Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương
lượt xem 108
download
Những yếu kém trong công tác quản lý và sử dụng đất nói chung cũng như những yếu kém trong giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai nói riêng có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rất quan trọng từ sự hạn chế, bất cập của chính sách, pháp luật đất đai và việc áp dụng pháp luật
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương
- LUẬN VĂN: Áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt là thành phần quan trọng của môi trường sống, là địa bàn phân bổ các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng và là thành quả cách mạng của cả dân tộc Việt Nam. C.Mác đã chỉ rõ “Đất là không gian, yếu tố cần thiết của tất thảy mọi quá trình sản xuất và mọi hoạt động của loài người” [33, tr.473-474]. Bất kỳ quốc gia nào, nếu biết quản lý, sử dụng hợp lý đất đai thì nguồn tài nguyên này được bảo vệ và mang lại hiệu quả, lợi ích to lớn, thiết thực phục vụ cho mỗi con người và cả cộng đồng. Đất đai có vai trò quan trọng như vậy nên Đảng và Nhà nước ta giành sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề đất đai. Chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về đất đai được điều chỉnh cho phù hợp với sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chính sách, pháp luật đất đai trở thành cơ sở pháp lý hết sức quan trọng huy động nguồn lực đất đai để phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Vì vậy quản lý nhà nước bằng pháp luật về đất đai ngày càng hoàn thiện, đã đạt được những tiến bộ rõ rệt, hệ thống quản lý nhà nước về đất đai được tăng cường, từng bước phân cấp và phát huy tính tự chủ của địa phương. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, tình hình quản lý và sử dụng đất đai hiện nay đang có những yếu kém. Vấn đề quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa có tính chiến lược lâu dài và ổn định hoặc thiếu tính khả thi; cơ chế quản lý về đất đai thiếu hiệu quả; cơ quan quản lý đất đai các cấp nhìn chung còn nhiều yếu kém. Chính vì thế tình trạng tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về quản lý và sử dụng đất đai có xu hướng diễn biến phức tạp. Việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo còn chưa kịp thời, thiếu hiệu quả. Những yếu kém trong công tác quản lý và sử dụng đất nói chung cũng như những yếu kém trong giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai nói riêng có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rất quan trọng từ sự hạn chế, bất cập của chính sách, pháp luật đất đai và việc áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khiếu nại, tố cáo là quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp: “Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những
- việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào” (Điều 74 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001) Như vậy khiếu nại là quyền cơ bản của công dân, là biện pháp pháp lý để công dân sử dụng bảo vệ quyền và lợi ích của mình khi bị xâm phạm. Thực hiện quyền khiếu nại là một trong những hình thức dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, công chức nhà nước. Khiếu nại là một kênh thông tin khách quan phản ánh việc thực thi quyền lực của bộ máy nhà nước, phản ánh tình hình thực hiện công vụ của cán bộ, công chức. Do đó, công tác giải quyết khiếu nại không những có vai trò quan trọng trong quản lý nhà nước, mà còn thể hiện mối quan hệ bình đẳng giữa Nhà nước và công dân. Thông qua giải quyết khiếu nại, Đảng và Nhà nước kiểm tra tính đúng đắn, sự phù hợp của đường lối, chính sách, pháp luật. Qua việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại của công dân cũng là cơ sở thực tiễn để hoàn thiện cơ chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, góp phần đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong các cơ quan nhà nước, ổn định tình hình chính trị, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội. Chính vì vậy, giải quyết khiếu nại của công dân là một vấn đề được Đảng, Nhà nước và nhân dân đặc biệt quan tâm. Trong những năm qua, công tác giải quyết khiếu nại đã có nhiều chuyển biến tích cực, việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại đúng pháp luật, góp phần phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại cho thấy mặc dù các cơ quan nhà nước đã có nhiều cố gắng trong công tác giải quyết khiếu nại nhưng hiệu quả giải quyết các vụ việc chưa cao, nhất là việc giải quyết các khiếu nại về đất đai. Tình hình đơn thư khiếu nại gửi tràn lan, vượt cấp và việc giải quyết đơn thư khiếu nại còn chậm không được dứt điểm, kịp thời, vì thế số vụ việc khiếu nại tồn đọng còn nhiều. Nguyên nhân của tình trạng trên là do nể nang, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm. Thậm chí còn có hiện tượng không ít cơ quan, cá nhân có thẩm quyền ban hành những quyết định giải quyết khiếu nại không đúng hoặc vi phạm quyền lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất đai.
- Hệ luỵ của tình trạng trên trong điều kiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước là tình hình khiếu nại, tố cáo nói chung và khiếu nại về đất đai nói riêng có chiều hướng gia tăng cả về số lượng, quy mô và mức độ, phức tạp về tính chất. Điều đó trở thành vấn đề hết sức bức xúc xã hội gây ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh, chính trị, trật tự và ổn định xã hội ở một số địa phương trong cả nước; có nơi đã trở thành điểm nóng xã hội, thậm chí đã có dấu hiệu chuyển sang điểm nóng chính trị- xã hội. Vấn đề cơ bản hiện nay là phải hoàn thiện các quy định pháp luật về khiếu nại và giải quyết khiếu nại về đất đai; khắc phục những điểm bất hợp lý, những bất cập về cơ chế, thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết các khiếu nại khiến cho việc áp dụng các quy định pháp luật vào thực tế gặp những khó khăn, vướng mắc. Nâng cao hiệu quả của việc giải quyết khiếu nại bằng các giải pháp hữu hiệu. Thực tiễn cho thấy không ít trường hợp làm cho vụ việc trở nên gay gắt, kéo dài là do việc áp dụng pháp luật chưa đúng, chưa phù hợp. Điều này không những chưa bảo đảm tính đúng đắn, nghiêm minh của pháp luật mà còn chưa bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai không chỉ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân mà còn giữ vững lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, tạo sự động thuận giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. Hải Dương là tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng đất nông nghiệp chiếm phần lớn, nông dân chủ yếu sản xuất nông nghiệp nên rất gắn bó với đất đai. Những năm gần đây thực hiện chủ trương của Đảng về mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước đến đầu tư phát triển kinh tế. Vì thế đã kéo theo một phần không nhỏ diện tích đất nông nghiệp được chuyển mục đích sử dụng thành đất công nghiệp, dịch vụ và xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, cộng với tình hình bùng nổ dân số dẫn đến nông dân càng thiếu đất sản xuất. Quá trình đó phát sinh những tranh chấp, lấn chiếm đất đai thường xuyên xảy ra. Do vấn đề quản lý nhà nước về đất đai ở địa phương có lúc, có nơi còn chưa chặt chẽ dẫn tới việc khiếu nại, tố cáo của nhân dân trong tỉnh có chiều hướng gia tăng, thậm chí có những vụ việc Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh phải trực tiếp chỉ đạo giải quyết để làm dịu tình hình.
- Nhận thức những vướng mắc cần phải được chấn chỉnh, tháo gỡ cũng như tầm quan trọng của việc áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai nói chung và của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương nói riêng. Đồng thời đó cũng là những trăn trở của tác giả được đúc kết từ thực tiễn và quá trình học tập, vì thế tôi chọn đề tài “Áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương” làm luận văn thạc sỹ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề đất đai, quản lý nhà nước về đất đai luôn là mối quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, nhà quản lý. Vì thế mà những năm gần đây đã có nhiều công trình khoa học được công bố liên quan đến lĩnh vực đất đai, được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Các công trình tiêu biểu được chia thành các nhóm vấn đề sau: Nhóm công trình khoa học nghiên cứu quản lý nhà nước về đất đai; pháp luật về đất đai có các công trình như: - Các công trình khoa học đăng tải trên các tạp chí: Một số vấn đề quản lý nhà nước về đất đai trong giai đoạn hiện nay của tiến sĩ Nguyễn Đình Bồng, Tạp chí Quản lý nhà nước, 4/2001; Phạm Hữu Nghị với bài viết tiêu đề Về thực trạng chính sách đất đai ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 8/2002; Ths Trần Quang Huy với bài Luật đất đai năm 2003 và vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí luật học số 3/2005; Ths Trần Văn Sơn với bài Tăng cường giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước- giải pháp tăng cường pháp chế XHCN, Tạp chí Lập pháp tháng 8/2005… - Các công trình khoa học là Luận án Tiến sĩ, Luận văn Thạc sĩ theo mã số chuyên ngành Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật: Luật án tiến sỹ luật học của tác giả Nguyễn Cảnh Quý, năm 2001 với đề tài Hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật đất đai ở Việt Nam; Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả Tô Văn Châu, năm 2003 với đề tài Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với đất đai ở Việt Nam hiện nay; Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng, năm 2003 với đề tài Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với đất đai qua thực tiễn tỉnh Thái Bình; Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả Trần Xuân Long, năm 2003 với đề tài Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với đất đai ở tỉnh Vĩnh Phúc; Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả Đỗ Thị Phượng, năm 2005 với đề tài
- Vi phạm hành chính về đất đai ở Thái Bình thực trạng và giải pháp khắc phục; Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả Lê Văn Thành, năm 2008 với đề tài Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với đất đai ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay… Nhóm công trình khoa học nghiên cứu thực hiện và áp dụng pháp luật có các công trình tiêu biểu như: - Các công trình khoa học đăng tải trên các tạp chí: TS Trần Kim Cúc và Ths Nguyễn Thị Phượng với bài Khiếu kiện về đất đai thực trạng và giải pháp, Tạp chí quản lý nhà nước, tháng 10/2003; Nguyễn Thị Mai với bài Những quy định mới của Luật đất đai năm 2003 về khởi kiện vụ án hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai, Tạp chí Luật học số 4/2005; Phạm Thanh Hải Toà án nhân dân huyện Đan Phượng, Hà Tây với bài Trao đổi thêm về việc áp dụng Điều 136 Luật Đất đai năm 2003, Tạp chí Toà án tháng 5/2005; Tiến sĩ Nguyễn Văn Cường với bài Những vấn đề cần trao đổi khi áp dụng Điều 136 Luật Đất đai năm 2003, Tạp chí toà án nhân dân tháng 9/2005; - Các công trình khoa học là Luận án Tiến sĩ, Luận văn Thạc sĩ theo mã số chuyên ngành Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật: Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả Nguyễn Thị Tú, năm 2006 với đề tài Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại toà án nhân dân hiện nay; Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả Hà Văn Khanh, năm 2007 với đề tài Áp dụng pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước về đất đai ở thành phố Hà Nội; Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả Trần Nam Khởi, năm 2008 với đề tài Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan hành chính nhà nước ở cấp huyện tỉnh Bạc Liêu hiện nay... Với những công trình khoa học đã được nghiên cứu, đề cập của nhiều nhà khoa học, nhà quản lý liên quan đến đất đai nêu trên đã góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề cả lý luận và thực tiễn về chính sách quản lý nhà nước đối với đất đai, về hoàn thiện pháp luật và áp dụng pháp luật trong quản lý nhà nước về đất đai. Các công trình đó đã luận chứng cơ chế điều chỉnh pháp luật đất đai dưới góc độ lý luận chung về nhà nước và pháp luật hoặc để phản ánh, phân tích, làm rõ về thực trạng áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp, khiếu kiện về quyền sử dụng đất của hệ thống cơ quan tư pháp. Những công trình khoa học như đã nêu ở trên là những tư liệu sống động, có giá trị tham khảo tốt trong quá trình đầu tư nghiên cứu và
- thực hiện hoàn thiện luận văn này. Những vấn đề đã được nghiên cứu nêu trên cũng cho thấy chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu để làm sáng tỏ về hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai của ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương. Do đó, đề tài luận văn là công trình khoa học đầu tiên được nghiên cứu tương đối có hệ thống, hoàn chỉnh về áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn - Mục đích luận văn: Góp phần làm rõ cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai và đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương. Từ đó đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương hiện nay. - Nhiệm vụ luận văn: Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: + Làm rõ cơ sở lý luận áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai. + Đánh giá thực trạng, chỉ ra những kết quả đạt được và những hạn chế, yếu kém, tồn tại và nguyên nhân trong áp dụng pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương từ 2004- 2008. + Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: Các quan hệ pháp luật về đất đai phát sinh giữa Uỷ ban nhân dân tỉnh với các chủ thể khiếu nại về đất đai, trong đó nghiên cứu chủ yếu về hoạt động áp dụng pháp luật của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương, tập trung vào khái niệm, đặc điểm áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai. Đồng thời luận chứng giải pháp nâng cao chất lượng hiệu quả áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương hiện nay . - Phạm vi nghiên cứu:
- + Áp dụng pháp luật được giới hạn trong phạm vi giải quyết khiếu nại về đất đai của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương. + Về không gian: đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai trên địa bàn tỉnh Hải Dương chủ yếu là việc áp dụng pháp luật của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương, tuy nhiên có khái quát tình hình áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại của cấp xã và cấp huyện thuộc tỉnh Hải Dương. + Về thời gian: Khi đánh giá thực trạng chỉ khảo sát ở Hải Dương với tư cách là điển hình để làm cơ sở luận giải cho những vấn đề chung trong khoảng thời gian từ 2004 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn - Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Các quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về pháp chế và xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, nhất là quan điểm chỉ đạo của Đảng về chính sách quản lý nhà nước về đất đai và giải quyết khiếu nại về đất đai. Đồng thời luận văn còn dựa trên những vấn đề lý luận chung về áp dụng pháp luật xã hội chủ nghĩa. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, trong đó chú trọng các phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp lịch sử và các phương pháp của các bộ môn khoa học khác như so sánh, thống kê… 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu về áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương. Vì vậy có thể đóng góp khoa học mới ở góc độ sau: - Đưa ra khái niệm áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai; chỉ ra được các đặc điểm áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai; các giai đoạn áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai. - Chỉ ra ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của thực trạng áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương.
- - Đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương. 7. Ý nghĩa của luận văn Luận văn có ý nghĩa góp phần làm phong phú thêm lý luận về áp dụng pháp luật trong lĩnh vực cụ thể. Đồng thời luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên cứu hay phục vụ cho công tác giảng dạy ở các trường như: Trung cấp chính trị; quản lý nhà nước của tỉnh tổ chức. Đây cũng là tài liệu có giá trị nâng cao lý luận và nghiệp vụ đối với cán bộ làm công tác thực tiễn. 8. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, kết cấu luận văn gồm 03 chương, 07 tiết. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI CỦA UỶ BAN NHÂN DÂN CẤP TỈNH 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI CỦA UỶ BAN NHÂN DÂN CẤP TỈNH 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai 1.1.1.1. Khái niệm khiếu nại về đất đai Ở Việt Nam, khiếu nại là một khái niệm được đề cập nhiều, sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội, không giới hạn trong một lĩnh vực nào mà bao trùm tất cả các phạm vi chủ yếu của đời sống xã hội và trong hoạt động quản lý nhà nước. Tuỳ thuộc mục đích và góc độ nghiên cứu mà khiếu nại được hiểu theo những nghĩa khác nhau. - Khiếu nại là gì? Khiếu nại theo gốc tiếng Latinh: Complant, nghĩa là “sự phàn nàn, phản ứng, bất bình của người nào đó về vấn đề có liên quan” [55, tr.205]. Theo Đại từ điển tiếng Việt, khiếu nại được hiểu là “thắc mắc, đề nghị xem xét lại những kết luận, quyết định do cấp có thẩm quyền đã làm, đã chuẩn y” [63, tr.904].
- Về phương diện xã hội, khiếu nại là việc công dân ta thán, phàn nàn, phản đối, không chấp nhận một việc làm (hành vi) hoặc một quyết định của một tổ chức làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích của họ. Đây là sự phản ứng tự nhiên của mỗi công dân trong cộng đồng, xã hội. Dưới góc độ lý luận dùng quyền để bảo vệ quyền, người ta quan niệm khiếu nại là một trong những phương thức bảo vệ quyền chủ thể: “Khiếu nại được sử dụng khi quyền chủ thể của bản thân công dân khiếu nại hoặc của người do mình bảo hộ bị vi phạm do quyết định hoặc hành vi trái pháp luật thuộc phạm vi quản lý nhà nước của các cơ quan quản lý nhà nước hoặc nhân viên nhà nước” [12, tr.477]. Về phương diện chính trị- pháp lý, khiếu nại là quyền cơ bản của công dân trong mỗi nhà nước, được pháp luật của nhà nước đó quy định và bảo đảm thực hiện bằng quyền lực nhà nước. Khiếu nại có thể được hiểu là ý kiến phản hồi của công dân đối với những hoạt động của bộ máy nhà nước trong quá trình quản lý xã hội mà họ cho rằng hoạt động đó đã tác động, xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Theo cuốn thuật ngữ pháp lý phổ thông thì khiếu nại là “việc yêu cầu cơ quan nhà nước, trước tiên là tổ chức xã hội hoặc người có chức vụ giải quyết việc phạm quyền hoặc lợi ích hợp pháp của bản thân người khiếu nại hay người khác” [1, tr.206]. Theo kết quả nghiên cứu khoa học của một số cơ quan có trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại thì khiếu nại theo nghĩa chung nhất là “việc cá nhân hay tổ chức đề nghị cá nhân, tổ chức hay cơ quan nào đó xem xét, sửa chữa lại một việc làm mà họ cho rằng là không đúng đắn, gây thiệt hại hoặc sẽ gây thiệt hại đến quyền, lợi ích chính đáng của họ và đòi bồi thường thiệt hại do việc làm không đúng gây ra” [49, tr.11]. Như vậy, khiếu nại theo nghĩa chung là việc cá nhân hay tổ chức yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm sửa chữa một việc làm mà họ cho là không đúng đắn, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích chính đáng của họ và đòi bồi thường thiệt hại do việc làm không đúng gây ra. - Theo nghĩa của từ khiếu nại nêu trên, tìm hiểu khái niệm khiếu nại hành chính. Từ điển Bách khoa Việt Nam đưa ra định nghĩa về khiếu nại hành chính như sau: “khiếu nại hành chính là việc cá nhân hay tổ chức đề nghị cơ quan hành chính nhà nước xem xét, sửa
- chữa một quyết định hay hành vi hành chính mà họ cho là quyết định hoặc hành vi đó không đúng pháp luật, gây thiệt hại hoặc sẽ gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ...” [56, tr.506- 507]. Khái niệm này phản ánh khá đầy đủ bản chất của khiếu nại hành chính, đồng thời phân biệt được khiếu nại hành chính với khiếu nại khác. Đó là khiếu nại của cá nhân hoặc tổ chức đối với quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính của người có thẩm quyền trong các cơ quan nhà nước. Quan niệm này xuất phát từ việc xem xét khái niệm khiếu nại hành chính dưới góc độ là quyền chủ quan của công dân. Vì vậy, theo cách định nghĩa này, các qui định pháp luật về khiếu nại hành chính sẽ hết sức thuận lợi, cởi mở để cá nhân, tổ chức có thể thực hiện quyền khiếu nại hành chính. Tuy nhiên, theo qui định của pháp luật hiện hành, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính không chỉ là các cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước. Vì vậy khái niệm trên vẫn chưa được coi là khái niệm đầy đủ, phù hợp. Trên thực tế, khiếu nại hành chính là phương thức quan trọng mà thông qua đó công dân yêu cầu các cơ quan nhà nước để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời là phương tiện mà nhờ nó các cơ quan nhà nước hoặc cán bộ, công chức trong các cơ quan đó kiểm tra được tính pháp lý, tính đúng đắn của các quyết định, hành vi mà mình đã thực hiện. Khiếu nại hành chính phải chứa đựng các chứng cứ của việc vi phạm các quyền hoặc lợi ích được pháp luật quy định. Do vậy có thể hiểu khiếu nại hành chính là hình thức bảo vệ quyền công dân trước các quyết định hoặc hành vi vi phạm của cơ quan nhà nước. Khi có một khiếu nại hành chính cũng đồng nghĩa với việc một cơ quan, tổ chức hoặc công dân cho rằng quyền, lợi ích mà pháp luật quy định cho họ đã bị xâm hại hoặc có thể bị xâm hại. Nội dung khiếu nại hành chính không phụ thuộc vào các cơ quan nhà nước mà chúng gửi đến mà phụ thuộc vào chính quyết định hoặc hành vi hành chính bị khiếu nại. Có hai loại khiếu nại là khiếu nại hành chính và khiếu nại tư pháp. Luật khiếu nại, tố cáo của nước ta hiện nay mới chỉ điều chỉnh khiếu nại hành chính. Khiếu nại tư pháp là việc cá nhân, tổ chức yêu cầu cơ quan tư pháp (Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án) có thẩm quyền xem xét lại quyết định của cơ quan tư pháp hoặc hành vi công vụ của kiểm sát viên, thẩm phán, điều tra viên, chấp hành viên tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trong lĩnh vực hình sự, lao động,
- kinh tế, hành chính theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính. Riêng khiếu nại các bản án sơ thẩm được gọi là kháng cáo. Điều 74 Hiến pháp 1992 qui định: "Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất kỳ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật qui định… Cụ thể hoá Điều 74 Hiến pháp 1992, Luật Khiếu nại, tố cáo (đã sửa đổi, bổ sung) năm 2005 qui định: Khiếu nại là: Việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do luật này qui định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó trái pháp luật, xâm phạm đến đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình [45, tr.3]. Như vậy, khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của công dân. Vì vậy mọi công dân Việt Nam đều có quyền khiếu nại, ngay cả khi người đó phạm tội hình sự và có thể bị hạn chế một số quyền khác theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, việc thực hiện quyền khiếu nại quyết định, hành vi hành chính cũng có những điều kiện nhất định. Chẳng hạn như điều kiện về mối quan hệ nhân quả giữa quyết định, hành vi hành chính với hậu quả xảy ra trên thực tế- tức quyền, lợi ích của người khiếu nại phải liên quan trực tiếp đến quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại hoặc việc khiếu nại phải thực hiện theo trình tự, thủ tục được pháp luật quy định. Theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo 1998 được sửa đổi, bổ sung năm 2004 và năm 2005 thì công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước. Cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại là cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân. Việc quy định cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại vì trên thực tế các tổ chức xã hội cũng chịu sự tác động của các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước. Ngoài ra, trong quá trình quản
- lý nhà nước nhiều khi cơ quan hành chính nhà nước cũng có các quyết định hành chính, hành vi hành chính ảnh hưởng tới các cơ quan nhà nước khác. Như vậy, khiếu nại hành chính là việc công dân, cơ quan, tổ chức theo trình tự, thủ tục khiếu nại và giải quyết khiếu nại hành chính do pháp luật quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo thì “Quyết định hành chính” là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính. Như vậy, một quyết định hành chính có thể bị khiếu nại khi quyết định đó có đủ các yếu tố sau đây: Quyết định hành chính là quyết định bằng văn bản; Quyết định đó là quyết định của cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan hành chính nhà nước; Quyết định đó chỉ được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. Chẳng hạn, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện quyết định phá dỡ hàng quán lấn chiếm vỉa hè của một số hộ gia đình làm ảnh hưởng đến giao thông trật tự…v.v “Hành vi hành chính” có thể bi khiếu nại là hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. Khác với quyết định hành chính, hành vi hành chính không thể thực hiện bằng văn bản, đó có thể là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, công chức của cơ quan hành chính nhà nước đã làm không đúng hoặc làm trái quy định của pháp luật, cũng có thể là việc không thực hiện trách nhiệm công vụ mà theo quy định của pháp luật thì họ phải thực hiện. Chẳng hạn, pháp luật quy định trong một thời hạn nhất định đối với hộ gia đình cá nhân nếu có đủ giấy tờ hợp lệ, sử dụng đất ổn định trước 15/10/1993, không có tranh chấp, không vi phạm quy hoạch và có đơn xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà không được cấp thì họ có quyền khiếu nại về việc chậm chễ đó. Khiếu nại về đất đai là một dạng của khiếu nại hành chính, do vậy từ khái niệm khiếu nại hành chính ta đi đến khái niệm khiếu nại về đất đai. Khiếu nại về đất đai là việc công dân,
- cơ quan, tổ chức theo trình tự, thủ tục khiếu nại và giải quyết khiếu nại do Luật Đất đai và Luật Khiếu nại, tố cáo quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Trong quan niệm khiếu nại về đất đai có thể nhận thấy chủ thể, khách thể và đối tượng phát sinh trong quan hệ khiếu nại: - Chủ thể của khiếu nại về đất đai là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm hại bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai trái pháp luật. - Khách thể của khiếu nại về đất đai là sự bảo đảm của Nhà nước đối với quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. - Đối tượng của khiếu nại về đất đai là các quyết định hành chính của cơ quan quản lý đất đai hoặc hành vi hành chính của người có thẩm quyền trong quản lý đất đai khi thi hành công vụ, gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức. Theo Điều 162 Nghị định 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ về thi hành Luật đất đai ngày 29/10/2004 thì: Quyết định hành chính trong quản lý đất đai bị khiếu nại gồm: Quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; Quyết định bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; Quyết định cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Quyết định gia hạn thời hạn sử dụng đất. Hành vi hành chính trong quản lý đất đai bị khiếu nại là hành vi của cán bộ, công chức nhà nước khi giải quyết công việc liên quan đến các hoạt động nói trên. Pháp luật quy định như trên là sự giới hạn phạm vi giải quyết các khiếu nại theo thủ tục hành chính của cơ quan hành chính nhà nước trong điều kiện khiếu nại và việc giải quyết khiếu nại có nhiều phức tạp. Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân chúng ta cần phải mở rộng phạm vi khiếu nại của cá nhân, tổ chức, không chỉ là khiếu nại đối với 5 loại quyết định hành chính, hành vi hành chính nêu trên mà được quyền khiếu nại đối với tất cả các quyết định hành chính, hành vi hành chính xâm phạm tới quyền, lợi ích của họ.
- 1.1.1.2. Khái niệm áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai Theo lý luận chung đã được giới khoa học pháp lý thừa nhận, thực hiện pháp luật bao gồm các hình thức sau: Tuân thủ pháp luật; Chấp hành pháp luật; Sử dụng pháp luật và Áp dụng pháp luật. Áp dụng pháp luật là một trong những hình thức cơ bản của thực hiện pháp luật, trong đó Nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước hoặc cán bộ, công chức có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể thực hiện những quy định của pháp luật hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể. Ngoài ra, trong một số trường hợp đặc biệt theo quy định của pháp luật, một số tổ chức xã hội cũng có thể được thực hiện hoạt động áp dụng pháp luật khi nhà nước trao quyền. Trong bốn hình thức thực hiện pháp luật, nếu như tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật và sử dụng pháp luật là những hình thức có tính phổ biến mà các chủ thể pháp luật có thể thực hiện thì áp dụng pháp luật mang tính đặc thù riêng, nhất thiết phải có sự tham gia trực tiếp của cơ quan nhà nước hay của cán bộ, công chức có thẩm quyền. Do đó hoạt động áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính quyền lực của cơ quan nhà nước nói chung và của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nói riêng. Biểu hiện rõ nét nhất là các chủ thể pháp luật khi thực hiện các quy định của pháp luật luôn có sự can thiệp của Nhà n ước hay của cán bộ, công chức có thẩm quyền, đảm bảo cho các quy phạm pháp luật được thực hiện triệt để, hiệu lực và hiệu quả khi tác động vào cuộc sống, vào các quan hệ xã hội. Hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền từ Chính phủ đến Uỷ ban nhân dân cấp xã được thực hiện trong các trường hợp sau: Thứ nhất, khi cần truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những chủ thể vi phạm pháp luật hoặc cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước đối với tổ chức hay cá nhân nào đó; Thứ hai, khi những quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc nhiên phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của nhà nước; Thứ ba, khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật mà giữa họ không thể tự điều hoà, giải quyết với nhau được;
- Thứ tư, áp dụng pháp luật được thực hiện trong một số quan hệ pháp luật quan trọng mà nhà nước thấy cần thiết phải tham gia để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia vào quan hệ đó, hoặc nhà nước xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại của một số sự việc, sự kiện thực tế nào đó. Theo Luật đất đai 2003, “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở hữu”[44, tr.13]. Do đó, với tư cách đại diện chủ sở hữu, Nhà nước giao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất và quy định cụ thể những quyền cũng như nghĩa vụ pháp lý đối với người sử dụng đất. Khoản 1 Điều 138 Luật đất đai 2003 quy định: “Người sử dụng đất có quyền khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai”. Cũng theo Điều 9 Luật đất đai 2003 người sử dụng đất được xác định gồm bảy nhóm đối tượng: Một, các tổ chức trong nước bao gồm cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội- nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức kinh tế - xã hội, tổ chức sự nghiệp công, đơn vị vũ trang nhân dân và các tổ chức khác theo quy định của Chính phủ (sau đây gọi chung là tổ chức) được nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất; tổ chức kinh tế nhận chuyển quyền sử dụng đất; Hai, hộ gia đình, cá nhân trong nước (sau đây gọi chung là hộ gia đình, cá nhân) được Nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất; Ba, cộng đồng dân cư gồm cộng đồng người Việt Nam sinh sống trên cùng địa bàn thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc và các điểm dân cư tương tự có cùng phong tục, tập quán hoặc có chung dòng họ được Nhà nước giao đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất; Bốn, cơ sở tôn giáo gồm chùa, nhà thờ, thánh thất, thánh đường, tu viện, trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo và các cơ sở khác của tôn giáo được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất hoặc giao đất; Năm, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao gồm cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện khác của nước ngoài có chức năng ngoại giao được Chính phủ Việt Nam thừa nhận; cơ quan đại diện của tổ chức Liên hợp quốc, cơ quan hoặc tổ chức
- liên chính phủ, cơ quan đại diện của tổ chức liên chính phủ được Nhà nước Việt Nam cho thuê đất; Sáu, người Việt Nam định cư ở nước ngoài về đầu tư, hoạt động văn hoá, hoạt động khoa học thường xuyên hoặc về sống ổn định tại Việt Nam được Nhà nước Việt Nam giao đất, cho thuê đất, được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở; Bảy, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam theo pháp luật về đầu tư được Nhà nước Việt Nam cho thuê đất. Theo pháp luật hiện hành, ở nước ta có hai hệ thống cơ quan có chức năng giải quyết các vụ việc khiếu nại về đất đai. Cụ thể tại khoản 2 Điều 138 Luật đất đai quy định: a) Trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khởi kiện tại Toà án nhân dân hoặc tiếp tục khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Trong trường hợp khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là quyết định giải quyết cuối cùng; b) Trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khởi kiện tại Toà án nhân dân; Pháp luật còn quy định việc giải quyết khiếu nại về đất đai quy định tại khoản 2 Điều này không bao gồm trường hợp khiếu nại về quyết định giải quyết tranh chấp đất đai quy định tại khoản 2 Điều 136 của Luật này. Như vậy, người sử dụng đất trước hết phải bắt buộc gửi đơn khiếu nại đến Uỷ ban nhân dân đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính; Uỷ ban nhân dân đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính bị khiếu nại có trách nhiệm giải quyết lần đầu. Trường hợp đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu thì có quyền gửi đơn khiếu nại lên Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp hoặc khởi kiện ra toà án nhân dân; quyết định giải quyết khiếu nại của Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp là quyết định giải
- quyết cuối cùng. Trường hợp Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là cấp giải quyết khiếu nại lần đầu mà đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại thì có quyền khởi kiện ra toà án nhân dân về quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính bị khiếu nại. Việc giải quyết khiếu nại về đất đai không bao gồm trường hợp khiếu nại về quyết định hành chính giải quyết tranh chấp đất đai. Quy định như trên sẽ làm rõ thẩm quyền giải quyết khiếu nại về đất đai, khắc phục được tình trạng đang từ giải quyết tranh chấp đất đai lại chuyển sang khiếu nại về quyết định hành chính như hiện nay, tách bạch giữa giải quyết khiếu nại về đất đai với giải quyết tranh chấp về đất đai. Tuy nhiên, từ trước đến nay chúng ta duy trì cách giải quyết là “người khiếu nại lần đầu phải khiếu nại với người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có cán bộ, công chức có hành vi hành chính mà người khiếu nại có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật….”[45, tr.97]; có nghĩa người bị khiếu nại chính lại là người giải quyết khiếu nại và “cơ quan hành chính cấp trên xem xét khiếu nại đối với quyết định giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới” (giải quyết khiếu nại lần hai) [45, tr.102] sẽ dẫn đến thiếu dân chủ và khó tránh khỏi yếu tố không khách quan. Trong xu thế hội nhập mở cửa chúng ta cần hoàn thiện pháp luật theo hướng mọi quyết định hành chính (trong đó có quyết định giải quyết khiếu nại) có thể bị kiện ra toà bất cứ lúc nào theo yêu cầu của người khiếu nại để bảo đảm dân chủ, khách quan và người dân có nhiều cơ hội lựa chọn cách giải quyết, cơ quan giải quyết. Về vấn đề này Nghị quyết số 48- NQ/TW ngày 24/5/2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010, định hướng đến 2020 nêu rõ: “Hoàn thiện hệ thống pháp luật về khiếu nại, tố cáo, bảo đảm mọi quyết định và hành vi hành chính trái pháp luật đều được phát hiện và có thể bị khởi kiện tại toà án”. Giải quyết khiếu nại về đất đai là một dạng hoạt động của quản lý nhà nước, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tiến hành theo phạm vi, chức năng, thẩm quyền. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào sự lựa chọn của người khiếu nại mà vụ việc sẽ được giải quyết theo thủ tục tố tụng của hệ thống cơ quan Toà án hoặc theo thủ tục hành chính, kết quả giải quyết có thể là một bản án, quyết định của Toà án hoặc bằng một quyết định hành chính của cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền. Đồng thời giải quyết khiếu nại về đất đai còn là một dạng của hoạt động áp dụng pháp luật. Thông qua các hồ sơ, tài liệu lưu
- trữ mà các cơ quan cung cấp, chứng cứ, dấu hiệu, hành vi, tình tiết thực tế của từng vụ việc, cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc nhà chức trách có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật để xác định được đúng, sai, tích chất, của nội dung khiếu nại, yêu cầu sửa đổi, huỷ bỏ hoặc chấm dứt hiệu lực của quyết định hành chính hay hành vi hành chính bị khiếu nại, buộc bồi thường thiệt hại (nếu có), khôi phục uy tín, danh dự đã bị xâm hại, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại. Nhưng dạng áp dụng pháp luật này không phải xuất phát từ ý chí đơn phương ban đầu của nhà nước như trong xử lý vi phạm hành chính hay các dạng áp dụng pháp luật khác mà nó chỉ xảy ra khi có yêu cầu của chủ thể bị áp dụng pháp luật, hay nói cách khác là phát sinh trên cơ sở ý chí của chủ thể khiếu nại về đất đai. Song, để có đủ tư cách pháp lý tham gia khiếu nại về đất đai, thì chủ thể khiếu nại về đất đai chỉ có thể thuộc trong bảy nhóm đối tượng đã được pháp luật xác định. Về cơ sở pháp lý, để giải quyết một quan hệ pháp luật về đất đai như giải quyết khiếu nại về đất đai thì trước khi ban hành một văn bản áp dụng pháp luật (quyết định hành chính) yêu cầu có tính bắt buộc đầu tiên là xem xét tất cả quá trình diễn biến, các yếu tố, tình tiết sự việc một cách khách quan, toàn diện, sau đó người có thẩm quyền phải dựa vào các quy phạm pháp luật trực tiếp hoặc gián tiếp điều chỉnh quan hệ pháp luật đó để ban hành quyết định bác bỏ hay công nhận nội dung khiếu nại của đương sự là đúng hay sai, cũng như công nhận quyền lợi và nghĩa vụ pháp lý của người khiếu nại nếu có, đảm bảo cho người khiếu nại có quyền khiếu nại tiếp hay không. Theo pháp luật Việt Nam, người có thẩm quyền ban hành quyết định giải quyết khiếu nại về đất đai phải là những người đứng đầu cơ quan quản lý hành chính nhà nước ở cấp huyện và cấp tỉnh. Cụ thể là đối với cấp huyện, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân là người có thẩm quyền “giải quyết lần đầu” đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai. Nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết; quyết định của Chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là quyết định giải quyết cuối cùng. Riêng đối với cấp tỉnh, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân là người có thẩm quyền “giải quyết lần đầu” đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai. Nếu không đồng ý với quyết định
- giải quyết thì người khiếu nại có quyền khởi kiện tại Toà án nhân dân ngay mà không cần thủ tục khiếu nại tiếp. Tóm lại, áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là hoạt động mang tính tổ chức và tính quyền lực nhà nước. Đó là việc nhà chức trách có thẩm quyền căn cứ vào quy định của pháp luật để ra một quyết định hành chính (quyết định cá biệt) mà hậu quả pháp lý và giá trị hiệu lực của quyết định đó sẽ làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một quan hệ pháp luật về đất đai. Hay nói cụ thể hơn áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là việc người có chức trách thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh bằng quyền hạn của mình, căn cứ vào quy định của pháp luật ban hành một quyết định hành chính giải quyết các khiếu nại về đất đai nhằm để xác định tính chất đúng, sai của nội dung khiếu nại, yêu cầu giữ nguyên, sửa đổi hoặc huỷ bỏ một phần hay toàn bộ quyết định hành chính, chấm dứt hành vi hành chính bị khiếu nại; buộc bồi thường thiệt hại (nếu có); khẳng định người khiếu nại có quyền khiếu nại tiếp, quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án hay không; khôi phục uy tín, danh dự đã bị xâm hại, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại. 1.1.1.3. Đặc điểm áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai Trên cơ sở khái niệm áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, ngoài những đặc điểm chung của áp dụng pháp luật, áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh còn có những đặc thù riêng. Thứ nhất, Áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, thể hiện: Hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, chủ thể giải quyết phải do người đứng đầu của cơ quan quản lý hành chính nhà nước tiến hành mà cụ thể ở đây là Chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh hay những người trực tiếp do Chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh uỷ quyền (phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, Chánh thanh tra tỉnh, Giám đốc sở Tài Nguyên và Môi trường). Trong quá trình áp dụng pháp luật
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội - Nguyễn Văn Chiến
76 p | 486 | 107
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai
86 p | 75 | 38
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai tại tòa án nhân dân qua thực tiễn của Tòa án nhân dân tối cao
26 p | 166 | 35
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Toà án nhân dân qua thực tiễn của Toà án nhân dân tối cao
103 p | 49 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân trong giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn Hà Nội
16 p | 125 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Áp dụng pháp luật về giáo dục và đào tạo – thực tiễn tại tỉnh Nam Định
17 p | 139 | 18
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Áp dụng pháp luật trong xét sử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội - Qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
8 p | 146 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 qua thực tiễn áp dụng pháp luật tại Toà án nhân dân trên địa bàn Tp Đà Nẵng
114 p | 53 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật: Hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân trong giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn Hà Nội
108 p | 52 | 11
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân trong giải quyết án hôn nhân và gia đình qua thực tiễn tỉnh Thái Nguyên
26 p | 82 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Các biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thanh toán bằng thư tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam
26 p | 98 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội – Qua thực tiễn tỉnh Thanh Hoá
120 p | 50 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam
110 p | 55 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Áp dụng pháp luật về đặc xá ở Việt Nam hiện nay
85 p | 19 | 6
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Áp dụng pháp luật giải quyết các tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay
27 p | 63 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vấn đề áp dụng pháp luật hình sự trong việc giải quyết tranh chấp thương mại trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
110 p | 32 | 5
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Áp dụng pháp luật trong cấp và quản lý chứng minh nhân dân ở Việt Nam hiện nay
28 p | 79 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Áp dụng pháp luật về giáo dục và đào tạo – Thực tiễn tại tỉnh Nam Định
101 p | 28 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn