LUẬN ÁN: Xây dựng môi trường văn hóa ở thành phố Đà Nẵng hiện nay
lượt xem 45
download
Con người không thể tồn tại nếu tách khỏi môi trường tự nhiên (MTTN), cũng như con người không thể thực sự trở thành Người nếu tách khỏi môi trường văn hóa (MTVH). Một MTVH trong sạch, lành mạnh, thích hợp và phong phú chính là "cái nôi" nuôi dưỡng, là nguồn năng lượng để hình thành bản lĩnh, năng lực sáng tạo, đạo đức, tâm hồn, tình cảm và nhân cách con người. Không thể có một tâm hồn lớn, một nhân cách trong sáng lại được sinh - trưởng trong một MTVH ô nhiễm, độc hại; và...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN ÁN: Xây dựng môi trường văn hóa ở thành phố Đà Nẵng hiện nay
- II LUẬN ÁN: Xây dựng môi trường văn hóa ở thành phố Đà Nẵng hiện nay
- Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Con người không thể tồn tại nếu tách khỏi môi trường tự nhiên (MTTN), cũng như con người không thể thực sự trở thành Người nếu tách khỏi môi trường văn hóa (MTVH). Một MTVH trong sạch, lành mạnh, thích hợp và phong phú chính là "cái nôi" nuôi dưỡng, là nguồn năng lượng để hình thành bản lĩnh, năng lực sáng tạo, đạo đức, tâm hồn, tình cảm và nhân cách con người. Không thể có một tâm hồn lớn, một nhân cách trong sáng lại được sinh - trưởng trong một MTVH ô nhiễm, độc hại; và cũng không thể có sự phát triển bền vững của một quốc gia, dân tộc một khi xem nhẹ việc bảo vệ, bồi đắp, xây dựng và phát triển MTVH của mình. Trong vài thập kỷ gần đây, MTVH đã trở thành tiêu chí, điều kiện cơ bản để đánh giá sự phát triển tiến bộ, bền vững của mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới. Thất bại của không ít các quốc gia do tách rời văn hóa với phát triển kinh tế, xem nhẹ vai trò của MTVH đã dẫn đến những bất ổn nghiêm trọng trong đời sống chính trị - xã hội, dẫn đến sự khủng hoảng về kinh tế và sự tha hóa về nhân cách của con người. Không phải ngẫu nhiên mà ông Federico Mayor (Tổng giám đốc UNESCO) đã phải cảnh báo: "Hễ nước nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách khỏi MTVH, thì nhất định sẽ xảy ra những mất cân đối nghiêm trọng, cả về kinh tế lẫn văn hóa và tiềm năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy giảm rất nhiều" [48, tr. 8]. Giá trị thời đại của vấn đề ngày càng gia tăng cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế, sự phát triển khoa học, công nghệ, sự phát triển của tiến bộ xã hội... và thực sự trở thành vấn đề có tính toàn cầu. ở Việt Nam, xây dựng MTVH trở thành yêu cầu bức thiết, là điều kiện cơ bản đảm bảo sự thành công của công cuộc đổi mới toàn diện đất
- nước. Sự lựa chọn con đường đi lên CNXH của dân tộc càng khẳng định vai trò to lớn của MTVH, với tư cách không chỉ là động lực mà còn ở mục tiêu hướng tới của nó: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" [13, tr. 163]. Xây dựng MTVH lành mạnh cho sự phát triển kinh tế, xã hội được coi là nhân tố cơ bản để giữ vững ổn định chính trị, tạo lập công bằng xã hội, xây dựng nhân cách con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới. Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định cần phải phát triển nhanh nhưng bền vững, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; mục tiêu chân - thiện - mỹ là đích vươn tới của văn hóa Việt Nam. Cùng với những thành tựu quan trọng mà chúng ta đã đạt được qua hơn 15 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo, cũng phải nghiêm túc nhìn nhận hiện trạng MTVH nước ta đang bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập cần được nhận thức đầy đủ, giải quyết thỏa đáng. Mặt trái của cơ chế thị trường đã và đang làm nảy sinh không ít những tệ nạn xã hội (TNXH), thói hư, tật xấu..., sự tấn công, phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch làm xói mòn đạo đức, lối sống, phá vỡ thuần phong, mỹ tục, chao đảo kỷ cương phép nước. MTVH vẫn đang trong thời đoạn chuyển đổi, chưa định hình rõ nét. Vì vậy, kịp thời ngăn chặn những tiêu cực, độc hại, bảo vệ và xây dựng MTVH lành mạnh, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) vừa có những mặt phù hợp với xu thế tiến bộ chung của thế giới, vừa thể hiện những bản chất ưu việt của nền văn hóa XHCN, phù hợp với tình hình thực tiễn ở nước ta nói chung và mỗi địa phương nói riêng. Mặc dầu vậy, đây lại là lĩnh vực khá mới mẻ, chưa được quan tâm nhiều trong hoạt động nghiên cứu khoa học, cũng như trong hoạt động thực tiễn xây dựng đời sống văn hóa (ĐSVH) ở các địa phương. Rất nhiều vấn đề cơ bản về MTVH cần được nhận thức và giải quyết thấu đáo. Khái niệm, bản chất, cấu trúc... của MTVH là gì? Thực trạng MTVH ở nước ta hiện nay ra sao? Các quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm
- nâng cao chất lượng, hiệu quả của MTVH trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH thế nào v,v... đang là vấn đề khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải giải đáp đầy đủ cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Đặc biệt đối với Đà Nẵng một đơn vị mới được chia tách thành thành phố trực thuộc Trung ương (1-1-1997) càng là vấn đề mới mẻ đòi hỏi phải giải đáp. Xuất phát từ tình hình đó, tôi đã chọn đề tài: "Xây dựng môi trường văn hóa ở thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay" làm đề tài luận văn tốt nghiệp hệ cao học của mình. Mong muốn của bản thân không chỉ góp phần bổ sung về mặt lý luận, mà còn trực tiếp hơn hình thành những luận cứ khoa học để tiếp tục nghiên cứu và vận dụng vào thực tiễn xây dựng MTVH ở nước ta nói chung và ở thành phố Đà Nẵng nói riêng trong tình hình mới. 2. Tình hình nghiên cứu Hiện nay ở nước ta đã xuất hiện một số công trình nghiên cứu, một số bài viết của các tác giả có đề cập ít nhiều đến vấn đề MTVH và xây dựng MTVH, như: Đỗ Huy, Cần xây dựng MTVH pháp luật ở nước ta hiện nay, Người đại biểu nhân dân, 9-10/1993; GS.PTS Trần Văn Bính (chủ biên), Văn hóa dân tộc trong thời kỳ mở của hiện nay, Nxb CTQG, H. 1996; Nguyễn Hồng Sơn, Môi trường văn hóa với sự hình thành nhân cách, Tạp chí Tư tưởng văn hóa, 1/1997; GS.TS Huỳnh Khái Vinh, Lối sống với môi trường sinh thái và môi trường văn hóa, Thông tin lý luận, 4/1998; GS.PTS Hoàng Vinh, Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở nước ta, Viện Văn hóa, Nxb VHTT, 1999; PGS. Trường Lưu, Văn hóa một số vấn đề lý luận, Nxb CTQG, 1999; GS. Lê Thi, Khái niệm môi trường nhân văn và vấn đề giáo dục môi trường nhân văn ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, 6/1999; Trần Lê Bảo, Môi trường tự nhiên nhân văn, Văn hóa nghệ thuật, 11/1999; Phạm Vũ Dũng, Nhận diện mấy vấn đề văn hóa, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa - thông tin, 1999; Đỗ Huy, Xây dựng môi trường văn hóa ở nước ta từ góc nhìn giá trị học, Văn hóa nghệ thuật, 4/2001... Tuy nhiên, vấn đề "xây dựng môi trường văn hóa ở thành phố Đà Nẵng hiện nay" còn chưa có công trình nào đề cập đến.
- 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài 3.1. Mục đích Từ góc độ lý luận về MTVH và xuất phát từ thực tiễn xây dựng MTVH ở nước ta hiện nay (nói chung) và thành phố Đà Nẵng (nói riêng), luận văn có mục đích nghiên cứu sau: - Làm sáng tỏ bản chất, cấu trúc, đặc điểm, vai trò, chức năng... của MTVH. - Qua nghiên cứu, khảo sát thực trạng MTVH ở thành phố, luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng MTVH ở thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. 3.2. Nhiệm vụ - Góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về MTVH. - Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng xây dựng MTVH, đề ra những giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng MTVH ở địa phương. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng
- Đối tượng khảo sát, nghiên cứu của luận văn này là vấn đề xây dựng MTVH ở nước ta (nói chung) và ở thành phố Đà Nẵng (nói riêng) qua khảo sát, đánh giá chủ yếu tập trung ở khu vực đô thị. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn chủ yếu tập trung phân tích, đánh giá thực trạng MTVH ở khu vực đô thị thành phố Đà Nẵng, để trên cơ sở đó đề ra các giải pháp sát thực, đúng đắn. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn - Hệ thống hóa và làm sâu sắc hơn một số vấn đề lý luận về MTVH và xây dựng MTVH ở nước ta hiện nay. - Phân tích, đánh giá để đi đến nhận thức đúng về thực trạng MTVH ở khu vực đô thị thành phố Đà Nẵng. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần cùng địa phương nâng cao hiệu quả hoạt động xây dựng MTVH trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu và vận dụng vào thực tiễn xây dựng MTVH ở thành phố Đà Nẵng; làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy môn Lý luận văn hóa trong hệ thống các trường Đảng địa phương. 6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng; chú ý kết hợp các phương pháp phân tích và tổng hợp, lôgíc và lịch sử; đồng thời tiếp thu và sử dụng linh hoạt các phương pháp so sánh, thống kê, điều tra xã hội học; tiếp cận và xử lý vấn đề chủ yếu từ góc độ lý thuyết hoạt động. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
- Chương 1 Một số vấn đề lý luận về môi trường văn hóa 1.1. Quan niệm về môi trường văn hóa Xuyên suốt tiến trình lịch sử, thành quả lao động sáng tạo bằng tri thức, trí tuệ, tâm hồn và tình cảm của con người đã sản sinh ra một "hệ sinh thái đặc biệt" riêng có ở con người - đó là hệ sinh thái văn hóa. Cùng với hệ sinh thái tự nhiên, hệ sinh thái văn hóa thường xuyên tác động tới con người, bồi dưỡng tâm hồn, đạo lý, rèn luyện ý chí và tôi luyện nhân cách con người. "Nếu đại tự nhiên là cái nôi đầu tiên nuôi sống con người, thì văn hóa là cái nôi thứ hai, ở đó toàn bộ đời sống tinh thần của con người được hình thành, được nuôi dưỡng và phát triển. Con người không thể tồn tại nếu tách rời đại tự nhiên, cũng như con người không thể thực sự là con người nếu tách rời môi trường văn hóa" [9, tr. 65]. Điều đó khẳng định văn hóa thực sự có ý nghĩa bởi nó chứa đựng toàn bộ những sản phẩm, hành động, phương thức ứng xử, kiểu mẫu hoạt động... hàm chứa hệ thống giá trị nhân văn, vốn tri thức và kinh nghiệm xã hội đã được đúc kết trong thực tiễn lịch sử, tạo thành MTVH lành mạnh nuôi dưỡng con người, phát triển con người ngày càng hoàn thiện về mọi mặt. Đây chính là cơ sở lý luận quan trọng để tiếp cận, nghiên cứu về MTVH. 1.1.1. Khái niệm môi trường văn hóa Trong vài thập kỷ trở lại đây, vấn đề môi trường và bảo vệ môi trường sống của con người đã trở thành mối quan tâm đặc biệt đối với mọi quốc gia trên toàn cầu. Nó không còn là vấn đề của khoa học tự nhiên (KHTN) hay kinh tế thuần túy, mà trước hết là vấn đề văn hóa, xã hội hết sức bức thiết đặt ra buộc loài người phải giải quyết trong những chặng đường phát triển tiếp theo. Bên cạnh những thuật ngữ đã được sử
- dụng khá phổ biến trước đây như "môi trường sinh thái (tự nhiên)", "môi trường sống", "môi trường xã hội"... một thuật ngữ mới được đưa vào sử dụng khá phổ biến trong các công trình nghiên cứu khoa học, trong các nghị quyết của Đảng cũng như trên các phương tiện thông tin đại chúng ở nước ta - đó chính là "môi trường văn hóa". Tuy nhiên, MTVH là gì? cho đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu để đưa ra những luận giải khoa học theo những tiêu chí đặc trưng của khái niệm để đi đến một quan niệm thống nhất về thuật ngữ. Do đó, để nhận thức đúng MTVH cần thiết phải xem xét mối quan hệ giữa "môi trường" và "văn hóa", xem xét nội hàm và ngoại diên của khái niệm MTVH; mà thực chất của vấn đề là tìm hiểu mối quan hệ giữa con người và thế giới bao quanh con người để giải quyết các vấn đề thuộc lĩnh vực văn hóa dưới góc độ môi trường. Khái niệm môi trường rất rộng, phức tạp và đa nghĩa, nên có nhiều cách quan niệm (theo nghĩa rộng, hẹp) khác nhau: * Quan niệm theo nghĩa hẹp: coi môi trường chỉ bao gồm những gì thuộc về tự nhiên, hay thế giới vật chất bao quanh con người. Đây là cách tiếp cận khái niệm từ góc độ KHTN thuần túy ở các nước phương Tây và được sử dụng khá phổ biến vào khoảng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. ở nước ta, đến những năm 90 của thế kỷ XX quan niệm này vẫn còn tồn tại khá phổ biến. Trong mục tìm hiểu khái niệm "Môi trường và bảo vệ môi trường" tạp chí Cộng sản (số 19/1996) [41, tr. 58] và tạp chí Công tác khoa giáo (số 1/1997) [42, tr. 32] cũng chỉ nhấn mạnh đến các yếu tố tự nhiên, sinh thái, các yếu tố vật chất nhân tạo bao quanh con người có ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của con người mà không hề đề cập đến các yếu tố tư tưởng, tinh thần, các yếu tố xã hội, văn hóa - với tư cách là một bộ phận quan trọng cấu thành môi trường sống của con người.
- Cũng vì lẽ đó, cho đến nay mặc dù cụm từ "môi trường" đã không còn xa lạ với mọi người dân Việt Nam, tuy vậy dường như khi đề cập tới nó vẫn còn không ít người chỉ đơn thuần quan niệm đó là các hợp phần của tự nhiên bao quanh như không khí, đất, nước, sinh vật... Sự nhầm tưởng, hay nói đúng hơn là quan niệm một cách phiến diện này vô hình chung đã làm mất đi "một nửa quan trọng khác" nếu không nói là có ý nghĩa quyết định trong môi trường sống của con người - đó là môi trường xã hội (MTXH) - nhân văn. Hệ quả của nó là trong nhận thức, cũng nh ư trong hoạt động thực tiễn đã xem nhẹ vai trò của MTXH, MTVH, gây ra nhiều hậu quả đáng tiếc. * Quan niệm theo nghĩa rộng: là những quan niệm coi "môi trường" bao gồm những gì không chỉ thuộc về tự nhiên như đôi khi người ta lầm tưởng, nói đến môi trường là nói đến "mọi thứ quanh ta", "có liên quan mật thiết với ta", bất kể nó thuộc về tự nhiên, xã hội hay văn hóa. Michel Batisse (nhà nghiên cứu người Pháp) tác giả của những công trình nghiên cứu nổi tiếng thế giới về môi trường đã xác định: "Môi trường không chỉ bó hẹp ở những không gian được gọi là tự nhiên và đã bị biến đổi ít nhiều qua các thời kỳ mà còn bao gồm cả những không gian nhân tạo làm khung cảnh cho cuộc sống của hầu hết mọi người" [2, tr. 47-48]. Theo định nghĩa của UNEP (chương trình môi trường của Liên hiệp quốc) thì: "Môi trường là thế giới mà chúng ta đang sống trong đó". Còn theo các nhà nghiên cứu của Cộng đồng châu Âu: "Môi trường là sự liên hợp của các yếu tố mà những mối t ương tác phức tạp của chúng đã tạo nên hoàn cảnh, điều kiện chung quanh và điều kiện sống của cá nhân và của xã hội khi họ sống trong đó hay khi họ cảm thấy" [21, tr. 25].
- ở nước ta, Từ điển tiếng Việt (xuất bản năm 1997), môi trường được định nghĩa là: "Toàn bộ nói chung những điều kiện tự nhiên, xã hội, trong đó con người hay một sinh vật tồn tại, phát triển trong quan hệ với con người, với sinh vật đó" [46, tr. 618]. Tóm lược nội dung một số quan niệm cơ bản nêu trên cho thấy: môi trường là một "khái niệm mở", nó không chỉ hàm chứa những cái có sẵn trong tự nhiên mà còn bao gồm cả những yếu tố nhân tạo bao quanh con người, ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội. Với cách hiểu theo nghĩa rộng, môi trường sống của con người như một chỉnh thể bao quát toàn bộ các yếu tố MTTN, MTXH và MTVH... Chúng đan xen, thâm nhập vào nhau, tác động ảnh hưởng lẫn nhau và cùng tác động đến việc hình thành nhân cách con người, tạo ra điều kiện sống, điều kiện phát triển của cá nhân và của xã hội. Cũng vì lẽ đó, PGS. Trường Lưu rất có lý khi cho rằng: "Về một định nghĩa chung thì môi trường là những gì gắn chặt và bao quanh con người; từ đó người ta vận dụng vào các dạng môi trường khác nhau" [20, tr. 241]. Xét theo ý nghĩa đó, MTVH vừa là một bộ phận của môi trường sống nói chung, vừa là sự "đan bện" rất phức tạp và đa dạng giữa các hệ môi trường với nhau, đồng thời tích hợp những tố chất của các hệ môi trường khác, hình thành một môi trường đặc biệt - môi trường nhân văn (MTNV) gắn với sự sống của con người. Khái niệm MTVH lần đầu tiên được giáo sư nhân chủng học người Pháp Georges Olivier đề cập đến trong tác phẩm "Sinh thái nhân văn" (năm 1975). Theo ông MTVH hay MTNV được tạo nên bởi sự "tác động của con người tới con người" và "tổ chức xã hội của chúng ta, còn sự tác động của con người với tự nhiên cũng như sản phẩm từ nền công nghiệp đương nhiên đã có và phải có..." [23, tr. 10]. MTVH cũng được nhiều nhà khoa học xã hội Xô viết trước đây quan tâm nghiên cứu. Trong cuốn giáo trình "Cơ sở lý luận văn hóa Mác - Lênin" do GS.TS triết học
- A.I. Ac-nôn-đốp chủ biên đã đưa ra quan niệm về MTVH như sau: "Môi trường văn hóa là một tổng thể ổn định những yếu tố vật thể và nhân cách, nhờ đó các cá thể tác động lẫn nhau. Chúng ảnh hưởng tới hoạt động khai thác và sáng tạo giá trị văn hóa, tới nhu cầu tinh thần, hứng thú và định hướng giá trị của họ. Môi trường văn hóa không chỉ là tổng hợp những yếu tố văn hóa vật thể, mà còn có những con người hiện diện văn hóa" [1, tr. 75]. Trong những năm gần đây, MTVH ở Việt Nam đã trở thành một vấn đề bức xúc, vừa có tính cấp thiết, vừa có tính lâu dài, đòi hỏi phải giải đáp cả về mặt lý luận và trong thực tiễn đời sống xã hội. Nhiều nhà nghiên cứu đã đề cập và tiếp cận MTVH từ nhiều góc độ và cấp độ khác nhau, xuất phát từ những mục đích nghiên cứu khác nhau. Trong cuốn sách "Quản lý hoạt động văn hóa" xuất bản năm 1998, từ góc độ lãnh đạo, quản lý hoạt động văn hóa, tập thể tác giả nhận định: "Môi trường văn hóa là một tổng thể các sản phẩm văn hóa, chương trình văn hóa, hành vi văn hóa, thiết chế, phương tiện và cảnh quan văn hóa... mà cá nhân tiếp xúc trong suốt đời mình và có ảnh hưởng qua lại với mình" [25, tr. 77]. Công trình nghiên cứu khoa học của Bộ quốc phòng "Nuôi dưỡng giá trị văn hóa trong nhân cách người chiến sỹ quân đội nhân dân Việt Nam" khi đề cập đến vấn đề MTVH, các tác giả cũng quan niệm: "Môi trường văn hóa là tổng hòa những thành tố vật chất và tinh thần tương đối ổn định trong một thời gian và không gian cụ thể, ở đó các cá nhân tác động đến nhau, con người là yếu tố quan trọng nhất của môi trường văn hóa" [43, tr, 32]. MTVH luôn gắn với một phạm vi không gian và thời gian tác động xung quanh con người, tức là phải gắn với MTXH trong đó có nền văn hóa hiện tồn.
- Theo GS. Phạm Minh Hạc: "Môi trường văn hóa chính là môi trường xã hội và tự nhiên, bao gồm các quan hệ người, nhóm, gia đình, tổ tiên, cộng đồng dân tộc, xã hội". Như vậy, MTVH là sự vận động của các mối quan hệ giao tiếp, thể hiện trong ứng xử của từng người và gia phong, lối sống, nếp sống và trật tự kỷ cương của xã hội [15, tr. 8]. Từ góc nhìn giá trị học, GS. TS Đỗ Huy cho rằng: "Môi trường văn hóa gắn với toàn bộ hoạt động người. Các lớp và không gian của môi trường gắn liền với sự đối tượng hóa các năng lực bản chất của con người...","môi trường văn hóa chính là sự vận động của các quan hệ của con người trong các quá trình sáng tạo, tái tạo, đánh giá, lưu giữ và hưởng thụ các sản phẩm vật chất và tinh thần của mình" [17, tr. 24; 35-36]. MTVH được nhìn nhận như một hệ thống các giá trị nhân văn có mối quan hệ mật thiết đối với quá trình hình thành, phát triển nhân cách con người, phát triển xã hội. MTVH còn được quan niệm đồng nghĩa với khái niệm MTNV: "Là những điều kiện tự nhiên, văn hóa xã hội xung quanh con người có tác động trực tiếp tới sự hình thành phát triển nhân cách của cá thể, lối sống của các nhóm xã hội cũng như của toàn thể xã hội..." [26, tr. 3]. Đây là những quan niệm thể hiện sự đồng thuận về MTVH. Bên cạnh đó vẫn có một số quan niệm "không đồng chiều" như: coi MTVH là một khái niệm không có nội hàm và ngoại diên, chỉ là một cách nói văn hoa, là sự "phiên ngang" thuần túy từ MTTN sang lĩnh vực văn hóa xã hội; hoặc bó hẹp MTVH trong một phạm vi không gian cố định và nhỏ hẹp, coi MTVH chỉ là một khái niệm ngang hàng với khái niệm "làng văn hóa", "gia đình văn hóa", hay đồng nhất MTVH với MTXH... Tuy nhiên, đây không phải là những quan niệm chính thống và phổ biến trong giới nghiên cứu khoa học cũng như trong đời sống xã hội.
- MTVH do vậy, được thừa nhận là một khái niệm "mở", vừa mang tính thống nhất, lại vừa rất đa dạng. Nhìn chung quan niệm về MTVH của các tác giả không có sự đối lập, đều thừa nhận MTVH là một bộ phận quan trọng không thể thiếu được trong môi trường sống của con người. MTVH là toàn bộ yếu tố tự nhiên nhân văn và tổng hợp những yếu tố văn hóa - xã hội và nhân cách văn hóa bao bọc xung quanh con người. Nó tác động biện chứng tới con người thông qua hệ thống các giá trị, các truyền thống... được kết tinh lại trong các phong tục, tập quán, khuôn mẫu ứng xử của cộng đồng nhằm phối hợp điều hòa, kiểm soát cuộc sống, thế ứng xử của các thành viên trong gia đình, gia tộc và của cả cộng đồng. Để nhận thức đầy đủ về bản chất MTVH cần thiết phải xác định cho được nội hàm của nó, để từ đó có những hướng đi đúng đắn trong việc nghiên cứu và thực thi nhiệm vụ xây dựng MTVH. Thứ nhất, cần phân biệt rõ khái niệm "văn hóa" và "MTVH". Đây là hai khái niệm có mối quan hệ mật thiết, thẩm thấu lẫn nhau, bởi giữa chúng có nhiều nét tương đồng. Văn hóa hình thành và phát triển trước hết trong mối quan hệ giữa con người với MTTN và MTXH. Một khi đã hình thành, văn hóa lại tạo ra môi trường sống, MTVH của con người, góp phần quan trọng trong việc hình thành con người như một thực thể văn hóa. "Người không đẻ ra người, đứa trẻ chỉ trở nên người trong quá trình giáo dục" [51, tr. 129]. Một MTVH lành mạnh cũng được hiểu như một không gian văn hóa được tạo dựng, bồi đắp bởi những giá trị chân-thiện-mỹ. Khi nói văn hóa là "thiên nhiên thứ hai" của con người chính là muốn nhấn mạnh đến sự tương đồng đó giữa "văn hóa" và "MTVH". Hơn nữa xét về bản chất, văn hóa chính là: "Sự phát huy các năng lực bản chất của con người, là sự thể hiện đầy đủ nhất chất người, nên văn hóa trở thành năng lực tinh thần đặc biệt, giúp cho con người hoàn thiện nhân cách, tâm hồn, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của con người" [9, tr. 65]. Đây cũng có thể được quan niệm là tác động cơ bản, cốt lõi của MTVH...
- Tuy nhiên, không thể đồng nhất "văn hóa" với "MTVH". Giữa chúng vẫn có ranh giới và hàm chứa sự khác biệt (tương đối). MTVH chính là bộ phận của môi trường sống đã được "nhân hóa", "văn hóa hóa", "thẩm mỹ hóa", đồng thời là sự biểu hiện văn hóa của con người ra bên ngoài. Trong quan hệ với con người, MTVH với tư cách là tổng hòa các mối quan hệ xã hội - trở thành khách thể, là cái "bao quanh" con người, tác động trở lại con người một cách khách quan (khách quan ở đây chỉ mang tính tương đối khi đặt trong mối tương quan đối sánh với văn hóa mà thôi). Văn hóa lại hàm chứa một ý nghĩa bao quát, rộng lớn hơn nhiều. Văn hóa có thể được nhìn nhận là trình độ, năng lực bản chất người, là hoạt động sáng tạo và sản phẩm (giá trị) sáng tạo, văn hóa vừa được tích lũy trong con người (năng lực sáng tạo, tri thức, tư duy, khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa...) vừa được thể hiện ra thế giới xung quanh con người (hoàn cảnh, MTVH) kết tinh thành hệ giá trị chuẩn mực, khuôn mẫu ứng xử... quy định mọi lĩnh vực hoạt động, ứng xử, phương thức hoạt động của con người. "Không thể có môi trường văn hóa nếu không có hoạt động thực tiễn của chủ thể văn hóa" [17, tr. 41]. Trong mối quan hệ đó văn hóa là một trong những yếu tố quan trọng định hướng, chi phối bản chất, trình độ phát triển của MTVH. Bởi lẽ "văn hóa không dừng lại ở các hoạt động. Các hoạt động sẽ tạo ra các giá trị. Giá trị là hạt nhân tạo nên văn hóa, là hòn đá thử vàng để phân biệt các hoạt động văn hóa với các hoạt động phản văn hóa. Các giá trị này, đến lượt nó, lại hình thành nên khái niệm mà ta gọi là môi trường văn hóa" [9, tr. 67]. Giá trị là hạt nhân tạo nên văn hóa và MTVH. Nhưng MTVH không trực tiếp sáng tạo ra các giá trị mà nó chỉ tạo ra các điều kiện, tiền đề cần thiết và thuận lợi để các giá trị luôn được sản sinh ra trong đời sống xã hội, thúc đẩy văn hóa phát triển. Thông qua sự vận động và phát triển của nền văn hóa hiện tồn, MTVH luôn được bồi đắp các giá trị mới, các giá trị nhân văn, nhân bản hiện đại, đảm bảo sự phát triển tiếp nối các giá trị truyền thống, tạo ra tính đa dạng, linh hoạt và rộng mở của MTVH. Là sản phẩm của hoạt động tinh thần của xã hội, MTVH không thể không phản ánh và chịu sự quy định của phương thức sản xuất vật chất. Điều kiện sinh hoạt vật chất của các giai cấp khác nhau sẽ làm nảy sinh những tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối
- sống, những phương thức sống, cung cách làm ăn không giống nhau. Trong tiến trình lịch sử nhân loại, mỗi hình thái kinh tế - xã hội khác nhau có mỗi kiểu MTVH tương ứng với nó. Mỗi kiểu MTVH nhất định lại hình thành một kiểu mẫu nhân cách phù hợp. Khi xã hội phân chia thành giai cấp, kiểu mẫu nhân cách đó bao giờ cũng được xây dựng theo hình ảnh của giai cấp thống trị, phù hợp với lợi ích giai cấp thống trị trong xã hội đó. Hệ tư tưởng, ý thức hệ luôn là hạt nhân cốt lõi của văn hóa và MTVH; là cái cốt lõi để các giai cấp phát triển văn hóa, tạo lập MTVH theo lợi ích và lý tưởng của mình. Tuy nhiên, yếu tố chi phối của giai cấp thống trị không phải là yếu tố quyết định tất cả đến MTVH. Trong không ít trường hợp một số yếu tố khác nổi lên hàng đầu lại là yếu tố dân tộc, tôn giáo, nhân dân lao động... Chính bản sắc văn hóa dân tộc và truyền thống văn hóa dân tộc làm cho MTVH có sức sống lâu bền và có vai trò to lớn trong việc xây dựng con người, ổn định xã hội, tạo động lực vững chắc cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong mọi thời đại. Thực tiễn lịch sử cũng đã chứng minh định hướng chính trị cho MTVH không chỉ đơn thuần dựa trên cơ sở đảm bảo hệ tư tưởng, lợi ích của giai cấp thống trị mà còn phải dựa vào bản sắc dân tộc và truyền thống văn hóa dân tộc mới có thể được phát huy vững chắc. Do đó, xây dựng MTVH ở nước ta hiện nay phải gắn liền với nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục sâu rộng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nó trở thành hạt nhân cốt lõi trong đời sống chính trị xã hội, đồng thời phải hết sức chú trọng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. MTVH là một bộ phận quan trọng, một phương diện cốt lõi của văn hóa, phản ánh chân xác bản chất, trình độ phát triển của nền văn hóa trong xã hội đó, "MTVH là thành quả kết tinh văn hóa của một thời đại cụ thể" [17, tr. 67]. Tuy nhiên, nó không đơn thuần chỉ là sản phẩm của nền văn hóa trong xã hội hiện tồn mà thể hiện sự phát triển tiếp nối của truyền thống dân tộc, của hệ thống các giá trị, các chuẩn mực đạo đức, pháp quyền, các phương thức hoạt động, khuôn mẫu ứng xử... đã được các thế hệ liên tục tạo dựng nên, được định hình tương đối ổn định trong suốt tiến trình vận động phát triển của nền văn hóa dân tộc. Sự thâm nhập của hệ thống các giá trị, các chuẩn mực đó vào các thiết chế gia đình, nhà trường, xã hội; vào các lĩnh vực trọng yếu của
- đời sống xã hội như: khoa học, giáo dục - đào tạo, đạo đức, thẩm mỹ... sẽ tạo ra một MTNV tương ứng, góp phần nuôi dưỡng, hình thành một kiểu mẫu nhân cách sáng tạo đáp ứng yêu cầu đặt ra của đời sống xã hội. MTVH được hình thành ổn định sẽ bảo lưu và thúc đẩy điều kiện sống có văn hóa của con người, góp phần hình thành thế ứng xử, những giá trị, biểu tượng văn hóa tương đối ổn định, tạo điểm tựa cho sự phát triển của các thực thể văn hóa và văn hóa nói chung. Có thể quan niệm MTVH dưới góc độ giá trị học là một tổng thể các giá trị tinh thần "bao quanh" con người, khơi dậy năng lực sáng tạo và khát vọng hướng tới cái chân, cái thiện, cái mỹ của con người trong cuộc sống. MTVH luôn hàm chứa trong mình tính sáng tạo và bản chất nhân văn, nhân ái, nghĩa hiệp trong mọi hoạt động, hành vi ứng xử của con người. MTVH là một trong những chỉ số nhân bản đánh giá sự phát triển người, phát triển xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Xây dựng MTVH thực chất chính là "nhân văn hóa" các mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự nhiên và con người với xã hội; tạo lập một môi trường sống lành mạnh, thuận lợi nhằm phát triển toàn diện con người, qua đó tác động tới sự phát triển của xã hội, sự phát triển của nền văn hóa. Thứ hai, MTVH là một bộ phận quan trọng chứ không phải là toàn bộ môi trường sống của con người. Con người không chỉ sống trong MTVH mà còn sống trong MTTN và MTXH. Môi trường sống của con người là tổng hòa 3 môi trường cơ bản: MTTN, TMXH và MTVH. Trong đó: "Nếu môi trường xã hội hình thành theo dòng lịch sử và những biến đổi của thời cuộc; môi trường tự nhiên hình thành từ một không gian địa lý ảnh hưởng đến phương thức sản xuất, tâm lý và tập tục một cộng đồng dân cư; thì môi trường văn hóa hình thành theo bản chất một chế độ chính trị và định hướng của một nền văn hóa, từ đó tạo thành mối quan hệ giữa các hình thức môi trường" [20, tr. 241]. Do đó, không thể quan niệm MTVH nằm ngoài tự nhiên, cũng như không thể tách rời MTVH với MTXH. MTTN và MTXH chính là điều kiện cho sự hình thành và phát triển của MTVH quy định đặc trưng, tính chất của MTVH cụ thể. Một MTTN được chăm sóc, bảo vệ tốt thật sự trong sạch, lành mạnh đảm bảo cho cuộc sống lâu dài của con người; một MTXH thực sự lành mạnh, dân chủ, tiến bộ, văn minh, không có sự tồn tại phổ biến của các TNXH, trong đó sự phát triển tự
- do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người đều được coi là những thành tố cơ bản, cốt lõi cấu thành MTVH. Sự khu biệt giữa MTVH với môi trường sống tự nhiên cũng như MTXH được thể hiện tập trung ở sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội, tạo ra những nhân tố chủ quan, khách quan có ảnh hưởng và tác động đến sự phát triển những năng lực bản chất của con người. Sự ô nhiễm MTTN cũng như MTXH xét cho cùng đều xuất phát từ những cách hành xử thiếu văn hóa, vị kỷ của con người trong các mối quan hệ xã hội. Sự suy đồi về đạo đức, nhân cách, lối sống, nòi giống của con người đều có căn nguyên sâu xa từ sự xuống cấp và suy thoái của MTVH. Một hành vi xâm hại hay phóng uế nơi các di tích lịch sử, tượng đài, danh lam thắng cảnh, các tệ nạn xã hội, sự suy đồi về lối sống... không chỉ làm ô nhiễm, hủy hoại đơn thuần về mặt tự nhiên, sinh học, mà còn biểu hiện sự vô minh, tha hóa, băng hoại về mặt tâm hồn. Tiêu chí đánh giá MTVH không chỉ dừng ở các quá trình lý hóa, các biện pháp quan trắc đo đếm, kiểm định bằng số lượng, mà nó phải là các chỉ số nhân văn, trình độ phát triển người, chất lượng các mối quan hệ xã hội, chất lượng cuộc sống của con người... Đến lượt mình, các chỉ số nhân bản này lại là tiêu chí cơ bản để đánh giá trình độ phát triển của xã hội. Điều đó cho thấy không phải bất cứ giá trị vật chất, tinh thần nào cũng tham gia vào MTVH. Chúng chỉ thực sự thuộc về MTVH khi nằm trong mối quan hệ tương tác với con người và cộng đồng người nhằm phát triển toàn diện con người, tạo động lực vững chắc cho sự phát triển kinh tế, xã hội. MTVH ở đây được biểu hiện như một sự đan xen phức hợp giữa MTTN và MTXH, chứ không đơn thuần là bộ phận của MTXH. MTVH hàm chứa một bộ phận MTTN đã được "người hóa", được "nhân văn hóa" tạo thành một "sinh thái nhân văn", một "cảnh quan văn hóa" có tác động duy trì và phát triển bền vững cuộc sống con người. Tương tự trong thực tế không thể đồng nhất hay lẫn lộn MTVH với MTXH mặc dù chúng gắn bó khắn khít với nhau, tác động mạnh mẽ lẫn nhau và có phần nào đó hòa tan vào nhau. "Môi trường xã hội nói chung, trong đó bao gồm nhiều yếu tố văn hóa, hay môi trường văn hóa cũng đồng thời là môi trường xã hội nếu hiểu văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội. Với cách hiểu chung hiện nay thì xây dựng môi trường văn hóa là để tác động đến đời sống xã hội, trong đó có ý thức bảo vệ môi trường sinh thái vì lợi ích con người... Nghĩa là môi trường xã hội và môi
- trường văn hóa vừa thống nhất hữu cơ, vừa khu biệt theo cơ chế tổ chức, chứ không phải môi trường văn hóa là bộ phận của môi trường xã hội" [20, tr. 241-242]. MTVH định hướng cho quá trình vận động và phát triển của MTXH theo những giá trị, chuẩn mực của đời sống hiện đại phù hợp với bản chất của nền văn hóa và định hướng chính trị của giai cấp cầm quyền. Một nền văn hóa tiến bộ, được định hướng bằng một hệ tư tưởng tiên tiến sẽ tạo ra sự phát triển đồng thuận giữa các hình thái môi trường. Sự khoan hòa giữa ba hình thái môi trường này tạo ra một trạng thái lý tưởng cho sự phát triển của con người như một tổng hòa các quan hệ xã hội. Sự phân định này rất có ý nghĩa không chỉ trong phương diện lý luận mà nó còn góp phần quan trọng chỉ đạo hoạt động thực tiễn xây dựng MTVH ở nước ta trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa và đồng bộ với nhiệm vụ xây dựng MTTN và MTXH thực sự trong sạch, lành mạnh, giải quyết một cách thỏa đáng mối quan hệ giữa con người - xã hội và tự nhiên. "Môi trường văn hóa của chúng ta là môi trường mà ở đó con người giao tiếp với tự nhiên, phát triển hài hòa với tự nhiên. Môi trường văn hóa của chúng ta là môi trường mà ở đó con người với con người được sống bình đẳng trong tự do và hạnh phúc và bộ giá trị chân - thiện - mỹ là hướng vận động cơ bản" [17, tr. 25]. Đồng thời nó cũng chỉ rõ MTVH là một khái niệm có tính độc lập tương đối, có quy luật vận động và phát triển của riêng mình, nó không phải chỉ là một "từ ghép", một phép cộng đơn thuần và giản đơn giữa "môi trường" và "văn hóa". Thứ ba, cần làm rõ mối quan hệ giữa "MTVH" và "Đời sống văn hóa" (ĐSVH). Đây là hai khái niệm cơ bản có mối quan hệ mật thiết, hữu cơ, trong thực tiễn cuộc sống nhiều khi người ta thường đồng nhất chúng với nhau. Tuy vậy trong nghiên cứu, người ta cũng thấy chúng có sự khác biệt tương đối. Khi nói tới ĐSVH người ta thường nhấn mạnh đến một lĩnh vực đặc thù của đời sống xã hội và quá trình sản xuất và tái sản xuất ra các giá trị văn hóa, cũng như sự tổng hòa các hoạt động tinh thần của xã hội, như hoạt động tư tưởng, khoa học, giáo dục, nghệ thuật, tôn giáo, tín ngưỡng... Như vậy, ĐSVH không chỉ bó hẹp trong những hoạt động thường nhật mang tính chủ quan của con người mà bao trùm toàn bộ
- phương thức sinh hoạt văn hóa của đời sống tinh thần xã hội. ĐSVH chỉ được thể hiện bằng sự hoạt động có định hướng của con người gắn với một không gian và thời gian cụ thể. Vì vậy ĐSVH được coi là sự phô diễn bộ mặt hoạt động của MTVH... Còn khi đề cập đến MTVH, người ta lại thường nhấn mạnh đến yếu tố tổng hòa các điều kiện vật chất, tinh thần, hoàn cảnh; tổng hòa các mối quan hệ xã hội có ảnh hưởng và tác động đến sự phát triển và hoàn thiện nhân cách, năng lực sáng tạo của con người. Trong quan hệ với ĐSVH, MTVH như một "lát cắt ngang" biểu thị chất lượng của ĐSVH. Nói đến MTVH là nói đến những mối quan hệ tốt đẹp làm nên văn hóa trong những không gian văn hóa nhất định. Thực chất của nhiệm vụ xây dựng ĐSVH ở cơ sở chính là phải: "Xây dựng lên được một môi trường văn hóa phong phú, sôi nổi, văn minh, đầy tính nhân văn và thẩm mỹ, vừa tiên tiến vừa đậm đà bản sắc dân tộc, trên mỗi cộng đồng cơ sở hay khu dân cư cố định lâu dài, ở nông thôn cũng như thành thị, ở khu vực công nghiệp cũng như trong các lực lượng vũ trang, quân đội" [25, tr. 100]. Xây dựng ĐSVH cho một cộng đồng nào đó chính là xây dựng một MTVH để nó tác động, phát huy ảnh hưởng tới đời sống con người và xã hội. Đến lượt mình, MTVH lại xác lập cho con người và cộng đồng những biểu trưng giá trị, xác định nội dung tư tưởng, điều chỉnh những nhu cầu và nguyện vọng, định hướng cho mọi hoạt động sáng tạo trong xã hội đó, thúc đẩy ĐSVH phát triển. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII khi đề ra nhiệm vụ xây dựng MTVH đã chỉ rõ: phải "tạo ra ở các đơn vị cơ sở (gia đình, làng, bản, xã, phường, khu tập thể...), các cùng dân cư (đô thị, nông thôn, miền núi...) đời sống văn hóa lành mạnh, đáp ứng những nhu cầu văn hóa đa dạng và không ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân dân" [3, tr. 447]. Qua một số luận giải ở trên, ta có thể quan niệm: "Môi trường văn hóa không chỉ là tổng hòa các yếu tố văn hóa vật thể và phi vật thể bao quanh con người, có quan hệ tương tác với con người, môi trường văn hóa còn là khái niệm chỉ sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội trong hoàn cảnh xã hội nhất định tạo ra một môi trường sống lành
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận môn học Quản trị dự án đầu tư: Lập dự án xây dựng quán Cà phê sinh viên Cội Nguồn
22 p | 4297 | 904
-
Luận văn tốt nghiệp: Dự án xây dựng nhà máy chế biến thức ăn gia súc
51 p | 1272 | 577
-
Báo cáo dự án: Xây dựng khu du lịch sinh thái hồ đá tại đại học Quốc gia TP.HCM
41 p | 481 | 118
-
Đề tài “Đánh giá tác động môi trường dự án xây dựng đường vành đai III Hà Nội, đoạn Pháp Vân - Mai Dịch”
81 p | 275 | 84
-
Báo cáo đánh giá tác động môi trường: Xác định vấn đề môi trường quan trọng của dự án xây dựng công ty TNHH thuốc BVTV Sài Gòn (nhóm 9)
17 p | 230 | 62
-
LUẬN VĂN: Xây dựng môi trường văn hóa ở thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay
115 p | 226 | 46
-
Đề cương Báo cáo thực tập: Chuyên ngành quản lý xây dựng về vấn đề an toàn và vệ sinh môi trường trong xây dựng
10 p | 267 | 36
-
Luận văn tốt nghiệp Kinh tế xây dựng: Quản lý chất lượng thi công xây dựng công trình tại dự án vệ sinh môi trường thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2 gói thầu - XL02 - thiết kế - xây dựng - vận hành Nhà máy xử lý nước thải Nhiêu Lộc Thị Nghè hạng mục thi công cừ ván bê tông dự ứng lực
101 p | 26 | 15
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Xây dựng môi trường văn hóa ở Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Nghệ An
26 p | 57 | 13
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Xây dựng môi trường học tập nội dung thống kê ở trường trung học phổ thông theo hướng rèn luyện kỹ năng suy luận thống kê cho học sinh
240 p | 18 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Phát triển năng lực xây dựng môi trường vui chơi ở trường mầm non cho sinh viên đại học sư phạm ngành giáo dục mầm non
219 p | 11 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Xây dựng phương án cho thuê môi trường rừng đặc dụng để phát triển du lịch sinh thái tại Vườn quốc gia Ba Vì - Hà Nội
99 p | 29 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Địa chất: Xây dựng mô hình địa môi trường các mỏ sulfid nickel - đồng có nguồn gốc magma ở Việt Nam
153 p | 12 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Xây dựng và sử dụng các chủ đề tích hợp giáo dục môi trường và biến đổi khí hậu trong dạy học Sinh học cấp độ tổ chức sống trên cơ thể ở trường phổ thông
313 p | 44 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Phát triển năng lực xây dựng môi trường vui chơi ở trường mầm non cho sinh viên đại học sư phạm ngành giáo dục mầm non
27 p | 8 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến môi trường xanh trong quá trình thực hiện các dự án xây dựng nhà ở trên địa bàn quận 2
129 p | 21 | 5
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Xây dựng môi trường học tập nội dung thống kê ở trường trung học phổ thông theo hướng rèn luyện kỹ năng suy luận thống kê cho học sinh
26 p | 7 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn