LUẬN VĂN: Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ 1997 đến 2004
lượt xem 26
download
Tháng 12 năm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới, mở ra bước ngoặt quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ đó đến nay Đảng Cộng sản Việt Nam luôn không ngừng bổ sung, phát triển và từng bước hoàn thiện đường lối đổi mới. Công cuộc đổi mới là một cuộc cách mạng mới mẻ, mỗi bước đi là một sự tìm kiếm và khám phá, đổi mới là phù hợp với xu thế...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ 1997 đến 2004
- LUẬN VĂN: Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ 1997 đến 2004
- Mở Đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Tháng 12 năm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới, mở ra bước ngoặt quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ đó đến nay Đảng Cộng sản Việt Nam luôn không ngừng bổ sung, phát triển và từng bước hoàn thiện đường lối đổi mới. Công cuộc đổi mới là một cuộc cách mạng mới mẻ, mỗi bước đi là một sự tìm kiếm và khám phá, đổi mới là phù hợp với xu thế của thời đại và yêu cầu tất yếu của đất nước, đáp ứng đúng nguyện vọng của nhân dân. Trong bối cảnh hiện nay, cuộc cách mạng KH-CN, kinh tế tri thức, xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, tác động đến mọi dân tộc, quốc gia. ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đang lãnh đạo đất nước thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó khẳng định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm. Coi CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn là nhiệm vụ hàng đầu, và chỉ rõ trọng điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH là vấn đề cốt lõi, là quy luật phát triển của nền kinh tế nước ta trong thời đổi mới, nhằm tiến kịp các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Nền nông nghiệp Việt Nam trong những năm đổi mới từ năm 1986 đến nay đã từng bước chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông nghiệp, tạo ra bước phát triển có tính đột phá trên lĩnh vực sản xuất hàng hóa, tác động mạnh đến phát triển công nghiệp, các ngành dịch vụ, các lĩnh vực chính trị - xã hội khác. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đúng hướng đã góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội, tạo tiền đề bước sang thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH là yêu cầu không thể thiếu, tạo ra sự ổn định trong đời sống chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng của đất nước. Hải Dương là một tỉnh có tiềm năng to lớn về tài nguyên thiên nhiên, đất đai và du lịch. Đồng thời, đây còn là mảnh đất "Địa linh nhân kiệt", có nhiều di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng như: Côn Sơn - Kiếp Bạc, làng nghề truyền thống với những đặc sản nổi tiếng như bánh đậu xanh ở thành phố Hải Dương, vải thiều Thanh Hà, gốm Cậy -
- Bình Giang, gốm Chu Đậu - Nam sách, .... Hải Dương còn nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc và tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Trong sự nghiệp đổi mới, đặc biệt từ khi tái lập tỉnh (tháng 1/1997) đến nay, Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã có quan điểm mới đúng đắn, với tư duy kinh tế năng động, nhằm phát huy tiềm năng, thế mạnh và truyền thống vẻ vang của quê hương, thu hút mạnh nguồn vốn từ trong và ngoài nước, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương theo hướng CNH, HĐH. Hải Dương đang được biết đến như một vùng kinh tế khởi sắc và hứa hẹn phát triển mạnh mẽ trong tương lai không xa. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là kinh tế nông nghiệp vẫn chưa phát huy hết tiềm năng to lớn đang còn những hạn chế và phải đối mặt với nhiều vấn đề mới nảy sinh, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH của tỉnh. Nhằm đánh giá đúng thực trạng và tìm ra những nguyên nhân của mặt mạnh, mặt tồn tại để từ đó đưa ra những giải pháp thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH ở một địa phương. Do đó tác giả đã chọn đề tài: "Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ 1997 đến 2004" làm luận văn thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta. Tiêu biểu là một số công trình sau: - GS. Đỗ Đình Giao (1994), "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. - TS. Đặng Văn Thắng, TS. Phạm Ngọc Dũng (2003), "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế công, nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng thực trạng và triển vọng", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Nguyễn Sinh Cúc (2003), "Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới", Nxb Thống kê, Hà Nội. - PGS. TS Vũ Năng Dũng (chủ biên) (2001), "Nông nghiệp Việt Nam 61 tỉnh và thành phố", Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. - Chu Hữu Quý, Nguyễn Kế Tuấn (đồng chủ biên) (2002), "Con đường công nghiệp hoá, hiện hoá nông nghiệp và nông thôn", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp. Nhưng chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu quá trình lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ tỉnh Hải Dương theo hướng CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích + Góp phần làm rõ đường lối, quan điểm của Đảng về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH và quá trình Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn tỉnh. + Khẳng định những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình thực hiện. Từ đó, rút ra một số kinh nghiệm, nhằm phát huy tốt hơn nữa việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hải Dương trong sự nghiệp CNH, HĐH. + Cung cấp thêm căn cứ khoa học làm cơ sở cho việc đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh. - Nhiệm vụ + Trình bày hệ thống quá trình Đảng bộ tỉnh Hải Dương vận dụng quan điểm, đường lối của Đảng lãnh đạo về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp từ 1997 đến 2004 theo hướng CNH, HĐH. + Làm rõ những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân, kết quả của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp từ 1997 đến 2004 theo hướng CNH, HĐH. + Bước đầu rút ra một số kinh nghiệm, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo đường lối của Đảng trong những năm tiếp theo. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu sự lãnh dạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn tỉnh từ 1997 đến 2004. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận nghiên cứu Luận văn trình bày dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời có sử dụng kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa học đã được công bố liên quan đến đề tài. - Phương pháp nghiên cứu
- + Dựa trên cơ sở phương pháp luận sử học mácxít. Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lô gíc, phương pháp phân tích và tổng hợp. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, điều tra xã hội học... để trình bày làm rõ nội dung. + Nguồn tư liệu, luận văn chủ yếu dựa vào các văn kiện, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hải Dương và các báo cáo hàng quý, hàng năm của các Sở, ban, ngành, đặc biệt là của Sở Nông nghiệp và Cục Thống kê tỉnh Hải Dương. 6. Đóng góp mới về khoa học của đề tài - Trình bày một cách tương đối hệ thống và toàn diện quá trình Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH từ 1997 đến 2004. - Chỉ rõ thành tựu, hạn chế của quá trình đó, bước đầu rút ra một số kinh nghiệm từ thực tiễn lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương. - Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các ngành có liên quan, góp phần tổng kết thực tiễn gần 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trên một địa bàn cụ thể, trong một lĩnh vực nhất định. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.
- Chương 1 ĐảNG Bộ TỉNH HảI DƯƠNG LãNH ĐạO THựC HIệN CHUYểN DịCH CƠ CấU KINH Tế NÔNG NGHIệP THEO HƯớNG CÔNG NGHIệP HOá, HIệN ĐạI HOá Từ 1997 ĐếN 2000 1.1. Một số đặc điểm cơ bản và thực trạng cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương trước năm 1997 1.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội 1.1.1.1. Vị trí địa lý - kinh tế của tỉnh Hải Dương là tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ. Từ ngàn xưa nơi đây đã là lá chắn cửa ngõ phía Đông của kinh thành Thăng Long. Trải qua bao biến thiên của lịch sử, đất và người Hải Dương luôn kiên cường trong đấu tranh, cần cù và sáng tạo trong lao động, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam. Hải Dương tiếp giáp với 6 tỉnh: Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh, Thái Bình, Hưng Yên và Hải Phòng. Trên địa bàn, nhiều trục giao thông quốc gia quan trọng chạy qua, với chất lượng đường tốt như đường 5, đường 18, đường 183... thuận lợi cho việc giao lưu, trao đổi với bên ngoài. Thành phố Hải Dương, trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, KH-KT của tỉnh nằm trên trục quốc lộ số 5, cách Hải Phòng 45 km về phía Đông và cách Thủ đô Hà Nội 57 km về phía Tây. Phía Bắc của tỉnh có hơn 20km quốc lộ số 18 chạy qua nối sân bay quốc tế Nội Bài ra biển qua cảng Cái Lân (Quảnh Ninh). Đường sắt Hà Nội-Hải Phòng, Kép-Bãi Cháy đi qua Hải Dương là cầu nối giữa Thủ đô và các tỉnh phía Bắc ra các cảng biển. Là một trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, nằm ở vị trí có nhiều hướng tác động mang tính liên vùng, Hải Dương có vai trò quan trọng làm cầu nối Thủ đô Hà Nội với thành phố cảng Hải Phòng, thành phố du lịch Hạ Long; cung cấp sản phẩm hàng hóa quan trọng và là địa bàn tham gia quá trình trung chuyển hàng hóa giữa hệ thống cảng biển và các thành phố, các tỉnh trong vùng và cả nước, do vậy, vừa có cơ hội đóng vai trò là một trong những động lực phát triển, vừa phải đối mặt với các thách thức trong cạnh tranh khai thác và phát triển các ngành hàng có cùng lợi thế. Trong triển vọng, Hải Dương sẽ phải trở thành trọng điểm thu hút đầu tư phát triển công nghiệp, dịch vụ, thương mại, giải quyết việc làm để giảm áp lực cho các thành phố lớn và trở thành một trong các đô thị lớn trong vùng. Theo kết quả điều tra của Vụ Kinh tế địa phương, Bộ Kế hoạch và đầu tư về một số chỉ tiêu năm 2004 như sau:
- Biểu 1.1: Một số chỉ tiêu so sánh của tỉnh Hải Dương, vùng đồng bằng sông Hồng và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ trong mối quan hệ với cả nước (cả nước =100%) Hải Dương Vùng ĐBSH Vùng KTTĐBB Dân số 2,1 21,9 16,3 GDP, giá HH 1,76 22,5 18,8 GDP/người 85,3 95,9 111,3 Nguồn: Số liệu năm 2004 của Vụ Kinh tế địa phương, Bộ KH&ĐT. Như vậy, với 2,1% dân số, tổng GDP của Hải Dương mới chỉ đạt 1,76% của cả nước, do vậy GDP bình quân đầu người của tỉnh thấp hơn mức trung bình của cả nước. Hải Dương hiện đứng thứ tư trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ cả về tổng GDP và GDP bình quân đầu người. Điều này thể hiện vị thế hiện tại của tỉnh chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu phát triển đối với một tỉnh đang ở vị trí cầu nối đối với các cực phát triển của cả nước. Biểu 1.2: Tổng GDP và GDP bình quân đầu người các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ năm 2004, tính theo giá hiện hành GDP/người Tổng GDP Xếp hạng (triệu Xếp hạng (tỷ đồng) đồng) TP. Hà Nội 50.560 1 16,39 1 TP. Hải Phòng 19.088 2 10,7 2 Hà Tây 11.472 3 5,11 8 Hải Dương 12.116 4 7,15 4 Quảng Ninh 8.764 5 8,18 3 Hưng Yên 7.367 6 6,55 7 Vĩnh Phúc 7.821 7 6,75 5 Bắc Ninh 6.560 8 6,68 6 Nguồn: Số liệu năm 2004 của Vụ Kinh tế địa phương Bộ KH&ĐT. 1.1.1.2. Tiềm năng và khả năng khai thác các nguồn lực tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên vào phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh Địa hình: Do cấu trúc địa hình nghiêng và thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Phía Đông của tỉnh có một số vùng trũng, thường bị ảnh hưởng của thuỷ triều và bị úng ngập vào mùa mưa. Toàn tỉnh Hải Dương được chia ra làm hai vùng chính: vùng đồi núi chiếm khoảng 11% diện tích đất tự nhiên, gồm 13 xã thuộc huyện Chí Linh và 18 xã của huyện Kinh Môn, chủ yếu là đồi, núi thấp phù hợp với xây dựng các cơ sở công nghiệp, du lịch và trồng
- cây ăn quả, cây lấy gỗ và các loại cây công nghiệp. Vùng đồng bằng gồm các huyện, xã còn lại, có độ cao trung bình 3-4m, đất đai bằng phẳng màu mỡ phù hợp với việc trồng cây lương thực, cây thực phẩm và cây công nghiệp ngắn ngày. Với địa hình này, Hải Dương có khả năng phát triển mạnh và đa dạng các ngành sản xuất, nhất là sản phẩm nông, lâm nghiệp. Khí hậu: Hải Dương nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, được chia thành 4 mùa rõ rệt. Nhiệt độ trung bình hằng năm là 23oC, thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng. Lượng mưa trung bình hằng năm 1.500-1.700 mm, phân bố không đều, tập trung vào tháng 6, 7, 8, dễ gây úng lụt, ảnh hưởng không tốt đến sản xuất và dân sinh. Độ ẩm không khí trung bình cao từ 78-87%, tháng 3- 4 với độ ẩm trung bình từ 90- 92%. Nhìn chung, điều kiện khí hậu của tỉnh thuận lợi cho sự phát triển hệ sinh thái động thực vật cũng như các hoạt động sản xuất, dịch vụ và du lịch. Đặc biệt, điều kiện khí hậu vào mùa đông rất thuận lợi cho việc phát triển cây rau, màu, thực phẩm, nhất là khả năng trồng rau xuất khẩu. Tài nguyên đất: Năm 2004, diện tích tự nhiên của tỉnh là 164.837ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 63,3%; đất lâm nghiệp chiếm 6,08%, đất canh tác 46,2%; đất ở 6,87%; đất chưa sử dụng 7,47%. Đất đồng bằng chiếm khoảng 89% diện tích đất tự nhiên, chủ yếu là đất phù sa sông Thái Bình, thuận tiện cho việc thâm canh và sản xuất nhiều loại cây trồng cho năng suất cao. Trên một số diện tích đất canh tác thuộc các huyện Tứ Kỳ, Gia Lộc, Nam Sách, Kinh Môn, Kim Thành... đã trồng luân canh được 3- 4 vụ trong một năm, do vậy, nâng hệ số quay vòng đất của tỉnh từ 2- 4 lần hiện nay lên 2,7 - 2,8 lần trong các năm tới là hướng khai thác có hiệu quả nguồn đất đang sử dụng. Đồi núi chiếm khoảng 11% diện tích tự nhiên, nằm gọn ở phía Đông Bắc thuộc 2 huyện Chí Linh và Kinh Môn. Nhóm đất này nghèo dinh dưỡng, tầng mặt mỏng, nghèo mùn, độ phì thấp, chủ yếu phù hợp trồng các loại cây lấy gỗ, cây ăn quả như vải thiều, dứa, cây công nghiệp như lạc, chè... Tài nguyên nước: Hệ thống sông ngòi khá dầy đặc, bao gồm hệ thống sông Thái Bình, sông Luộc, các sông trục Bắc Hưng Hải và An Kim Hải, có khả năng bồi đắp phù sa đồng ruộng, cung cấp nguồn nước cho nhu cầu sản xuất của các ngành, đồng thời cũng là
- những tuyến giao thông thuỷ, tạo điều kiện cho việc giao lưu hàng hóa trong tỉnh, cũng như giữa Hải Dương với các tỉnh khác trong vùng. Tuy nhiên, sông ngòi nhiều thường gây nên úng lụt, rất khó khăn trong việc phòng chống lụt và ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất, đời sống dân sinh. Nguồn nước ở Hải Dương khá phong phú trong hệ thống sông ngòi lớn nhỏ, hồ, đầm và kênh mương phân bố khắp trên địa bàn. Nguồn nước ngầm: Trữ lượng nước ngầm của Hải Dương khá dồi dào. Lượng nước ngầm tại các giếng khoan đạt từ 30 - 50m3/ngày đêm. Nguồn nước này nằm chủ yếu trong tầng chứa nước lỗ hổng Pleitôxen, hàm lượng CL
- Kinh Môn thuộc vùng núi đá vôi với nhiều hang động kỳ thú. Nơi đây còn lưu lại di tích của loài người thời đại đồ đá mới: Núi An Phụ với đền thờ An Sinh Vương Trần Liễu (thân phụ Anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo) trên đỉnh và tượng đài người Anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo ở chân núi; hang động Kính Chủ và vùng núi đá vôi Dương Nham gắn liền với những trang sử hào hùng chống quân Nguyên của nhân dân ta. Các huyện thuộc vùng đồng bằng cũng có tiềm năng du lịch phong phú nhờ có cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn, làng quê trù phú, mang đậm nét đặc trưng của văn hóa Bắc Bộ: khu miệt vườn vải thiều Thanh Hà nổi tiếng với cây vải tổ; làng Cò (Chi Lăng Nam - Thanh Miện), Văn miếu Mao Điền (huyện Cẩm Giàng), gốm Chu Đậu (huyện Nam Sách)... Trên địa bàn tỉnh có nhiều di tích lịch sử văn hóa cách mạng, các làng nghề, các lễ hội truyền thống, ẩm thực, các giá trị truyền thống và hiện đại khác làm phong phú thêm nguồn tài nguyên du lịch của Hải Dương, tạo tiền đề phát triển ngành du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh trong tương lai. 1.1.1.3. Đặc điểm về dân số, dân cư, nguồn nhân lực và các vấn đề xã hội Dân số toàn tỉnh năm 2004 là 1.698.262 người; tỷ lệ tăng bình quân là 0,53%, mật độ dân số trung bình toàn tỉnh là 1.029 người/km2. Cơ cấu dân số Hải Dương thể hiện dân số trẻ, năm 2004 dân số trong độ tuổi lao động (chiếm 55,23% tổng dân số). Cùng với phát triển kết cấu hạ tầng đô thị, dân số thành thị tăng nhanh: năm 2004 dân số thành thị gần gấp đôi so với năm 1996. Tỷ trọng dân số đô thị trong tổng số dân số cao hơn các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng (trừ Hà Nội, Hải Phòng). Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển, khả năng đô thị hoá, tạo việc làm và tổ chức các hoạt động phi nông nghiệp còn rất chậm. Đặc điểm dân cư và phân bố dân cư: Dân số nông thôn chiếm tỷ trọng cao (86% tổng dân số), chủ yếu làm nông nghiệp, giàu truyền thống yêu n ước, có bề dày văn hóa, khéo tay. Ngoài canh tác lúa nước, dân cư Hải Dương còn nổi tiếng với các nghề truyền thống như kim hoàn, chạm khắc gỗ, chế biến bánh kẹo... Trong bối cảnh phát triển mới, cư dân trong tỉnh vừa cố gắng gìn giữ phát triển các ngành nghề truyền thống, vừa tiếp thu KH-CN hiện đại. Với óc sáng tạo, năng lực cải tiến, đã hình thành thêm những ngành nghề mới, tạo ra cục diện mới trong phân
- công và sắp xếp lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập cho chính mình và toàn cộng đồng. Nguồn lao động dồi dào nhưng phần lớn là lao động phổ thông, tỷ lệ lao động đào tạo thấp (23%), năng suất lao động chưa cao: năm 2004 giá trị bình quân GDP thực tế /một lao động (LĐ) chung toàn nền kinh tế là 12.934.000 đồng/LĐ, (cả nước khoảng 14.300.000 đồng), trong đó nông nghiệp đạt 4.102.000 đồng/LĐ, công nghiệp 39.039.000 đồng/LĐ và dịch vụ đạt 32.320.000 đồng/ LĐ. Như vậy năng suất lao động chung theo sơ bộ tính toán là tương đối thấp so với cả nước. Trong các khối năng suất lao động ngành nông - lâm - thuỷ sản chỉ đạt 38% so với mức trung bình của tỉnh, công nghiệp-xây dựng gấp 3,7 lần và ngành dịch vụ gấp 3 lần. Thời gian sử dụng lao động trong nông nghiệp chiếm 78% (năm 2004). Cơ hội kiếm việc làm có thu nhập cao và điều kiện nâng cao trình độ, kỹ năng làm việc còn nhiều bất cập. Chất lượng lao động nhìn chung còn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển: tỷ lệ được đào tạo thấp, thể lực, trí lực, tính kỷ luật, tác phong còn ảnh hưởng của nền sản xuất nhỏ. Lao động có việc làm và đang làm việc ở các ngành trong nền kinh tế quốc dân tăng khá, song cơ cấu còn bất hợp lý. Số lao động làm việc tại các ngành công nghiệp, dịch vụ chiếm tỷ lệ thấp, trong khi số lao động khu vực nông - lâm - thuỷ sản chiếm tỷ trọng lớn. Sở dĩ có sự bất hợp lý này là do: - Khả năng thu hút lao động nông nghiệp sang các ngành nghề phi nông nghiệp còn nhiều khó khăn, lao động có tay nghề có kỹ năng, được đào tạo trong các lĩnh vực còn quá thấp, đặc biệt là khu vực nông thôn, khiến người lao động không hoặc khó có cơ hội chuyển nghề, tìm việc làm mới hoặc chuyển nghề và phải chấp nhận các công việc lao động giản đơn, truyền thống dựa hẳn vào đồng ruộng theo kiểu cha truyền con nối. Theo điều tra năm 2003, lao động có trình độ từ sơ cấp đến công nhân kỹ thuật có bằng trở lên chiếm 24,5%. Số lao động hàng năm tăng lên nhanh trung bình khoảng 6.000 người/năm. Nếu cộng cả số lao động còn dôi dư và thiếu việc làm, thì vấn đề giải quyết việc làm đặt ra là một bài toán rất khó khăn của địa phương. Trong khi đó các ngành công nghiệp thiên về các công nghệ hiện đại sử dụng nhiều vốn.
- Việc cải thiện bất hợp lý trong chuyển dịch cơ cấu lao động là rất khó khăn vì trong nền kinh tế thị trường luôn diễn ra cạnh tranh gay gắt. Mặt khác, trong tiến trình CNH, HĐH, nhu cầu nâng cao năng suất lao động dẫn dến việc đào thải lực lượng lao động không có kỹ năng và chất lượng thấp, tạo ra thất nghiệp, trong khi khả năng đào tạo và đào tạo lại kỹ năng cho hàng loạt lao động hiện tại đang còn gặp nhiều khó khăn. Biểu 1.3: Cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực (%) Cả Hải So với ĐBSH nước Dương cả nước - Cơ cấu lao động: Nông - lâm nghiệp 58,35 53,56 68,85 10,05 Công nghiệp, xây dựng 16,96 22,21 16,5 - 0,96 Dịch vụ 24,96 24,23 14,6 - 10 - Trình độ học vấn: Mù chữ 4,2 0,275 3,93 Chưa tốt nghiệp tiểu học 15 3,3 11,7 Tốt nghiệp THCS 18,37 20 2,63 Tốt nghiệp trung học 61,9 76,37 14,47 - Lao động qua đào tạo Không có chuyên môn kỹ thuật 78,85 75,5 3,35 Từ sơ cấp, học nghề 9,05 7,05 -2 Từ bằng trung cấp, cao đẳng trở lên 11,83 17,45 5,62 Nguồn: Điều tra nguồn nhân lực năm 2003 của Tổng cục Thống kê. Trên đây là một số đặc điểm cơ bản về tự nhiên - kinh tế - xã hội của tỉnh Hải Dương, những đặc điểm đó có tác động rất lớn, là cơ sở để Đảng bộ tỉnh hoạch định chủ trương, chính sách đúng đắn trong quá trình lãnh đạo chuyển dịch kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng theo hướng CNH, HĐH. 1.1.2. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương trước năm 1997 Đây là thời kỳ Hải Dương nằm trong tỉnh Hải Hưng. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ VII (tháng 5/1996) đã đánh giá những thành tựu kinh tế nổi bật trong 5 năm 1991 - 1995 của Hải Hưng là: đã thoát ra khỏi suy thoái, tuy còn một số mặt chưa vững chắc. Các chương trình kinh tế - xã hội triển khai sớm và thực hiện có hiệu quả. Tổng sản phẩm trong tỉnh GDP tăng bình quân 9,3%. Tổng kim ngạch xuất
- khẩu đạt 94,78 triệu đô la. Năm 1995 thu nhập bình quân đầu người 256 đô la. Cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH, tỷ trọng nông nghiệp-công nghiệp, xây dựng-dịch vụ đạt 45% - 25% - 30%. Trong đó nông nghiệp Hải Hưng có tốc độ tăng 7,43%. Sản lượng lương thực bình quân 1,1 triệu tấn/năm; riêng năm 1995 đạt 1,3 triệu tấn, năng suất lúa đạt 103 tạ/ha, lương thực bình quân đầu người là 485kg/năm. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp đã đa dạng và phong phú, giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích đạt 26 triệu đồng/ha. Tỷ trọng nông nghiệp-lâm nghiệp-thuỷ sản là 48%-24%-28%, tính đến năm 1996 bình quân quỹ đất nông nghiệp/khẩu nông nghiệp là 742m2, trong đó đất canh tác là 596m2/người (khoảng 1,6 sào Bắc Bộ). Quỹ đất có khả năng mở rộng sản xuất nông nghiệp còn không đáng kể. Đây là một đặc trưng nổi bật nhất của một tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Hướng chính để mở rộng sản xuất nông nghiệp của Hải Dương là đi sâu vào thâm canh, tăng vụ và tăng chất lượng sản phẩm nông nghiệp. Trong nhiều năm qua sản xuất nông nghiệp đã giải quyết đủ nhu cầu lương thực, thực phẩm cho dân cư tại địa phương và có một khối lượng nông sản dư thừa khá lớn. Nhưng việc tiêu thụ lượng nông sản này đang gặp khó khăn do nhiều nguyên nhân như: - Do chất lượng nông sản thấp; chưa tạo được các vùng chuyên canh, tập trung để đáp ứng cho công nghiệp chế biến. - Quy mô ruộng đất nhỏ, manh mún, do vậy khi tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. - Do nhận thức của nhà nông còn hạn chế để phòng ngừa rủi ro và bảo đảm tự túc lương thực, thực phẩm cho nên họ đã lựa chọn mô hình đa dạng hoá sản xuất. - Chưa có vùng nguyên liệu đủ tiêu chuẩn dẫn đến chưa có một mạng lưới chế biến nông sản có công nghệ tiên tiến, hiện đại, đủ sức cạnh tranh với thị trường khu vực và thế giới. Từ khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (tháng 8 năm 1988) về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, giao quyền tự chủ sản xuất cho hộ nông dân, cho lưu thông lương thực, giải phóng sức sản xuất, giải quyết thoả đáng các mối quan hệ sản xuất và lợi ích của nông dân, nông nghiệp cả nước nói chung và tỉnh Hải Dương nói riêng đã có bước phát triển to lớn, bộ mặt nông nghiệp có nhiều thay đổi. Đặc biệt với đường lối Đại hội VII (1991), cơ chế thị trường đã được khẳng định và đi vào cuộc sống, nhất là sau Nghị quyết Trung ương 5 khoá VII (6/1993) "Về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế-xã hội
- nông thôn" và Luật Đất đai năm 1993 thì xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngày càng được mở rộng rất đa dạng, phong phú. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương cũng chuyển dịch từ độc canh lương thực sang nền nông nghiệp hàng hóa đa canh phù hợp với đặc điểm từng vùng. Đối với vùng ven đô, ven thị: Từ ngày hộ nông dân được xác định là đơn vị kinh tế tự chủ, được giao quyền sử dụng lâu dài, họ đã thực sự yên tâm, phấn khởi sản xuất, tìm tòi và áp dụng nhiều biện pháp thâm canh mới, điều kiện thời tiết lại tương đối thuận lợi, do đó Hải Dương được mùa liên tiếp, lương thực vượt "cửa ải" 1 triệu tấn, năm 1993 đạt 1,25 triệu tấn và năm 1995 đạt 1,31 triệu tấn, giải quyết được vấn đề lương thực, người nông dân không còn lo nghĩ thiếu đói, họ nghĩ ngay đến việc sản xuất lương thực hàng hóa cung cấp cho thị trường. Xu hướng là thu hẹp diện tích gieo trồng lương thực chuyển sang cơ cấu mới: Cây ăn quả, cây dược liệu, cây cảnh... và chăn nuôi như nuôi lợn, gà công nghiệp... Đối với thuỷ sản phát triển nuôi cá, ba ba... Điển hình của loại hình này là xã Mễ Sở (Châu Giang) bình quân ruộng đất chỉ đạt 396m2/người, năm 1989 tổng diện tích trần lúa là 194 ha nhưng đến năm 1993 chỉ còn 12 ha trồng lúa, 72 ha ngô, còn đại bộ phận diện tích đất trồng lúa đã chuyển đổi sang trồng hoa và cây cảnh. Với cách làm trên, xã Mễ Sở đã tạo ra bước phát triển mới đưa giá trị thu nhập trên 1 ha đất từ 5-7 triệu đồng/năm lên đến 30-50 triệu đồng/năm, từ chỗ thừa lao động đến thiếu lao động và sử dụng lao động nơi khác đến, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng nâng cao. Đối với vùng đất trũng: với cơ cấu 2 vụ lúa bấp bênh, năng suất thấp, được nông dân đầu tư công sức cải tạo đất, đào ao, lập vườn hình thành cơ cấu mới: vải thiều-chuối- nuôi cá-nuôi ong. Chuyển dịch cơ cấu theo hướng này được mở rộng ở các huyện Cẩm Bình, Nam Thanh, Tứ Lộc... Việc chuyển dịch cơ cấu theo hướng mới có tác dụng hình thành một mô hình canh tác nông nghiệp mới, hạn chế yếu tố bất lợi, khai thác lợi thế, nâng cao hiệu quả kinh tế. Đặc biệt sự chuyển dịch hệ thống cây trồng đối với vùng đất trũng tại xã Thanh Thuỷ-Nam Thanh đã đạt hiệu quả kinh tế cao, tính đến cuối năm 1993 toàn bộ đất vườn của xã là 56,6 ha giữa các hộ, có hộ có tới 7-9 sào vườn, nhưng có hộ lại không có, vùng đất này có thể trồng nhiều loại cây như cam, quất, táo, hồng xiêm, chanh. Nhưng thời kỳ này cây vải thiều chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, cây vải thiều có ở vùng đất
- này từ lâu. Do trước đây thiếu lương thực và việc giao lưu nông sản phẩm gặp khó khăn nên nông dân đã phá một số vườn vải thiều để cấy lúa, đặc biệt thời tiết vụ đông xuân trời âm u, mưa phùn nhiều, cây vải thiều rụng hoa nhiều mà đậu ít. Nông dân cho rằng "Trời sinh, trời dưỡng" chủ yếu tập trung vào trồng ra hạt lúa, củ khoai, nên một thời gian dài cây vải thiều đã bị bỏ quên. Do chủ trương đổi mới đúng đắn, một cơ chế đúng đã thức dậy bao tiềm năng. Hàng hoá nông sản được giao lưu tự do, đặc biệt là áp dụng KH-KT vào thâm canh vườn, phun thuốc đậu quả cho cây nên vải thiều đã thực sự thành cây trồng đặc sản trong vườn mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nông dân Thanh Thuỷ. Vải thiều có thể dùng ăn tươi hoặc sấy khô, 1 kg vải thiều lúc thu hoạch rộ là 6.000-7.000 đồng. Lúc cuối vụ tới 25.000 đến 30.000 đồng, nếu được sấy khô thì càng có giá trị cao hơn. Bằng kết quả thực tế: 1 sào vải thiều lúc khép tán sau 15 năm trồng có 5 đến 6 cây. Chỉ tính là 2 năm được mùa 1 lần do hiện tượng "1 năm ăn quả, 1 năm trả cành" thì 1 cây cho thu hoạch từ 500.000 đồng đến 1 triệu đồng. Như vậy 1 sào vải sẽ cho thu nhập gấp nhiều lần cấy lúa. Nông dân lập vườn bằng cách đào đất hai bên đắp vào giữa thành luống, bề mặt luống rộng khoảng 3 mét và cao hơn mặt ruộng khoảng 0,5 đến 0,7 mét. Mối sào (360m2) thì trồng từ 5-6 cây. Xen kẽ giữa các luống là những rãnh sâu thành ao để thá cá. Cây vải được trồng vào giữa luống. Lúc cây vải chưa khép tán, trồng xen các cây như: quất, chuối, cam... Với phương châm lấy ngắn nuôi dài, dưới rãnh sẽ thả cá. Đây là mô hình có sức thu hút lới với đa số nông dân ở Thanh Thuỷ nói riêng và Nam Thanh nói chung. Theo tính toán của người dân có kinh nghiệm cho biết: Đầu tư vốn cố định (Thời giá năm 1993) Lập vồng: 600.000 đồng/sào. Giống cây vải: 50.000 đồng/sào. 650.000 đồng/sào. Tổng chi: Đầu tư vốn lưu động trong ba năm đầu. Cá giống: 45.000đ x 3 năm = 135.000đ/3 năm. Chi khác cho nuôi cá: 10.000đ x 3 năm = 30.000đ/3 năm. Phân bón cho cây vải: 20.000đ x 3 năm = 60.000đ/3 năm. Trồng xen: 18.000đ x 3 năm = 54.000đ/3 năm. Tổng chi: 279.000đ
- Đầu tư vốn lưu động trong 7 năm tiếp theo Chi nuôi cá: 55.000đ x 7 = 385.000đ. Chi phân bón cây vải: 20.000 x7 = 140.000đ. Tổng chi: 525.000đ - Chi giao nộp trong 10 năm - Thuế: 20 kg thóc x 1.100đ/kg = 220.000. Tổng chi 10 năm: 650.000đ + 279.000đ + 525.000đ + 220.000đ = 1.674.000đ. Bình quân 1 năm là 167.400đ. Thu: Quả vải: 5 cây x 40kg x 5.000đ x 7 năm = 7.000.000đ. Thu trồng xen 3 năm đầu: = 420.000đ. Thu về cá: 50kg x 5.000đ x 10 năm = 2.500.000đ. Tổng thu 10 năm: = 9.920.000đ Tổng thu 1 năm = 992.000đ. Kết quả: Lãi 1 năm 992.000-167.400 = 824.600đ/năm. 1 đồng vốn bỏ ra 1 năm thu được 6 đồng. So với trồng lúa thì 1 sào vải thiều thu gấp 6,3 lần so với 1 sào lúa. Như vậy, hướng chuyển đổi từ ruộng trũng cấy lúa bấp bênh năng suất thấp sang thành vườn cây đặc sản và ao cá thực sự có hiệu quả, đồng thời tạo môi trường sinh thái tốt. Tuy nhiên, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của từng hộ mà tính toán cho phù hợp hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng tạo ra bước ổn định và vững chắc, đồng thời phải phù hợp với chủ trương an toàn lương thực quốc gia. Đối với vùng đất trồng lúa: Xu hướng diễn ra theo nhu cầu thị trường, bố trí lại cơ cấu giống lúa, chọn giống có chất lượng, năng suất cao và được thị trường chấp nhận, một số huyện đã cấy lúa nếp hoa vàng, tám thơm... bán ra thị trường với giá từ 5.000-7.000 đồng/1kg gạo, cao gấp hai lần giá gạo thường như huyện Kinh Môn, Cẩm Giàng.... Nhiều nơi nông dân đã thay đổi hình thức luân canh trên một đơn vị diện tích để tìm kiếm lợi nhuận, trước kia đầu tư luân canh hai vụ lúa chỉ cho giá trị từ 12 - 15 triệu đồng/ha. Cho nên một số hộ nông dân ở xã Toàn Thắng (Gia Lộc) với công thức lúa + đậu tương + 2 vụ
- bắp cải cho giá trị 55-57 triệu đồng/ha, xã Thạch Khôi (Gia Lộc) với cách chuyển đổi 3 vụ rau giống + 2 vụ bắp cải + 1 vụ lúa xuân cho giá trị 100-105 triệu đồng/ha. Về thuỷ sản: Hầu hết diện tích mặt nước trước đây nuôi cá quảng canh, thả rau bèo hoặc bỏ hoang đã được các hộ thuê và đầu tư nuôi cá hoặc một số ruộng quá trũng, trồng lúa thu hoạch bấp bênh, lỗ vốn, các địa phương đã cho thuê cải tạo thành ao thả cá, trên bờ trồng cây ăn quả: chuối, chanh, vải, cam... đã cho thu nhập từ 20 - 40 triệu đồng/ha, cao gấp nhiều lần trồng lúa. Chuyển dịch cơ cấu chăn nuôi: Thực tiễn ở Hải Dương cho thấy được mùa lương thực thì cũng kéo theo chăn nuôi cũng phát triển, đàn lợn, trâu, bò, gia cầm đều tăng. Chuyển dịch cơ cấu trong chăn nuôi trước hết là cải tạo và thay đổi giống, thay giống đực ngoại, nuôi lợn thịt ngoại tăng, tỷ lệ trong lợn lai nhằm tăng trọng và tăng tỷ lệ nạc, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, phát triển đàn bò lai... Cùng với việc cải tiến cơ cấu và khẩu phần thức ăn chăn nuôi, phương pháp chăn nuôi cũng thay đổi, nuôi lợn theo phương pháp ủ men, mỗi hộ có thể nuôi hàng chục lợn thịt mỗi lứa và hàng nghìn con gà công nghiệp... Nhưng giá thành các sản phẩm chăn nuôi còn cao, do năng suất con giống thấp, giá thành thức ăn gia súc cao và chưa tổ chức được vùng chăn nuôi hàng hóa tập trung. Về lâm nghiệp: Kinh tế đồi rừng được khuyến khích phát triển, thực hiện chương trình 327 của Chính phủ đến cuối năm 1996 trồng mới hơn 4.000 ha rừng, 2.000 ha vườn đồi chủ yếu là trồng vải thiều. Đánh giá chung: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hải Dương trước 1997 tuy diễn ra sôi động, đa dạng, bước đầu đạt một số kết quả, nhưng chưa đều. Vai trò lãnh đạo của cấp uỷ cơ sở nói chung còn yếu nên phong trào có phần mang tính tự phát, rập khuôn và chứa nhiều yếu tố rủi ro. Sản xuất phân tán, manh mún, trình độ công nghệ trong nông-lâm-thuỷ sản lạc hậu, khả năng cạnh tranh nông sản thấp, giá thành cao. Cơ sở hạ tầng nông thôn còn yếu kém và chưa đáp ứng được yêu cầu của một nền nông nghiệp hàng hóa sản xuất lớn. Quan hệ sản xuất ở nông thôn chậm đổi mới, còn nhiều lúng túng dẫn đến trì trệ, hiệu quả hoạt động của các tổ chức kinh tế thấp.
- Quản lý Nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp còn có những yếu kém. 1.2. Đảng bộ tỉnh Hải Dương thực hiện chủ trương của Đảng về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở địa phương 1.2.1. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thứ nhất: Những quan điểm của Đảng về phát triển nông nghiệp trước Đại hội Đảng lần thứ VI Ngay từ những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện thực tế của nước ta về CNXH và con đường tiến lên CNXH. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Đặc điểm lớn nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Sau này các đại hội của Đảng đã khẳng định và từng bước làm rõ thêm đặc điểm to lớn đó, lấy đó làm cơ sở để định ra đường lối chiến lược, trong đó có đường lối kinh tế cho cách mạng Việt Nam. Tháng 9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III sau khi phân tích tình hình trong nước và thế giới, đã đề ra hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là: Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả n ước. Trong đó chỉ rõ, tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Đại hội III đã xác định: Công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc phải là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt nhằm đưa miền Bắc từ nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất sang nền kinh tế dựa trên sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất, từ chế độ sản xuất nhỏ tiến lên chế độ sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, từ tình trạng kinh tế rời rạc và lạc hậu, xây dựng thành một nền kinh tế cân đối và hiện đại, làm cho miền Bắc tiến bộ mau chóng, thành cơ sở ngày càng vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. ở nước ta Hồ Chủ tịch xác định: "Vì nước ta là một nước nông nghiệp, mọi việc đều dựa vào nông nghiệp", cho nên "Các cơ quan Nhà nước phải quan tâm hơn nữa đến
- nông nghiệp, phát huy nhiều hơn nữa tác dụng của ngành mình trong sản xuất nông nghiệp" [34, tr.415]. Đại hội đã nhấn mạnh một số quan điểm cơ bản như: Kết hợp cải tạo với xây dựng, coi cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội là hai mặt của công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong đó lấy cải tạo nông nghiệp làm khâu chính của công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Hội nghị Trung ương 5 khoá III năm 1961 đã ra Nghị quyết về vấn đề phát triển nông nghiệp, trong đó nêu lên phương án cải tiến công cụ và cơ giới hoá nông nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965). Sau này các Hội nghị Trung ương Đảng tiếp tục bổ sung và phát triển chủ trương, nhằm đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp. Trong giai đoạn này Đảng và Nhà nước đã đầu tư hàng nghìn máy kéo lớn nhỏ, hàng vạn động cơ điện, động cơ nổ, hàng triệu công cụ cải tiến phục vụ cho nông nghiệp, tạo ra năng suất chất lượng cao, do đó từng bước cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, đặc biệt là người nông dân luôn phấn khởi, tin tưởng vào đường lối của Đảng, sản xuất nông nghiệp để đạt được những thành tựu rất đáng tự hào, ngay cả trong điều kiện có chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ ở miền Bắc. Năm 1975 miền Nam nước ta được hoàn toàn giải phóng là một bước ngoặt, có ý nghĩa lịch sử trọng đại của cả dân tộc ta, mở ra giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam. Nước ta từ chỗ bị chia cắt và chiến tranh ác liệt, lâu dài chuyển sang gia đoạn mới đó là cả nước độc lập, thống nhất. Tình hình mới của đất nước sau giải phóng đặt ra cho Đảng ta trách nhiệm phải bổ sung và hoàn chỉnh đường lối, nhằm chuyển cuộc cách mạng cả nước, đồng thời xác định nhiệm vụ cụ thể phù hợp với đặc điểm từng miền. Để đáp ứng yêu cầu đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12-1976) đã đề ra đường lối chung và đường lối xây dựng kinh tế trong giai đoạn cách mạng mới ở nước ta. Đặc biệt đại hội đã chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976- 1980) là tập trung lực lượng phát triển nông nghiệp một cách toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc; đồng thời đẩy mạnh lâm nghiệp, ngư nghiệp và công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng... Thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ hai (7/1977). Hội nghị lần thứ hai chủ trương: Tập trung cao độ lực lượng cả nước thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển nông nghiệp.
- Hội nghị vạch rõ: trong những năm trước mắt, phải phát triển vượt bậc sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, giải quyết cho được vấn đề lương thực, thực phẩm, tạo ra những điều kiện vật chất thuận lợi để xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đồng thời cải thiện một bước đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Nhân dân ta bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ hai với những thuận lợi rất cơ bản: lực lượng lao động dồi dào; tiềm lực to lớn của nền kinh tế cả nước đã thống nhất; sự giúp đỡ và hợp tác kinh tế, kỹ thuật của cả nước xã hội chủ nghĩa và các nước dân chủ tiến bộ trên thế giới, sự nhất trí về chính trị, tinh thần và khí thế phấn khởi của toàn dân sau khi đã chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược... Bên cạnh những thuận lợi ấy, đất nước ta còn có rất nhiều khó khăn do hậu quả nặng nề hơn 30 năm chiến tranh khốc liệt của chế độ thực dân cũ và mới để lại, đòi hỏi chúng ta phải khắc phục trong thời gian dài. Trong khi đó, những nhu cầu bức thiết của đời sống nhân dân đặt ra sau chiến tranh phải giải quyết nhanh chóng, phải tổ chức lại nền kinh tế vốn nghèo nàn, lạc hậu, dựa trên sản xuất nhỏ là chủ yếu, tiến lên xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong cả nước, không ngừng cải thiện đời sống nhân dân, vừa phải tích luỹ để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải bảo đảm củng cố nền an ninh quốc phòng. Đặc biệt trong giai đoạn này nước ta luôn phải chống lại với thiên tai khắc nghiệt trong mấy năm liền làm cho sản xuất nông nghiệp bị thất thu lớn, những trận bão lụt liên tiếp xảy ra trên cả hai miền Nam, Bắc trong năm 1978 làm cho sản lượng lương thực thất thu tới 3 triệu tấn, các phương tiện sản xuất bị phá huỷ và hư hỏng nặng. Để khắc phục, nhân dân ta đã nêu cao tinh thần tương thân, tương ái "Nhường cơm sẻ áo" giúp đỡ lẫn nhau, vượt qua khó khăn và thử thách. Nhiều nhân tố mới, tích cực đã xuất hiện trong sản xuất, xây dựng và chiến đấu. Trong ba năm 1976-1978 ngành nông nghiệp đã có thêm gần một triệu héc-ta đất phục hoá và khai hoang. Để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương, chính sách lớn như: đầu tư làm thuỷ lợi, thực hiện cơ giới hoá nông nghiệp... đưa hàng vạn máy kéo lớn nhỏ, hàng chục vạn động cơ nổ các loại vào phục vụ sản xuất... Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong phát triển kinh tế, song nền kinh tế nông nghiệp ở nước ta trong giai đoạn này rất thấp, những năm 1976-1980 sản xuất nông nghiệp tăng 1,9%, trong khi đó dân số mỗi năm tăng gần 1 triệu người, nông nghiệp phát triển chậm không theo kịp sự gia tăng dân
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
LUẬN VĂN:Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận lạnh đạo thực hiện chính sách dân tộc
81 p | 182 | 50
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp từ năm 2001 đến năm 2010
212 p | 240 | 43
-
Luận văn Thạc sỹ: Đảng bộ tỉnh Hà Nam lãnh đạo việc khôi phục và phát triển làng nghề thủ công từ năm 1997 đến năm 2014
131 p | 120 | 21
-
LUẬN VĂN:Đảng bộ tỉnh Hải Dương lónh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế
119 p | 113 | 20
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của đảng bộ tỉnh Hưng Yên từ năm 1997 đến năm 2010
33 p | 120 | 15
-
Luận án tiến sĩ Lịch sử: Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp từ năm 1997 đến năm 2010
176 p | 91 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo phát huy vai trò của phụ nữ từ năm 1997 đến năm 2014
113 p | 36 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo xây dựng nông thôn mới từ năm 2008 đến năm 2014
115 p | 46 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Công tác thanh niên của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang từ năm 1997 đến năm 2013
114 p | 48 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo phong trào thanh niên từ năm 1997 đến năm 2013
145 p | 38 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Đảng bộ tỉnh Phú Yên xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở từ năm 2000 đến 2010
107 p | 29 | 6
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo phát triển nguồn nhân lực từ năm 1997 đến năm 2009
145 p | 42 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Đảng bộ Tỉnh Hà Nam lãnh đạo xây dựng làng văn hóa từ năm 2001 đến năm 2011
132 p | 33 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông thời kỳ 1954 - 1975
147 p | 36 | 5
-
Tóm tắt Luận án tiến sĩ Lịch sử: Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp từ năm 1997 đến năm 2010
27 p | 38 | 4
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Sự ra đời và phát triển Đảng bộ tỉnh Hà Nam từ năm 1930 đến năm 1965
238 p | 41 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Đảng bộ tỉnh Yên Bái lãnh đạo giáo dục trung học phổ thông từ năm 2001 đến 2014
140 p | 26 | 3
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lãnh đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế từ năm 2010 đến năm 2020
240 p | 22 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn