intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Công tác phát triển đảng viên trong công nhân các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai giai đoạn hiện nay

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:88

689
lượt xem
108
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phát triển đảng viên để không ngừng bổ sung vào hàng ngũ của mình những lực lượng mới, những người ưu tú trong phong trào quần chúng, bảo đảm sự kế thừa và phát triển liên tục của Đảng là một yêu cầu khách quan có tính qui luật trong quá trình hoạt động của Đảng. Từ ngày thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến công tác phát triển đảng viên. Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX của Đảng chỉ rõ phương hướng công tác phát triển đảng viên hiện nay...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Công tác phát triển đảng viên trong công nhân các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai giai đoạn hiện nay

  1. LUẬN VĂN: Công tác phát triển đảng viên trong công nhân các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai giai đoạn hiện nay
  2. Mở Đầu 1. Lý do chọn đề tài Phát triển đảng viên để không ngừng bổ sung vào hàng ngũ của mình những lực lượng mới, những người ưu tú trong phong trào quần chúng, bảo đảm sự kế thừa và phát triển liên tục của Đảng là một yêu cầu khách quan có tính qui luật trong quá trình hoạt động của Đảng. Từ ngày thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến công tác phát triển đảng viên. Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX của Đảng chỉ rõ phương hướng công tác phát triển đảng viên hiện nay là: "Phát triển đảng viên theo đúng tiêu chuẩn quy định, chú ý những người ưu tú trong công nhân, trí thức, lao động thuộc các thành phần kinh tế, đoàn viên Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, những nơi còn ít hoặc chưa có đảng viên" [23, tr. 143]. Công nhân trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD) là một bộ phận của giai cấp công nhân (GCCN) Việt Nam. Cùng với sự phát triển nhanh chóng và vai trò ngày càng tăng của các DNNQD, lực lượng công nhân trong các DNNQD đang phát triển nhanh về số lượng và có vai trò quan trong trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) hiện nay. Với tư cách là đảng của GCCN Việt Nam, Đảng ta đang đặc biệt quan tâm tới việc phát triển đảng viên trong công nhân và xây dựng tổ chức đảng trong các DNNQD. Bình Dương, Đồng Nai là hai tỉnh nằm trong vùng trọng điểm công nghiệp phía Nam. Lượng công nhân trong các khu công nghiệp (KCN) nói chung và các DNNQD nói riêng có số lượng rất lớn và tăng nhanh. Thời gian qua, thực hiện Chỉ thị số 07 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng Đảng, đoàn thể trong các loại hình DNNQD, Đảng bộ tỉnh Bình Dương và Đồng Nai đã có nhiều cố gắng trong việc phát triển đảng viên là công nhân trong các DNNQD. Tuy nhiên, công tác phát triển đảng viên ở các DNNQD vẫn còn khó khăn, nhiều doanh nghiệp tư nhân (DNTN), doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (DNCVĐTNN) chưa có đảng viên, chưa có tổ chức đảng. Để đáp ứng yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, các
  3. Đảng bộ tỉnh Bình Dương và Đồng Nai đang rất quan tâm đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong công nhân ở các doanh nghiệp này. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: "Công tác phát triển đảng viên trong công nhân các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai giai đoạn hiện nay" để góp phần giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn đang đòi hỏi là rất cấp thiết. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Công tác phát triển đảng viên nói chung và công tác phát triển đảng viên trong công nhân đã được đề cập trong nhiều văn kiện của Đảng. Các nhà nghiên cứu và thực tiễn cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề phát triển đảng viên, như: - Trên báo Quân đội nhân dân có bài của Trần Nhật Độ: "Đổi mới hơn nữa công tác phát triển Đảng", số ra ngày 22/3/1994; Lê Mậu Lân với bài: "Phát triển đảng viên trẻ, nguồn sinh lực tiềm tàng của Đảng", số ra ngày 23/1/1995; Đỗ Mười với bài: "Phấn đấu vào Đảng thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là lý tưởng cao đẹp của thanh niên", số ra ngày 20/3/1995; Vũ Thanh Minh với bài: "Vấn đề đào tạo nguồn phát triển Đảng trong thanh niên", số ra ngày 11/10/1995; Hoàng Bình Quân với bài trên báo Thông tin khoa học tự nhiên: "Vấn đề phát triển Đảng trong thanh niên sinh viên hiện nay", số 5, 5/1999. Trên tạp chí có bài của Nguyễn Văn Muôn: "Một số suy nghĩ về công tác phát triển Đảng hiện nay", Xây dựng Đảng, số 5, 1994; Đỗ Xuân với bài: "Hội nghị chuyên đề về công tác phát triển đảng viên trẻ", Xây dựng Đảng, số 3, 1995; Hồ Đức với bài: "Việc đẩy mạnh công tác phát triển Đảng trong thanh niên", Tạp chí Cộng sản, số 5, 1995; Mạch Quang Thắng với bài: " Một số vấn đề đặt ra đối với công tác phát triển đảng viên", Xây dựng Đảng, số 5, 2004; Nguyễn Văn Sáu với bài: "Một số giải pháp nâng cao công tác phát triển Đảng", Xây dựng Đảng, số 6, 2004; Hồ Đức Việt với bài: "Đẩy mạnh công tác phát triển Đảng trong thanh niên", Tạp chí Cộng sản, số 3, 1995... Trong những số báo này, hầu hết các tác giả đều đề cập và giải quyết đến các vấn đề phát triển Đảng nói chung và phát triển Đảng trong đối tượng là thanh niên, sinh viên nói riêng.
  4. - Trên báo Nhân dân, Lâm Huệ Nữ có bài: "Công tác xây dựng tổ chức Đảng và các đoàn thể trong doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Đồng Nai", số ra ngày 7/12/2004; Nguyễn Đình Khánh với bài: "Hội nghị công tác xây dựng tổ chức Đảng, đoàn thể trong doanh nghiệp ở các khu công nghiệp", số ra ngày 23/10/2004; Trần Thu Thủy với bài: "Kinh nghiệm phát triển đảng viên mười doanh nghiệp ngoài quốc doanh", Tạp chí Xây dựng Đảng, số 6, 2003; Nguyễn Đức Hạt: "Tăng cường xây dựng tổ chức Đảng, đoàn thể trong doanh nghiệp ở các khu công nghiệp", Tạp chí Xây dựng Đảng, số 11, 2004; bài: "Vai trò của tổ chức cơ sở Đảng ở một doanh nghiệp tư nhân", Tạp chí Xây dựng Đảng, số 8, 2004... Trong những số này, các tác giả đã đề cập đến vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở Đảng; kinh nghiệm thành lập và xây dựng các tổ chức đảng, đoàn thể đối với các loại hình doanh nghiệp, đặc biệt là DNNQD trên địa bàn có KCN. Các nhà chuyên môn còn quan tâm nghiên cứu, phân tích, mổ xẻ trên các vấn đề, như: Nguyễn Thế Vịnh có đề tài: "Tăng cường kết nạp đảng viên là công nhân trong các xí nghiệp công nghiệp ở thị xã Ninh Bình tỉnh Ninh Bình", Chuẩn hóa thạc sĩ xây dựng Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1995; đề tài này, tác giả làm rõ lý luận cơ bản phải tăng cường công tác phát triển đảng viên là công nhân; đồng thời chỉ ra thực trạng kết nạp đảng viên ở thị xã Ninh Bình; đưa ra phương hướng và giải pháp tăng cường công tác phát triển đảng viên là công nhân ở các doanh nghiệp công nghiệp quốc doanh thuộc Đảng bộ thị xã Ninh Bình tỉnh Ninh Bình. Ngoài ra, nhiều cuộc hội thảo chuyên đề, hội thảo khoa học, các nhà nghiên cứu đã tổng kết thành những đầu sách như: "Phấn đấu vào Đảng để thực hiện lý tưởng cao đẹp của chúng ta", Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1992; "Tổ chức đảng ở doanh nghiệp ngoài quốc doanh và phương thức hoạt động trong cơ chế thị trường hiện nay", Nxb Lao động, Hà Nội, 1999; "Làm người cộng sản trong giai đoạn hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003; "Công nhân công nghiệp trong các doanh nghiệp liên doanh ở nước ta thời kỳ đổi mới", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003 v.v... Riêng về phát triển Đảng trong công nhân các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai cho đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này là phù hợp và cần thiết hiện nay.
  5. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn * Mục đích Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác phát triển đảng viên trong công nhân các DNNQD ở các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai. Từ đó, đề xuất các giải pháp đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên nói riêng, công tác xây dựng Đảng nói chung trong các DNNQD ở các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai. * Nhiệm vụ Để đạt được mục đích nói trên, luận văn có nhiệm vụ: - Làm rõ khái niệm, vai trò của công tác phát triển đảng viên trong công nhân các DNNQD ở Bình Dương, Đồng Nai; quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển đảng viên. - Xác định đặc điểm của các DNNQD, công nhân các DNNQD có liên quan đến công tác phát triển đảng viên trong công nhân các DNNQD ở Bình Dương, Đồng Nai. - Đánh giá đúng thực trạng công tác phát triển đảng viên trong công nhân các DNNQD ở Bình Dương, Đồng Nai thời gian qua. Từ đó, rút ra nguyên nhân, đề xuất các giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong công nhân ở các DNNQD ở các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai giai đoạn mới. * Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác phát triển đảng viên trong công nhân các DNNQD ở các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai. * Phạm vi nghiên cứu Luận văn chủ yếu tập trung khảo sát công tác phát triển đảng viên trong công nhân các DNNQD ở các KCN trên địa bàn tỉnh Bình Dương, Đồng Nai giai đoạn 1995 đến nay và đề xuất giải pháp cho nhiệm kỳ tới. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về Xây dựng Đảng và vấn đề phát triển
  6. đảng viên; đồng thời, luận văn kế thừa các kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã được công bố. Về phương pháp, luận văn sử dụng phương pháp biện chứng mácxít kết hợp các phương pháp chủ yếu như: tổng kết thực tiễn, lịch sử - lôgíc, nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh... 5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn Luận văn góp phần làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của công tác phát triển đảng viên trong công nhân các DNNQD ở các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, bước đầu rút ra kinh nghiệm và đề xuất những giải pháp đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong công nhân ở các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai giai đoạn hiện nay. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, chỉ đạo thực tiễn công tác phát triển đảng viên trong công nhân các DNNQD ở các tỉnh Bình D ương, Đồng Nai. Luận văn cũng có thể là tài liệu tham khảo cho nghiên cứu, học tập môn Xây dựng Đảng ở các nhà trường. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục; nội dung của luận văn gồm 3 chương 6 tiết.
  7. Chương 1 công tác Phát Triển Đảng VIÊN TRONG CÔNG NHÂN Các DOANH Nghiệp Ngoài Quốc DOANH ở Các Tỉnh Bình DƯƠNG, Đồng NAI - những vấn đề lý luận 1.1. doanh nghiệp ngoài quốc doanh, công nhân các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở tỉnh Bình Dương, Đồng Nai 1.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai Về tự nhiên: Bình Dương, Đồng Nai là hai tỉnh tiếp giáp nhau, thuộc miền Đông Nam Bộ và cũng là hai tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Long An, Bình Phước và Tây Ninh). Vùng kinh tế trọng điểm này là khu vực kinh tế năng động nhất của Việt Nam, chiếm hơn 50% sản lượng công nghiệp và dịch vụ cả nước. Hai tỉnh Bình Dương, Đồng Nai có hướng Nam cùng giáp ranh với Thành phố Hồ Chí Minh và Bà Rịa - Vũng Tàu, hướng Bắc giáp tỉnh Bình Phước và Lâm Đồng, hướng Đông tỉnh Đồng Nai giáp tỉnh Bình Thuận, hướng Tây tỉnh Bình Dương giáp Thành phố Hồ Chí Minh và Tây Ninh. Toàn tỉnh Bình Dương có 7 đơn vị hành chính, gồm 6 huyện và một thị xã Thủ Dầu Một là trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội của tỉnh. Đồng Nai có 9 đơn vị hành chính, gồm 8 huyện và một thành phố Biên Hòa là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của tỉnh. Cả hai tỉnh cách Thành phố Hồ Chí Minh - trung tâm kinh tế công nghiệp dịch vụ, thương mại, khoa học kỹ thuật, đầu mối giao lưu quốc tế lớn của cả nước chưa đầy 40 km. Vùng công nghiệp phía Đông Nam của hai tỉnh là "gạch nối" giữa Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Vũng Tàu trong vòng bán kính 40 - 50 km. Đi dọc theo hướng quốc lộ 14 về hướng Bắc là các tỉnh thuộc vùng Nam Tây Nguyên được xem là vùng có tiềm năng sản xuất và cung cấp nguyên liệu lớn nhất cả nước. Bình Dương, Đồng Nai cũng là hai tỉnh nằm trong khu vực đầu mối giao thông quốc tế, có hệ thống giao thông thuận lợi, vành đai sản xuất công nghiệp mạnh của
  8. Thành phố Hồ Chí Minh. Trung tâm hai tỉnh tương đối gần sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất, cảng biển Sài Gòn, cảng biển Vũng Tàu và có đường quốc lộ 1A, 1B đi qua. Ngoài ra, tuyến đường sắt xuyên Việt là mạch máu giao thông quan trọng nối hai tỉnh Bình Dương, Đồng Nai với các tỉnh miền Bắc, miền Trung và Thành phố Hồ Chí Minh. Bình Dương còn có tuyến đường sắt xuyên á (Thành phố Hồ Chí Minh - Phnômpênh - Băngkok), với ga vận tải quốc tế Sóng Thần và hai cảng sông Bà Lụa, Lái Thiêu. Đồng Nai có nhiều sông ngòi và hệ thống các cảng như cảng Đồng Nai, cảng Gò Dầu, cảng Côgido đã tạo thành hệ thống giao thông vận tải thuận lợi trong việc vận chuyển hàng hóa cho tất cả các loại doanh nghiệp trên địa bàn hai tỉnh. Đó chính là những điều kiện, lợi thế hấp dẫn để Bình Dương và Đồng Nai đẩy nhanh tiến độ CNH, HĐH. Bình Dương và Đồng Nai có khí hậu nhiệt đới, cận xích đạo, có gió mùa, ôn hòa, ít bị ảnh hưởng gió bão. Địa hình tương đối bằng phẳng, nền đất cứng, ổn định, thấp dần về phía Nam, thuận tiện cho xây dựng nhà máy, xí nghiệp. Về kinh tế: Từ khi thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, kinh tế Bình Dương, Đồng Nai có bước phát triển nhảy vọt. Kinh tế Đồng Nai: trong 10 năm từ 1991-2000, tỉnh Đồng Nai đã giữ được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục, với mức tăng trưởng bình quân hàng năm là 12,8%. Giai đoạn 1991-1995, GDP bình quân tăng 13,9%; giai đoạn 1996-2000 tăng 11,7%, cao hơn mức bình quân cả nước là 1,8%. Trong những năm gần đây, kinh tế Đồng Nai tiếp tục tăng trưởng khá, GDP năm 2004 tăng 13,56% so với năm 2003, vượt mức tăng trưởng do Đại hội đảng bộ tỉnh đề ra (13-13,5%). Đồng Nai là một trong những tỉnh có nhiều KCN nhất nước. Toàn tỉnh hiện đã quy hoạch tổng thể 17 KCN với diện tích 8.119 ha. Năm 2000, Đồng Nai có 10 KCN đã được Chính phủ phê duyệt, với tổng diện tích 2.720 ha gồm các KCN Biên Hòa 1, Biên Hòa 2, Amata, Lôteco, Gò Dầu (bao gồm cả Vêdan), Nhơn Trạch 1, Nhơn Trạch 2, Nhơn Trạch 3, Hố Nai, Sông Mây. Trong đó, KCN Biên Hòa 1 có 355 ha, 81 doanh nghiệp, thu hút hơn 20.000 lao động; KCN Biên Hòa 2 có diện tích 365 ha, đã cho thuê 91% diện tích và thu hút hơn 26.000 lao động; KCN Amata giai đoạn 1 có diện tích 129 ha, đã đầu tư 22,5 triệu USD và cho thuê 32% diện tích. Đến cuối năm 2004, trên địa
  9. bàn tỉnh Đồng Nai, đã hình thành được 15 KCN đi vào hoạt động (thành phố Biên Hòa 4, huyện Long Thành 4, huyện Nhơn Trạch 5, huyện Trảng Bom 2), với tổng diện tích 4.751 ha, trong đó diện tích đất đã cho thuê là 1.831/ 3.225 ha, chiếm 55,7%. Đồng Nai thu hút được nguồn vốn đầu tư rất lớn: nguồn vốn trong nước do 3.100 doanh nghiệp dân doanh trên địa bàn tỉnh đã đăng ký là trên 5.895 tỷ đồng; nguồn vốn ngoài nước của 583 dự án còn hiệu lực là trên 7,04 tỷ USD, trong đó, 310 dự án đã đi vào hoạt động, 120 dự án đang xây dựng với số vốn trên 3,48 tỷ USD. Trên cơ sở tăng trưởng kinh tế khá cao, đời sống vật chất của nhân dân đã được cải thiện rõ rệt. Mức thu nhập bình quân đầu người tăng 6,680 triệu đồng vào năm 2000 lên 11,15 triệu đồng vào năm 2004 (tăng 17,6% so với năm 2003). Sau 10 năm đẩy mạnh CNH, HĐH (1995-2005), Đồng Nai đã có quy mô kinh tế lớn hơn gấp ba lần trước đó, xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật khá đồng bộ để phát triển kinh tế. Cơ cấu kinh tế đã nghiêng về tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng đã tạo điều kiện cho quá trình CNH, HĐH. Kinh tế Bình Dương: Từ khi được tái lập tỉnh (chia tách từ tỉnh Sông Bé) đến nay, Bình Dương bắt đầu khởi sắc và có bước phát triển nhanh, cùng Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu tạo thành khu tứ giác kinh tế phía Nam. Đặc biệt từ 2001 đến nay, nơi đây nhiều KCN, khu chế xuất (KCX) được hình thành và từng bước đi vào hoạt động; các DNTN, DNCVĐTNN và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài phát triển rất nhanh, đa dạng về quy mô và lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, đóng góp đáng kể cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Mặc dù gặp nhiều khó khăn sau khi chia tách tỉnh, nhưng nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh, Bình Dương đã thu hút nhiều nhà đầu tư trong, ngoài nước, làm cho kinh tế vượt dậy và phát triển nhanh chóng, liên tục trong những năm qua. Tăng trưởng kinh tế bình quân 15,18% giai đoạn 1996-2000; 14,86% giai đoạn 2000-2003 và tăng15,2% năm 2004. Tốc độ tăng trưởng đó gấp 1,3 lần so cả vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và gấp 2,14 lần so với tốc độ tăng trưởng bình quân chung cả nước cùng kỳ. Bình Dương cũng là tỉnh liên tục có tốc độ tăng GDP cao nhất nước trong những năm gần đây. Kinh tế Bình Dương tăng đều ở cả ba khu vực, trong đó công nghiệp có tốc độ tăng trưởng bình quân cao, 27,11%/năm giai đoạn 1996-2000, 20,33%/năm 2000-2003. Tuy
  10. là tỉnh có tốc độ tăng dân số cao (phần lớn là tăng dân số cơ học), nhưng GDP bình quân theo đầu người của Bình Dương liên tục tăng nhanh, cao hơn GDP đầu người trong cả nước: năm 1998 đạt 6,530 triệu đồng/người, năm 2003: 11,6 triệu đồng/người (gấp khoảng 1,5 lần bình quân chung cả nước), năm 2004 đạt 13,1 triệu đồng/người. Không chỉ tăng trưởng kinh tế vượt trội, Bình Dương còn là tỉnh có sự chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Sự chuyển dịch đó tạo thêm nhiều việc làm mới. Đây là nguyên nhân mà Bình Dương cần thu hút một lượng lớn lao động từ các địa phương khác về làm việc tại tỉnh. Bình Dương nổi lên như một hiện tượng kinh tế, xứng đáng là một động lực kinh tế của cả nước. Chính sự đột phá của kinh tế Bình Dương đã làm thay đổi quan điểm phân vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, từ tam giác trở thành tứ giác kinh tế (Quyết định số 44/1998/QĐ-TT, 23/02/1998 của Thủ tướng Chính phủ). Bình Dương hiện có 12 KCN được Chính phủ cho phép thành lập với tổng diện tích 2.431 ha và một khu liên hợp Công nghiệp - Dịch vụ - Đô thị Bình Dương, diện tích 4.196 ha. Toàn tỉnh có 2.734 doanh nghiệp trong nước với tổng số vốn đăng ký 11.401 tỷ đồng; 871 dự án có vốn đầu tư nước ngoài (VĐTNN) với tổng số vốn 4,1 tỷ đô la Mỹ. Đến nay, ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương đã thông qua điều chỉnh quy hoạch phát triển các KCN và các cụm công nghiệp đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; cấp giấy phép thành lập KCN dệt may Bình An (25,9 ha) và phê duyệt quy hoạch định hướng phát triển KCN - đô thị Mỹ Phước mở rộng (711,7 ha). Trình độ học vấn của cư dân Bình Dương khá cao, tỷ lệ người biết đọc, biết viết năm 2003 là 97,60%. Tuy là tỉnh phát triển công nghiệp nhưng lao động qua đào tạo có bằng chuyên môn kỹ thuật chiếm tỷ lệ còn thấp (18,88%). Do vậy, cơ hội tìm việc làm của người lao động gặp khó khăn. Trên thực tế, thị trường lao động Bình Dương còn mang tính tự phát, chưa có tổ chức. Người lao động tham gia thị trường lao động chủ yếu bán sức lao động giản đơn, chưa có nghề ổn định. Bình Dương có tốc độ tăng dân số cơ học cao do thu hút số lượng lớn lao động ngoại tỉnh (cứ 4 người đang sống ở Bình Dương có một người ngoại tỉnh). Chương trình giải quyết việc làm giai đoạn 2001-2005 đã xây dựng kế hoạch tạo việc làm cho 85.390 lao động (riêng năm 2004 là trên 33.000 lao động), trong đó lao động ngoại tỉnh chiếm 60%.
  11. Như vậy, với đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội nêu trên, hai tỉnh Bình Dương, Đồng Nai là nơi hội tụ nhiều yếu tố thuận lợi, có thiên thời, địa lợi, nhân hòa, tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh như Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã vạch ra. 1.1.2. Đặc điểm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở tỉnh Bình Dương, Đồng Nai Từ sau Đại hội VII của Đảng, khái niệm DNNQD được sử dụng rộng rãi để chỉ các doanh nghiệp ngoài loại hình doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tập thể. Tuy vậy, chưa có một định nghĩa rõ ràng, thống nhất về khái niệm này. Trong sách Tổ chức Đảng ở doanh nghiệp ngoài quốc doanh và phương thức hoạt động trong cơ chế thị trường hiện nay do PGS.TS. Trần Trung Quang chủ biên, các tác giả đã xác định các DNNQD bao gồm: các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài [57, tr. 7]. Với khái niệm này, loại hình doanh nghiệp 100% VĐTNN chưa được đề cập đến. Loại hình doanh nghiệp 100% VĐTNN lần đầu tiên được đề cập trong Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (29-12-1987) dưới hình thức là xí nghiệp 100% vốn nước ngoài. Đến 12-11-1996, Quốc hội sửa đổi bổ sung một số điều khoản trong Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, trong đó tại khoản 6 Điều 2 chương 1, giải thích: doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gồm doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% VĐTNN. Khoản 7 Điều 2 giải thích: Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam và Chính phủ nước ngoài hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có VĐTNN hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Doanh nghiệp liên doanh còn được thành lập dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn; vốn pháp định do các bên đóng góp theo luật định; hội đồng quản trị là cơ quan lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp liên doanh. Số l ượng thành viên của hội đồng
  12. quản trị do mỗi bên chỉ định tương ứng với tỷ lệ vốn góp; các bên tham gia liên doanh cùng phân chia lợi nhuận và gánh chịu rủi ro theo tỷ lệ đóng góp vào vốn pháp định. Doanh nghiệp 100% VĐTNN là doanh nghiệp hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của các cá nhân, tổ chức nước ngoài thành lập và quản lý. Doanh nghiệp này thường được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn và là một pháp nhân mới theo luật định. Bên tiếp nhận đầu tư không góp vốn nhưng cung cấp cho bên nước ngoài những dịch vụ cần thiết và cho thuê đất đai, lao động. ở Việt Nam trong những năm qua, doanh nghiệp có VĐTNN được coi là một bộ phận của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cùng với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, DNCV ĐTNN ngày càng phát triển đa dạng, thể hiện dưới nhiều hình thức, như: liên doanh, liên kết giữa Nhà nước Việt Nam với tư nhân nước ngoài; giữa tư nhân trong nước với tư nhân nước ngoài; giữa doanh nghiệp nhà nước Việt Nam với các công ty nước ngoài, kể cả các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Vì vậy, Đại hội IX của Đảng đã xác định kinh tế có VĐTNN là một thành phần kinh tế. Từ những phân tích trên, có thể xác định: doanh nghiệp ngoài quốc doanh bao gồm các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong thời gian qua, các DNNQD đã thu hút được nguồn vốn, lao động rất lớn, cùng với kỹ thuật và những kinh nghiệm tổ chức, quản lý tiên tiến ở trong nước và trên thế giới vào sản xuất kinh doanh. Điều đó đã góp phần quan trọng đưa nền kinh tế nước ta thoát ra khỏi khủng hoảng và tăng trưởng với tốc độ khá nhanh, cải thiện đời sống nhân dân. Vai trò của các DNNQD sẽ còn tiếp tục tăng lên trong quá trình đổi mới và đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và mở rộng kinh tế đối ngoại, những năm gần đây, ở Bình Dương và Đồng Nai có nhiều DNNQD đã được thành lập và đi vào hoạt động. Hiện nay, trên địa bàn hai tỉnh có hơn 5.000 DNNQD, trong đó có 777 doanh nghiệp đi vào hoạt động và tập trung ở các KCN
  13. (chiếm 79,2% trong tổng số các doanh nghiệp ở các KCN, trong đó Đồng Nai 71,1%, Bình Dương 89,7%) Các DNNQD ở Đồng Nai và Bình Dương đã thu hút được nguồn vốn, lao động rất lớn, cùng với kỹ thuật và những kinh nghiệm tổ chức, quản lý tiên tiến ở trong nước và trên thế giới vào sản xuất kinh doanh, đóng góp rất quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp vẫn chưa khai thác và phát huy tốt tiềm năng về nguồn vốn, tài nguyên, lao động; chưa chú trọng đúng mức việc phát triển nguồn nhân lực lâu dài; bảo vệ môi trường. Các DNNQD ở Đồng Nai, Bình Dương có một số đặc điểm nổi bật sau: - Các DNNQD phần lớn tập trung ở các KCN. Theo Luật Đầu tư 1996 và Quy chế KCN, KCX ban hành kèm theo Nghị định số 36/CP ngày 24/4/1997, khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. KCN phải có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sống. Trong KCN có thể có cả doanh nghiệp KCN (hoạt động theo quy chế của doanh nghiệp trong KCN) và doanh nghiệp chế xuất (hoạt động theo quy chế của doanh nghiệp trong KCX). Các KCN có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của các nước khối ASEAN hiện nay, vì nó vừa kích thích xu hướng sản xuất hướng ra xuất khẩu, vừa động viên phát triển sản xuất thay thế hàng nhập khẩu và chế biến nguyên liệu thô trong nước, tạo việc làm mới. Khu chế xuất là loại đặc khu kinh tế có diện tích tương đối nhỏ, có hàng rào phân cách về địa lý trong một quốc gia, không có dân cư sinh sống nhằm thu hút các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu và các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu. KCX được hưởng nhiều ưu đãi, nhất là ưu đãi về thuế và thủ tục hải quan, song đòi hỏi phải xuất khẩu gần như toàn bộ sản phẩm. Đối với nước ta, KCX là KCN chuyên sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có cư dân sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Do điều kiện cơ sở hạ tầng tốt nên các KCN và KCX thu hút được nhiều DNNQD vào sản xuất kinh doanh, nhất là các DNNQD vừa và lớn. Hiện nay, trên địa
  14. bàn hai tỉnh Đồng Nai và Bình Dương, với 29 KCN đã thu hút được 777 DNNQD, chiếm tỉ lệ 15,54%. - Các DNNQD trong các KCN của Đồng Nai và Bình Dương có yêu cầu cao về số lượng và chất lượng lao động. Về số lượng, các doanh nghiệp trong khu KCN thường nhận lao động công nghiệp với số lượng lớn, số lượng này tăng dần theo cùng với quy mô đầu tư của các doanh nghiệp vào KCN. Vì vậy, đáp ứng yêu cầu về số lượng lao động của các doanh nghiệp KCN là vấn đề cần thiết và đòi hỏi có trình độ tổ chức lao động cao đối với các cơ quan quản lý. Về chất lượng, các DNNQD trong KCN thường là các doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp lớn, có trình độ quản lý, kỹ thuật, công nghệ cao hơn bên ngoài nên có những yêu cầu cao về chất lượng đối với cả lao động quản lý và lao động kỹ thuật, như: yêu cầu về trình độ đào tạo nghề nghiệp; về kỹ năng, kinh nghiệm lao động; về tác phong, thái độ làm việc... Đây là những yêu cầu mà cả lao động địa phương, lao động nhập cư không dễ đáp ứng, do vậy cơ hội tìm kiếm việc làm với thu nhập cao của lao động trong KCN không phải lúc nào cũng mở rộng. - Lao động trong các DNNQD ở Đồng Nai và Bình Dương có sự biến động rất lớn. Trong khi các doanh nghiệp nhà nước chưa có chế độ thật phù hợp để thu hút thợ bậc cao, lành nghề, thợ giỏi, một số không nhỏ trong lực lượng này đã bỏ xí nghiệp, nhà máy chuyển sang làm ở các DNNQD. Ngay trong các DNNQD lực lượng lao động cũng có sự biến động rất lớn. Chỉ riêng năm 2004, qua tổng hợp báo cáo của 1.923 doanh nghiệp, số lao động tăng là 82.019 người, số lao động giảm là 51.251 người; lao động biến động chủ yếu ở các doanh nghiệp may, giầy da [57]. Dòng di chuyển lao động thường hướng vào các doanh nghiệp, công việc có thu nhập cao hơn, có khả năng đảm bảo việc làm ổn định cho họ. - Trong DNNQD, vốn và tài sản thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp. Đây là đặc điểm nổi bật nhất so với các doanh nghiệp nhà nước, có ảnh hưởng mạnh nhất đến việc xây dựng, hoạt động của tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên trong các DNNQD ở Đồng Nai và Bình Dương. Chủ doanh nghiệp ý thức rất sâu sắc rằng họ bỏ vốn vào sản xuất, kinh doanh với mục đích là lợi nhuận. Họ tận dụng tối đa tiền vốn và sức lao động
  15. để đem lại lợi nhuận cao, họ lại ít quan tâm đến vấn đề xã hội hoặc tìm cách để hạn chế chi phí cho vấn đề này. Người lao động trong DNNQD, kể cả đảng viên cũng là người làm thuê theo thỏa thuận hoặc theo hợp đồng lao động. Họ phải chịu sự điều hành, quản lý của chủ doanh nghiệp. Vì thế, người lao động không có quyền tham gia quyết định các vấn đề về sản xuất - kinh doanh, phân phối lợi ích, mà chỉ có quyền đề đạt ý kiến để chủ doanh nghiệp xem xét. Tuy nhiên, theo pháp luật, người lao động lại có quyền căn cứ vào thỏa ước lao động, vào hợp đồng lao động đã ký kết, vào chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, vào pháp luật hiện hành của nước ta để góp ý, khi cần thiết có thể đấu tranh buộc giới chủ phải chấp hành nghiêm chỉnh những quy định đó. - Nhiều DNNQD ở Đồng Nai, Bình Dương đã quan tâm thực hiện tốt các chế độ, chính sách về tiền lương, tiền thưởng, thu nhập cho người lao động, làm cho tình hình đời sống của công nhân, lao động tương đối ổn định. Bình quân thu nhập của người lao động 1,25 triệu đ/người/ tháng, mức lương cao nhất 4 triệu đồng/người/tháng, mức lương thấp nhất 600 ngàn đồng/người/tháng chủ yếu là ngành may mặc, giầy da do đặc điểm lao động thủ công, trình độ thấp. Bình quân lương tăng 200-300 ngàn đồng/người/tháng, không có doanh nghiệp nào trả lương cho người lao động thấp hơn mức lương tối thiểu. Thời gian qua, đồng thời với quy hoạch các KCN, cụm công nghiệp, cụm dân cư của tỉnh. Một số doanh nghiệp tự bỏ vốn ra xây dựng các cư xá trong khuôn viên nhà máy cho công nhân như ở Công ty Vedan, Công ty Chimgfa, Hualin, Chong Nam,... (Đồng Nai). Những cố gắng trên, bước đầu đã góp phần giải quyết một phần về nhu cầu nhà ở cho công nhân trên địa bàn hai tỉnh Bình Dương, Đồng Nai. Nhiều doanh nghiệp cho đến nay, ngoài việc mở rộng quy mô và số lượng công nhân, họ còn nhanh chóng thực hiện pháp luật Việt Nam về xây dựng công trình, quản lý môi trường, quy định về công tác xuất nhập khẩu, chính sách thuế và luật lao động. Còn người lao động được học tập luật pháp tương đối đầy đủ hơn, thông qua các thông tin đại chúng, thông qua công tác giáo dục của các tổ chức trong doanh nghiệp, vì vậy các vụ tranh chấp lao động, đình công, lãn công được giảm dần. Tuy nhiên, cá biệt còn xảy ra một số doanh nghiệp vẫn xảy ra tình trạng va chạm, xô xát, thậm chí vi phạm nhân phẩm của người lao động. Nguyên nhân chủ yếu một mặt là do số nhà đầu tư cố
  16. tình vi phạm pháp luật, mặt khác người sử dụng lao động và người lao động ở nhiều nguồn, nhiều địa phương, nhiều quốc gia, trình độ văn hóa, nhận thức pháp luật, phong cách sinh hoạt, phong tục tập quán khác nhau nên xảy ra những bất đồng. 1.1.3. Đặc điểm công nhân trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở tỉnh Bình Dương, Đồng Nai Công nhân các DNNQD ở tỉnh Bình Dương và Đồng Nai là những người lao động chân tay và trí óc, được thuê làm việc trong các DNNQD trên địa bàn hai tỉnh. Bộ phận đông nhất là những người lao động trong các dây chuyền sản xuất (thường được gọi là công nhân), ngoài ra còn có một bộ phận những người làm công việc quản lý, dịch vụ, phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp (thường được gọi là lao động). Khái niệm công nhân ở đây bao gồm cả công nhân và lao động theo cách thường gọi ở địa phương, bởi vì dù là người lao động chân tay, hay trí óc; người trực tiếp sản xuất hay quản lý trong các DNNQD, trừ chủ doanh nghiệp, còn lại đều là những người được thuê làm việc, thực chất là thu nhập và sống bằng bán sức lao động. Cùng với sự phát triển của các DNNQD, lực lượng công nhân trong các DNNQD ở Bình Dương và Đồng Nai đang phát triển nhanh về số lượng và chất lượng. Tổng số công nhân lao động (CNLĐ) đang làm việc trong các DNNQD ở hai tỉnh là 322.277 người. Theo thống kê của Liên đoàn lao động Bình Dương, Đồng Nai, đến cuối tháng 8 năm 2004, chỉ riêng các DNNQD ở Bình Dương, Đồng Nai trong các KCN đã có 236.672 CNLĐ (Phụ lục 7). Đội ngũ công nhân các DNNQD ở Bình Dương, Đồng Nai đang đóng vai trò to lớn trong sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, họ là lực lượng lao động trực tiếp tạo ra một phần chủ yếu của cải vật chất, hàng hóa sản xuất ra trên địa bàn và lợi nhuận cho các doanh nghiệp; góp phần quan trọng vào việc đẩy mạnh CNH, HĐH và có ảnh hưởng nhiều mặt tới đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở địa phương. Đội ngũ công nhân các DNNQD ở tỉnh Bình Dương, Đồng Nai là một bộ phận của GCCN Việt Nam nói chung và của Bình Dương, Đồng Nai nói riêng, họ mang đầy
  17. đủ đặc điểm cơ bản của GCCN Việt Nam, đồng thời, do điều kiện lịch sử, kinh tế - xã hội của địa phương nên cũng có các đặc thù. Những đặc điểm đó là: - Đội ngũ công nhân các DNNQD ở Bình D ương, Đồng Nai ra đời từ rất sớm nhưng tính chất công nghiệp mới hình thành và đang trên đà phát triển nhanh. Trong những năm đầu thế kỷ XX, cùng quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở nước ta, đội ngũ công nhân của Bình Dương, Đồng Nai ra đời, lúc đầu chủ yếu là công nhân trong các đồn điền cao su của Pháp. Từ đầu thế kỷ XX, hàng loạt công ty tư bản Pháp đổ xô vào Đông Dương thành lập các đồn điền cao su. Trong 4 công ty cao su lớn nhất có mặt ở Việt Nam là Terrres rouges, SIPH, CEXO, Michelin, đã có 3 công ty có đồn điền tại Thủ Dầu Một (Bình Dương) là Terres rouges, CEXO, Michelin. Ngoài ra, còn có các công ty khác như công ty cao su Láp-pê (Plantation de Phước Hòa) đặt trụ sở tại Phước Hòa, và các đồn điền cao su nhỏ của tư sản người Việt, người Hoa. Đây là điểm quan trọng đánh dấu sự hình thành đội ngũ công nhân Bình Dương, Đồng Nai. Tuy nhiên, phải đến khi có đường xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa và KCN tập trung Biên Hòa (năm 1970) nằm trên con đường nối Biên Hòa với Vũng Tàu - Côn Đảo thì đội ngũ công nhân ở đây mới có bước phát triển rõ. Trong KCN, khoảng 70% hoạt động sản xuất của nhà máy, xí nghiệp do tư bản nước ngoài chi phối. Tư sản người Việt chỉ có ở một số ngành sản xuất bằng nguyên liệu trong nước như xay xát và nấu rượu. Các cơ sở công nghiệp này đã thu hút số lượng công nhân khá lớn, hình thành nên đội ngũ công nhân công nghiệp ở đây. Tuy vậy, do cơ cấu công nghiệp phục vụ chiến tranh, mất cân đối, què quặt, chủ yếu là công nghiệp nhẹ với quy mô nhỏ nên đội ngũ công nhân vẫn còn rất nhỏ bé. Trong tổng số cơ sở sản xuất công nghiệp khi đó chỉ có 0,18% cơ sở có từ 50 công nhân trở lên; 0,72% cơ sở có từ 10-49 công nhân; còn lại trên 99% cơ sở dưới 10 công nhân. Từ khi đất nước thực hiện công cuộc đổi mới, đội ngũ công nhân trong các DNNQD ở Đồng Nai, Bình Dương mới thật sự phát triển nhanh. Chỉ riêng ở Bình Dương, những năm gần đây, trung bình mỗi năm thu hút thêm từ 20.000 - 30.000 CNLĐ, trong đó công nhân ngoài tỉnh chiếm hơn 60% [43]. Do đó, có thể thấy rõ đội ngũ công nhân các DNNQD ở Bình Dương, Đồng Nai ra đời từ rất sớm nhưng tính chất công nghiệp mới hình thành và đang trên đà phát triển rất nhanh. Đây là điểm khác với
  18. công nhân vùng mỏ Quảng Ninh, thành phố cảng Hải Phòng, thành phố dệt Nam Định là những nơi các cơ sở công nghiệp đã ra đời từ cuối thế kỷ XIX. - Đội ngũ công nhân các DNNQD rất đa dạng về thành phần xuất thân, đến từ khắp nơi trong cả nước và còn rất trẻ. Là hai tỉnh có tốc độ công nghiệp hóa nhanh với nhiều KCN, Bình Dương và Đồng Nai đã thu hút nguồn nhân lực từ mọi miền của đất nước, làm cho đội ngũ công nhân nơi đây phát triển mạnh mẽ với thành phần xuất thân rất đa dạng. Số công nhân là người từ các nơi về làm việc ở các KCN chiếm trên 60%. Riêng Đồng Nai, có số công nhân xuất thân từ học sinh phổ thông chiếm 34,62%; bộ đội: 5,09%; tốt nghiệp các trường dạy nghề: 9,6%; tốt nghiệp cao đẳng, đại học: 4,21%; nông dân: 11,9%; cán bộ công chức: 7,16%; những người chưa có nghề: 20,89% [13, tr. 15]. Đặc biệt, công nhân trong các DNNQD ở Đồng Nai hầu hết ở trong độ tuổi rất trẻ, tiềm năng phát triển rất lớn. Qua khảo sát 30.000 công nhân ở Đồng Nai cho thấy: 72,58% công nhân có độ tuổi từ 16-35, trong đó số công nhân trẻ từ 16-26 chiếm 34,48%; số công nhân có độ tuổi từ 46-60 chỉ chiếm 6,04%. Đại đa số công nhân trẻ có độ tuổi từ 16-35 lao động trong các DNNQD [13, tr. 13]. ở Bình Dương, do lực lượng công nhân chủ yếu xuất thân từ các vùng nông thôn nên trình độ văn hóa phần lớn là trung học cơ sở, chưa qua đào tạo tay nghề, hoặc công nhân bậc thấp. Hầu hết lao động trong các DNNQD ở KCN là từ các tỉnh miền Trung, miền Bắc đến làm việc. Trong tổng số 73.965 lao động ở các KCN của Bình Dương, công nhân có trình độ đại học chiếm 4,260%; trung cấp: 23,404%; phổ thông: 60,014%. Ngoài ra, còn có 941 chuyên gia trong tổng số 1.281 lao động người nước ngoài đang làm việc tại Bình Dương. Như vậy, đội ngũ công nhân Bình Dương, Đồng Nai rất đa dạng về thành phần và có độ tuổi rất trẻ. - Trong đội ngũ công nhân các DNNQD ở Bình D ương, Đồng Nai đã xuất hiện một bộ phận công nhân công nghiệp hiện đại. Nằm trong khu vực kinh tế năng động phía Nam, Bình Dương, Đồng Nai đã sớm tiếp nhận đầu tư vốn, kỹ thuật, công nghệ hiện đại của nhiều công ty từ nước ngoài. Điều đó là cho Bình Dương, Đồng Nai ngay từ đầu thời kỳ đổi mới đã có các cơ sở công nghiệp hiện đại với công nghệ, kỹ thuật cao. Với việc xây dựng một loạt cơ sở công nghiệp hiện đại có công nghệ, kỹ thuật cao trong khu vực DNNQD, Bình Dương và Đồng Nai đã hình thành một đội
  19. ngũ công nhân công nghiệp hiện đại, có tri thức, tay nghề chuyên môn cao, có tác phong làm việc công nghiệp, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có ý thức cộng đồng, sống tập trung ở những KCN. - Tuy có sự phát triển khá về số lượng và chất lượng, nhưng mức sống và đời sống văn hóa tinh thần của công nhân còn thấp, còn rất nhiều khó khăn, nhiều bức xúc mà họ phải chấp nhận. Tâm lý phổ biến trong công nhân là lo làm ăn, tăng thu nhập, ngại tham gia các hoạt động chính trị, xã hội vì sợ ảnh hưởng đến công việc, thu nhập. Trong công nhân các KCN ở Đồng Nai và Bình Dương đang nổi lên một số vấn đề bức xúc sau: Về chỗ ở của công nhân: Cùng với lực lượng lao động tại chỗ, hàng năm số lao động từ nông thôn ra thành thị, từ các địa phương khác trên cả nước về Bình Dương, Đồng Nai ngày càng tăng, đã tạo nhu cầu về nhà ở rất lớn và là yêu cầu bức xúc đối với tỉnh. Mặc dù thời gian qua, đồng thời với quy hoạch các KCN, tỉnh đã quy hoạch các cụm, khu dân cư như: ở Đồng Nai, có khu tập trung Bắc Sơn 1, Bắc Sơn 2, Khu Tam Phước 1, Khu Tam Phước 2, Khu Phước Thái, Khu Thạnh Phú; khu dân cư thành phố Biên Hòa và Nhơn Trạch. Những cố gắng trên, bước đầu đã giải quyết một phần về nhu cầu nhà ở cho công nhân trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, việc đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân tiến độ thực hiện còn chậm, chiếm tỷ lệ thấp, chưa đáp ứng với nhu cầu ăn ở cho công nhân. Những khu nhà ở tương đối tốt, giá trị thuê lại cao so với thu nhập của công nhân; những khu nhà tự phát trong dân thì không đảm bảo được vệ sinh môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe lâu dài của người lao động. Hầu hết các khu, các cụm công nhân chưa có khu vui chơi, giải trí, dịch vụ,... phục vụ cho người lao động. Điều kiện làm việc: Nói chung điều kiện làm việc cho công nhân chưa được đảm bảo. Đặc biệt là chỗ làm việc, các trang thiết bị như quạt thông gió, quạt mát, chóng nóng chưa đáp ứng đầy đủ ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe công nhân. Thời gian làm việc, nghỉ ngơi: Nhìn chung, các doanh nghiệp áp dụng thời giờ làm việc, thời gian nghỉ ngơi theo Bộ Luật lao động. Song, do lao động trong các KCN chủ yếu là người ngoại tỉnh, điều kiện vui chơi hạn chế, họ thích làm tăng ca, song
  20. nhiều khi tăng ca nhiều quá mà vẫn chấp nhận mức lương thấp, một bộ phận nhỏ phản ứng, dẫn đến tranh chấp tự phát và đình công. Đình công ảnh hưởng đến doanh nghiệp, song cũng ảnh hưởng rất lớn đến đời sống người công nhân. Tiền lương, tiền công, tiền thưởng: Tiền lương bình quân của người lao động trong các doanh nghiệp có VĐTNN là 1,2 triệu/đ/tháng. Tuy nhiên, còn nhiều doanh nghiệp trả lương cho công nhân trong thời gian thử việc thấp hơn mức lương tối thiểu. Các doanh nghiệp thực hiện trả lương thời gian theo sự thỏa thuận với người lao động, một số doanh nghiệp thực hiện trả lương theo sản phẩm nhưng cũng còn tình trạng định mức lao động xây dựng theo công suất máy móc thiết bị hoặc lấy khối lượng sản phẩm của người có tay nghề để quy định mức chung. Do đó, người lao động không có tay nghề và tính chuyên cần thì rất khó khăn hoàn thành được mức theo thời gian quy định. Nói chung, để hoàn thành được định mức người lao động phải làm việc với cường độ cao, thời gian lao động kéo dài. Một số doanh nghiệp đã tách tiền lương ra làm hai phần, lương cơ bản và phụ cấp để né tránh đóng bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế. Một số doanh nghiệp kéo dài thời gian thử việc 2-3 tháng và trả lương thấp. Mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động: các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, mối quan hệ này cơ bản đảm bảo tốt. Tuy nhiên, cá biệt còn một số doanh nghiệp vẫn xảy ra tình trạng va chạm, xô xát thậm chí vi phạm nhân phẩm của người lao động. Nguyên nhân chủ yếu một mặt là số nhà đầu tư cố tình vi phạm pháp luật, mặt khác người sử dụng lao động và người lao động ở nhiều nguồn, nhiều địa phương, nhiều quốc gia trình độ văn hóa, nhận thức pháp luật, phong cách sinh hoạt, phong tục tập quán khác nhau nên xảy ra những bất đồng. Nhìn chung, mức sống và đời sống văn hóa tinh thần của CNLĐ còn thấp, còn rất nhiều khó khăn so với yêu cầu, có nhiều bức xúc mà họ phải chấp nhận (dẫu sao mức lao động công nghiệp vẫn cao hơn lao động nông nghiệp). Song, trong thực tế thì những phản ứng, những tranh chấp, những cuộc lãn công, đình công vẫn thường xuyên xảy ra ở các KCN, đặc biệt là trong các DNCVĐTNN mà nhiều hơn cả là các doanh nghiệp thuộc các nước như Đài Loan, Hàn Quốc.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2