể  dục thể  thao các chỉ  tiêu   nhân trắc học là cơ sở lựa chọn các vận động viên thích hợp cho từng ngành để đạt thành  tích tối đa [1], [25]. Sau ngày thống nhất đất nước, các nghiên cứu điều tra nhân trắc hình thái thể  lực  càng được tiếp tục đẩy mạnh và hoàn thiện ở miền Bắc, bắt đầu mở  rộng ra ở miền Trung  và miền Nam. Phạm Văn Nguyện và cộng sự  nghiên cứu trên các đối tượng sinh viên khu vực  Huế  (1985) đã nhận thấy so với hằng số  sinh học người Việt Nam 1975, tầm vóc thể  lực  của nam sinh viên Huế tốt hơn, nhưng của nữ sinh viên Huế lại yếu hơn [27]. Từ cuối thập kỷ 70 và những năm đầu của thập kỷ 80, bên cạnh hướng nghiên cứu   về hình thái, tầm vóc thể lực. Các nghiên cứu nhân trắc đã bắt đầu quan tâm đến lĩnh vực  nhân trắc dinh dưỡng, đặc biệt là những vấn đề về tỷ lệ các thành phần cấu tạo cơ thể (khối   mỡ, khối nạc), bề dày các nếp da, diện tích da cơ thể... Đó là các công trình:  Các chỉ số thể  lực với khối mỡ và khối nạc của công nhân sửa chữa ô tô (1976) của Trần Minh Nhỡn [28].  Tỷ trọng da và mỡ dưới da ở người Việt Nam (1976) của Lê Gia Vinh và cộng sự [29]. Xây  dựng công thức tính thể  tích mỡ  dưới da  ở  người Việt Nam   (1978) của Nguyễn Quang  Quyền và cộng sự  [30]; Diện tích bề mặt cơ  thể của người Việt Nam  (1977) của Nguyễn  Quang Quyền cộng sự  [31];  Khối mỡ, khối nạc, huyết áp, bề  dày lớp mỡ  dưới da và sự  tương quan giữa chúng  ở  công nhân Mộc Châu (1985) của Vũ Duy San và cộng sự  [32];  Xác định khối mỡ  từ  đo bề  dày nếp gấp da để  đánh giá tình trạng dinh   dưỡng  ở  người  trưởng thành (1985) của Hà Huy Khôi và cộng sự [33]; Bề dày lớp mỡ dưới da, khối mỡ cơ  thể của người Mường Thanh Hoá (1985) của Trịnh Hữu Vách và cộng sự [34]; Một số chỉ  tiêu nhân trắc dinh dưỡng của nhân dân  ở một phường nội thành Hà Nội (1994) của Trần  Đình Toán [35]. Các nghiên cứu này đã xây dựng được một số  công thức tính khối mỡ,  khối nạc cho người Việt Nam và đã đưa ra được các số  liệu đánh giá về  tình trạng dinh   dưỡng cũng như  các thang phân loại độ  béo gầy theo các tiêu chuẩn khác nhau trong giai   đoạn này. Cũng trong thập kỷ 80, tập Atlat nhân trắc học người Việt Nam trong lứa tuổi lao   động của Viện nghiên cứu bảo hộ lao động ra đời, đây là một nghiên cứu có quy mô lớn  trên nhiều đối tượng ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam và kết quả được xem như là chuẩn mẫu   tham khảo thứ hai đại diện cho thập kỷ 80 và cũng đã nêu lên một nhận định là có quy luật  
  16. gia tăng về tầm vóc cơ thể theo thời gian trong vòng hơn 10 năm qua [ 4]. Bước sang thập  kỷ 90, một cuộc điều tra cơ bản về nhân trắc với quy mô lớn nhất từ trước đến nay đã triển  khai và mở rộng trên phạm vi toàn quốc theo Dự án nhà nước “Các giá trị sinh học người  Việt Nam bình thường thập kỷ 90­thế kỷ XX”. Số liệu nhân trắc thu thập được lên tới hàng  vạn đối tượng nghiên cứu, đã được tổng kết và được xem là chuẩn mẫu tham khảo thứ  ba  đại diện cho thập kỷ 90 [5]. Thẩm Thị Hoàng Điệp (1992) nghiên cứu đặc điểm hình thái  và thể lực học sinh một trường phổ thông cơ sở Hà Nội đã cung cấp thông tin thể  lực học   sinh sau 10 năm liên tục theo dõi từng cá thể bằng phương pháp dọc [36]. Bước sang những năm 2000, Nguyễn Trường An đã đánh giá về mặt nhân trắc học   tình trạng thể lực, dinh dưỡng và phát triển người miền trung từ  15 tuổi trở  lên [2]; Trần  Sinh Vương đã nghiên cứu cải tiến chỉ  số  Pignet trong đánh giá thể  lực người Việt Nam   trưởng thành [37]... Trong những năm trở lại đây, nhiều tác giả vẫn tiếp tục nghiên cứu đánh giá thể lực  của người Việt Nam trên cộng đồng các dân tộc và các vùng miền như  Mai Văn Hưng   (2015), (2017), Hoàng Quý Tỉnh (2000), Đỗ  Hồng Cường và cộng sự  (2017) [38], [39],  [40], [41]... Qua việc điểm lại những công trình nghiên cứu về tầm vóc thể  lực của người   Việt Nam trưởng thành trong thời gian qua, có thể nhận thấy người Việt Nam có vóc dáng  nhỏ bé so với thang phân loại của thế giới nhưng thể lực vẫn đủ  tốt để  đảm bảo sinh hoạt  và lao động. Trong thời kỳ trên dưới 15 năm trở  lại đây, đa số  các tác giả  đã có một nhận  định chung là có sự xuất hiện của quy luật gia tăng tầm vóc thể lực theo thời gian. Tuy vậy,  việc nâng cao tầm vóc thể lực cũng như cân đối thành phần cấu tạo cơ thể thế nào để hợp  lý cho người Việt Nam hiện nay vẫn luôn là những vấn đề rất quan trọng và cần thiết. 1.1.4. Đặc điểm hình thái, thể lực người Việt Nam  Theo các công trình nghiên cứu về  hình thái, thể  lực của người Việt Nam  ở  miền   Bắc được tập hợp trong cuốn “Hằng số sinh học người Việt Nam” do nhà xuất bản Y học   ấn hành năm 1975 [3] thì người Việt Nam trước năm 1975 có chỉ số hình thái, thể lực như  sau: ­ Chiều cao của người Việt Nam thuộc loại trung bình thấp, chiều cao của nam   trung bình là 158,0 ÷ 160,0 cm, cao hơn so với chiều cao của nữ, trung bình là 148,0 ÷   150,0 cm. Sự chênh lệch về chiều cao giữa nam và nữ của người Việt Nam cũng nằm trong   giới hạn phổ biết thường thấy trên thế giới (dao động trong khoảng trên dưới 10 cm).
  17. ­ Cân nặng của cơ  thể  người Việt Nam tương đối nhẹ  so với trọng lượng người   nước ngoài: nam trung bình 45,0 ÷ 47,5 kg, nữ trung bình 41,0 ÷ 45,0 kg. ­ Vòng ngực của nam trung bình là 75,0 ÷ 78,0 cm; nữ trung bình là 71,0 ÷74,0 cm.   Vòng ngực nam lớn hơn nữ 4 ÷ 6 cm. ­ Chỉ số Pignet của nam trung bình là 34,0 ÷ 37,0 kém hơn nữ, trung bình là 31,0 ÷  36,0. Một nghiên cứu thực hiện trên 861 sinh viên (năm học 2019­2020) cho thấy số đo  hình thể  của nam sinh viên tốt hơn nhiều so với sinh viên nữ. Các chỉ  số  hình thể  trong  nghiên cứu tốt hơn so với các nghiên cứu trước đó. Cụ thể, nam sinh viên và nữ  sinh viên   có cân nặng trung bình là 60,9±9,6 kg và 48,7±6,5 kg, chiều cao nam và nữ sinh viên lần   lượt là 168,4±5,7 và 155,9±5,6 cm. So với một nghiên cứu năm 2009, sinh viên nam nặng  hơn 8,5 kg và sinh viên nữ nặng hơn 3,9 kg, chiều cao của sinh viên nam và nữ cũng tăng   lần lượt là 4,2 cm và 3,3 cm. Chỉ số Pignet ở nam là 27,3±14,2 và nữ là 35,2±11,1 thấp hơn   so với nghiên cứu năm 1975 đặc biệt ở nam sinh viên. Điều đó chứng tỏ học sinh nam ngày  nay có thể lực tốt hơn các thời kỳ trước, tuy nhiên ở học sinh nữ thì thể lực không được cải   thiện đáng kể [42].  Hiện nay, việc nghiên cứu riêng về  hình thái học đã ít đi, thay vào đó các chỉ  số  nhân trắc quan trọng như cân nặng, chiều cao, vòng bụng, vòng mông… thường được tiến   hành thu thập kết hợp với các nghiên cứu bệnh trạng hay các cuộc tổng điều tra toàn quốc.   Cụ thể, kết quả tổng điều tra dinh dưỡng toàn quốc 2017 – 2020 cho thấy đã có sự thay đổi   mạnh  ở  nhóm thanh niên nam 18 tuổi năm 2020 đạt chiều cao trung bình 168,1cm (tăng   3,7cm so với năm 2010: 164,4cm), nữ năm 2020 đạt 156,2cm (năm 2010: 154,8cm). Tỷ lệ  suy dinh dưỡng ở trẻ em và người trưởng thành giảm, nhưng rất đáng lưu ý là tỷ lệ trẻ em  thừa cân, béo phì tăng gấp 2,2 lần, từ  8,5% năm 2010 lên thành 19,0% năm 2020 [ 43]. Ở  người trưởng thành tỷ lệ thừa cân/béo phì tăng 15,6% kèm theo đó tỷ lệ mắc các bệnh đái  tháo đường, tăng huyết áp và rối loạn mỡ máu… cũng tăng theo [44], [45]. Người ta đã xác  định rất nhiều mối liên quan giữa các chỉ  số  hình thái thể  lực và bệnh tật, vì vậy việc đo   lường các chỉ  số  này trong các nghiên cứu hiện nay là vô cùng cần thiết, tuy nhiên để  có  góc nhìn khái quát nhất các nghiên cứu hình thái học trên các đối tượng, quy mô khác nhau  cần được tiến hành định kỳ thường xuyên. Một số công trình nghiên cứu về hình thái, thể lực người Tây Nguyên:
  18. Từ kết quả nghiên cứu của Đào Mai Luyến về chiều cao người Ê Đê và người Kinh   định cư ở Đắk Lắk. ­ Chiều cao: + Chiều cao người Ê Đê và người Kinh định cư ở Đắk Lắk cho thấy chiều cao của   nam, nữ người Ê Đê không khác so với người Kinh. + So sánh chiều cao của nam và nữ ở các lứa tuổi khác nhau cho thấy ở độ tuổi 18 ÷   25, chiều cao của nam người Ê Đê (163,9±6,07 cm) và chiều cao của nam người Kinh định  cư   ở  Đắk Lắk (163,1±5,43 cm) cao hơn so với chiều cao của nữ người Ê Đê (152,8±5,51  cm) và của nữ  người Kinh định cư   ở  Đắk Lắk (154,0±5,13 cm).  Ở  lứa tuổi từ  26 đến 40   chiều cao của nam người Ê Đê (162,9±5,96 cm) và chiều cao của nam người Kinh định cư  ở Đắk Lắk (163,6±5,06 cm) cũng cao hơn so với chiều cao nữ người Ê Đê (153,0±5,51 cm)   và của nữ người Kinh định cư ở Đắk Lắk (153,2±4,98 cm). Cũng theo tác giả Đào Mai Luyến thì chiều cao của người Kinh định cư  ở Đắk Lắk  tương tự như chiều cao của người Kinh sống ở các vùng khác nhau trên đất nước ta đã được   nhiều tác giả nghiên cứu gần đây và cao hơn rõ so với các dẫn liệu về chiều cao người Việt   Nam nêu trong cuốn “Hàng số  sinh học người Việt Nam” xuất bản năm 1975. Các tác giả  đều thống nhất rằng sự phát triển chiều cao của người Việt Nam nói chung là có liên quan  đến sự phát triển điều kiện kinh tế ­ xã hội của nước ta trong mấy chục năm gần đây [46]. ­ Cân nặng: Cũng giống như  người Kinh định cư   ở  Đắk Lắk, cân nặng của nam   người Ê Đê ở các lứa tuổi đều nặng hơn so với cân nặng của nữ người Ê Đê. Ở  nhóm tuổi   18 ÷ 25 cân nặng của nam người Ê Đê (55,97±6,63kg) không khác so với cân nặng của  người Kinh định cư ở Đắk Lắk (53,45±6,59kg). Trong khi đó cân nặng của nữ người Ê Đê   (47,51±5,59kg) cao hơn có ý nghĩa thống kê so với cân nặng của nữ người Kinh định cư  ở  Đắk Lắk (45,82±5,27kg). ­ Vòng ngực:  Ở lứa tuổi 18 ÷ 25, vòng ngực của nam người Ê Đê (79,95±4,71cm)  lớn hơn so với vòng ngực của nam người Kinh định cư  ở Đắk Lắk (76,97±5,34cm). Vòng  ngực của nữ người Ê Đê và nữ người Kinh ở lứa tuổi này không có sự khác biệt. ­ Chỉ số Pignet: Chỉ số Pignet của nam người Ê Đê và nam người Kinh đều tốt hơn   so với nữ người Ê Đê và nữ người Kinh. ­ BMI:  Ở  nhóm tuổi 18 ÷ 25 BMI của nam người Kinh (20,12±2,1) và nữ  người   Kinh   (19,33±2,1)   tương   đương   với   nam   người   Ê   Đê   (20,86±1,7)   và   nữ   người   Ê   Đê 
  19. (20,33±2,0). 1.1.5. Một số chỉ tiêu và chỉ số hình thái thể lực ­ Cân nặng: cân nặng là một trong những kích thước quan trọng nhất để  đánh giá  hình thái thể lực, nó liên quan trực tiếp với chế độ dinh dưỡng và hoạt động cơ  bắp ở từng  lứa tuổi. Cân nặng cũng có liên quan mật thiết với chiều cao và cùng phụ  thuộc nhiều vào  tình trạng dinh dưỡng của cơ  thể. Cân nặng cơ  thể  của một người nói lên khả  năng đồng   hóa và dị hóa hay tỉ lệ giữa hấp thu và tiêu hao năng lượng. Khi số năng lượng lấy vào cơ  thể do thức ăn bằng số năng lượng tiêu thụ thì trọng lượng cơ thể không đổi. Cân nặng của   một người bao gồm: phần cố định: chiếm 1/3 tổng số  cân nặng gồm: xương, da, các tạng   và thần kinh; phần thay đổi: chiếm 2/3 tổng số cân nặng, gồm 3/4 là trọng lượng của cơ và  1/4 là mỡ và nước. Điều này cũng xác định thêm là tăng cân tức tăng phần thay đổi của cơ  thể  theo chiều tăng tiến, vì vậy tăng cân nói lên phần nào mức độ  tăng thể  lực của cơ  thể  [47]. ­ Chiều cao đứng: chiều cao đứng là một đặc trưng điển hình nhất trong các đặc   trưng hình thể. Thực tế cho thấy chiều cao có quan hệ mật thiết với hiệu quả của các hoạt   động thể lực với các thành tích thi đấu của nhiều môn thể thao [47].  ­ Chiều cao ngồi: chiều cao ngồi cũng được nhiều tác giả  chú ý trong các nghiên  cứu các kích thước cơ thể [47]. ­ Vòng đầu: chu vi vòng đầu phản ánh sự tăng trưởng của dung lượng não.  ­ Vòng ngực: vòng ngực là một chỉ  tiêu đánh giá hình thái thể  lực tốt, hay dùng  trong nghiên cứu. Ngoài ra, vòng ngực còn gián tiếp đánh giá chức năng hô hấp của cơ thể,   sự  phát triển của cơ  bắp. Các chỉ  tiêu đánh giá vòng ngực trong nghiên cứu này là vòng  ngực bình thường, vòng ngực hít hết sức, vòng ngực thở ra hết sức [47]. ­ Vòng bụng trên mào chậu, vòng mông, tỷ  lệ  vòng bụng/vòng mông: tỷ  lệ  vòng  bụng/vòng mông thường dùng để đánh giá tình trạng dinh dưỡng cộng đồng, đa số các tác  giả sử dụng tỷ lệ vòng bụng/ vòng mông như là một chỉ số đánh giá sự  tập trung mỡ bụng   hay là tình trạng béo phì trung tâm, có liên quan với các bệnh lý như  đái tháo đường, cao   huyết áp, rối loạn chuyển hóa lipid, các bệnh lý tim mạch... WHO xếp loại nguy cơ béo phì   trung tâm theo tỷ lệ vòng bụng/ vòng mông là >1,0 cho nam và >0,85 cho nữ. ­ Vòng đùi phải và  vòng cánh tay phải co, vòng bắp chân trái: các số  đo này có  tương quan rất chặt với cân nặng và do đó có thể thay thế cân nặng trong việc đánh giá thể 
  20. lực. Các vòng này có  ưu điểm hơn cân nặng là có thể  biểu hiện sức căng cơ  nhiều hơn,   dụng cụ để đo vòng lại đơn giản hơn. ­ Đường kính liên mỏm cùng vai (LMCV), đường kính trước ­ sau ngực, đường  kính ngang ngực, và chỉ  số  ngực: cho phép đánh giá sự  phát triển về  chiều ngang của cơ  thể.  Chỉ số ngực = 100*Đường kính trước ­ sau ngực/Đường kính ngang ngực Chỉ  số  ngực cho ta thấy hình dáng của lồng ngực. Chỉ  số  càng nhỏ  thì ngực càng  dẹt, nghĩa là đường kính trước ­ sau ngực càng nhỏ  so với đường kính ngang. Chỉ  số  này   cho ta khái niệm về thể  lực vì người yếu thường có ngực dẹt, còn người khỏe thường có  ngực nở nang. ­ Đường kính liên mào chậu (LMC): cho phép đánh giá sự  phát triển về  chiều  ngang của cơ  thể. Đối với sản khoa, đo các đường kính của chậu hông rất cần để  biết độ  lớn của khung chậu, để đánh giá một khung chậu hẹp hay rộng. Liên quan giữa đường kính   LMCV và đường kính LMC có các chỉ số:  Chỉ số Tanner = 3 x đường kính LMCV ­ đường kính LMC Chỉ số LMC/LMCV = 100 x đường kính LMC / đường kính LMCV ­ Bề dày nếp da: là các chỉ số đánh giá tình trạng dinh dưỡng của cơ thể. Từ bề dày   các nếp da, người ta có thể tính được tỷ lệ phần trăm mỡ cơ thể thông qua tính tỷ trọng cơ  thể. Có 3 điểm thường được sử dụng để tính bề dày nếp da là: sau cánh tay, dưới bả vai và   trên mào chậu. Tổng bề dày 3 nếp da = Bề dày nếp da sau cánh tay + Bề dày nếp da dưới bả vai + Bề dày   nếp da trên mào chậu. ­ Chỉ số Skelie = 100* (Cao đứng ­ Cao ngồi) / Cao ngồi. Chỉ số Skelie dùng để đánh giá chiều dài tương đối của chi dưới so với chiều cao ngồi. Chỉ  số càng lớn thì chân càng dài. ­ Chỉ số Pignet = Cao đứng ­ (Cân nặng + Vòng ngực trung bình). Bảng 1.. Thang phân loại chỉ số Pignet Pignet 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2