intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn: Đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác ở nước ta hiện nay

Chia sẻ: Nguyen Bao Ngoc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:123

189
lượt xem
59
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Con người được coi là vốn quý của xã hội, là đối tượng hàng đầu được pháp luật nói chung, luật hình sự nói riêng, bảo vệ. Bảo vệ con người trước hết là bảo vệ tính mạng, sức khỏe, bảo vệ nhân phẩm, danh dự của họ, vì đó là những vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với con người. Điều 71 Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn: Đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác ở nước ta hiện nay

  1. Luận văn Đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác ở nước ta hiện nay 1
  2. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Con người đ ược coi là vốn quý của xã hội, là đối tượng hàng đ ầu đ ược pháp luật nói chung, luật hình sự nói riêng, bảo vệ. Bảo vệ con người trước hết là bảo vệ tính mạng, sức khỏe, bảo vệ nhân phẩm, danh dự của họ, vì đó là những vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với con người. Điều 71 Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm”. Trong những năm qua, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã thu được những thành tựu rất quan trọng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam x ã hội chủ nghĩa. Nhà nước Việt Nam khẳng định con người là trung tâm của các chính sách kinh tế – x ã hội, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đều nhằm phấn đấu cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, tất cả vì con người và cho con người. Nhà nước Việt Nam không chỉ khẳng định sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người nói chung, nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng, mà còn làm hết sức m ình để bảo đảm thực hiện trên thực tế. 2
  3. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực và thành tựu đã đạt được, trong thời gian qua, cũng đ ã nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, trong đó có nhiều vấn đề mới phát sinh có liên quan đ ến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tình hình tội phạm còn diễn biến phức tạp trên tất cả các lĩnh vực, trong đó tình hình tội làm nhục người khác, xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người khác đang là vấn đề bức xúc của toàn xã hội, đ ược dư luận rất quan tâm, theo dõi. Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác đã đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc đòi hỏi khoa học luật hình sự phải nghiên cứu, giải quyết như khái niệm, những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội làm nhục người khác, nguyên nhân, điều kiện của tội làm nhục người khác... Về mặt lý luận, xung quan vấn đề đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. V ì vậy, việc nghiên cứu đề tài, “Đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác ở nước ta hiện nay”, mang tính cấp thiết, không những về lý luận, mà còn là đ òi hỏi của thực tiễn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tội làm nhục người khác là tội phạm có tính nhạy cảm cao, phức tạp, đã được một số nhà luật học trong nước quan tâm nghiên cứu. Sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 đ ược ban hành, tội làm nhục người khác được đề cập trong các giáo trình, sách pháp lý, đ ề tài nghiên cứu như Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia H à Nội, H à N ội, 1997; G iáo trình luật hình sự Việt Nam, tập II của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1998; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự của Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1987 (tái bản năm 1992, 1997); đề tài khoa học cấp Bộ “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn phục 3
  4. vụ xây dựng Bộ luật hình sự (sửa đổi)”, mã số 95-98-107/ĐT của Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, nghiệm thu năm 1998… Sau khi Bộ luật hình sự năm 1999 đ ược ban hành, tội làm nhục người khác được đề cập trong công trình: Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người của TS. Trần Văn Luyện, Nxb Chính trị quốc gia, H à Nội, 2000; G iáo trình luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật H à N ội, Nxb Công an nhân dân, H à Nội, 2000; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia H à Nội, Hà Nội, 2002; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (Phần các tội phạm) của TS Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện, LS. Th.S. Phạm Thanh Bình. TS. Nguyễn Đức Mai, Th.S Nguyễn Sĩ Đại, Th.S Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, Phần các tội phạm, tập I (Bình luận chuyên sâu) của Th.S Đinh Văn Quế, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 2002… Các công trình nói trên đã đề cập tội làm nhục người khác dưới góc độ pháp lý hình sự nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách to àn diện và có hệ thống về tội làm nhục người khác dưới hai góc độ: pháp lý hình sự và tội phạm học. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Mục đích của luận văn Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác, đề xuất những giải pháp mang tính hệ thống, đồng bộ để nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm này. Nhiệm vụ của luận văn 4
  5. Đ ể đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đ ã đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau: - Làm sáng tỏ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội làm nhục người khác; phân tích những quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về tội phạm này. - Phân tích và đánh giá đúng thực trạng tình hình tội làm nhục người khác, thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm này; dự báo tình tội làm nhục người khác trong những thời gian tới. - Đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác. Đối tượng nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu tội làm nhục người khác. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu tội làm nhục người khác d ưới góc độ pháp lý hình sự và tội phạm học ở Việt Nam, trong thời gian từ năm 1997 đến năm 2005. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội làm nhục người khác nói riêng. Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tòa án về tội làm nhục người khác; các số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tối cao về tội làm nhục người khác. 5
  6. Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp: lịch sử, lôgíc, hệ thống, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh pháp luật, điều tra xã hội... 5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn Đ ây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về tội làm nhục người khác dưới hai góc độ: pháp lý hình sự và tội phạm học. Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp m ới về khoa học của luận văn: - Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về tội làm nhục người khác; những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội phạm này trong pháp luật hình sự hiện hành. - Phân tích, đánh giá những quy định về tội làm nhục người khác trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới nhằm rút ra những giá trị hợp lý về lập pháp hình sự, để vận dụng có chọn lọc, bổ sung cho những luận cứ và giải pháp được đề xuất trong luận văn. - Đánh giá thực đúng thực trạng tình hình tội làm nhục người khác ở Việt Nam, phân tích, làm rõ nguyên nhân, điều kiện của thực trạng đó. - Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác. 6. Ý nghĩa của luận văn K ết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, 6
  7. chống tội làm nhục người khác ở nước ta. Thông qua công trình nghiên cứu này, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm làm nhục người khác là loại tội phạm có tính nhạy cảm rất cao hiện nay. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự, tội phạm học nói riêng và các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các cơ quan bảo vệ pháp luật... 7. K ết cấu của luận văn Luận văn gồm 114 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, mục. 7
  8. Chương 1 TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC TRONG LU ẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI LƯỢC SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1.1. Tội làm nhục ng ười khác trong thời kỳ phong kiến và Pháp thuộc Tội làm nhục người khác là một trong những tội phạm được đề cập rất sớm trong luật hình sự Việt Nam. Thời kỳ phong kiến, trong Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) là “Bộ luật chính thống và quan trọng nhất của triều đại nhà Lê”, cũng là “Bộ luật xưa nhất còn được lưu giữ đầy đủ ở nước ta” đã đề cập tội làm nhục người khác tại các điều 489, 491 492, 496. Điều 489 quy định: “Học trò mà đ ánh và lăng mạ thầy học, thì xử nặng hơn tội (đánh, lăng mạ) người thường ba bậc; đánh chết thì phải tội chém "[10, tr. 178]. Đây là quy đ ịnh mang tính nhân văn, thể hiện truyền thống “tôn sư trọng đạo” của dân tộc, để cho quy tắc đạo đức “thầy ra thầy, trò ra trò” được thực hiện nghiêm chỉnh. Điều 495 Bộ luật còn quy định: “Lăng mạ vợ của quan tại chức, thì bị tội cùng tiền tạ, đều xử giảm tội lăng mạ người chồng ba bậc; lăng mạ đối với con thì tội lại xử giảm một bậc nữa” [10, tr. 180]. Trong Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long) được biên soạn trong một thời gian dài, đến năm 1811 thì hoàn tất và năm 1812 được khắc in lần đầu ở Trung Quốc, có hiệu lực từ năm 1813 trên phạm vi toàn quốc, tội làm nhục người khác được đề cập tại các điều 293, 294, 295, 296, 297, 298, 299, 300. 8
  9. Điều 293 quy định: “Phàm m ắng người thì bị phạt 10 roi. Cùng mắng nhau, thì mỗi người bị phạt 10 roi” [9, tr. 810]. Đ áng lưu ý, hành vi làm nhục người khác những người thuộc giai cấp bị trị thực hiện, bị trừng phạt rất nặng trong Hoàng Việt luật lệ. Điều đó cho thấy, pháp luật hình sự bao giờ cũng mang tính giai cấp, được sử dụng để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị. Điều 296 Bộ luật quy định: “Phàm nô tì mắng gia trưởng thì bị phạt treo cổ (giam chờ), mắng hàng kỳ thân của gia trưởng và ông bà ngoại của gia trưởng thì bị phạt 80 trượng, đồ hai năm, đại công thì bị phạt 80 trượng, hàng tiểu công thì bị phạt 70 trượng, hàng ti ma thì bị phạt 60 trượng. Nếu kẻ làm công m ắng gia trưởng thì b ị phạt 80 trượng, đồ hai năm. Mắng hàng kỳ thân và ông bà ngoại gia trưởng thì phạt trăm trượng, mắng hàng đại công thì phạt 60 trượng, mắng hàng tiểu công thì phạt 50 roi, mắng hàng ti ma bị phạt 40 roi, bị thưa lên là bị tội. (Đó là nói cho rõ, trong qua lại e có sự nghe lầm, cho nên phải chính người ấy nghe, có thể vì tình mà bỏ qua, hay có ý giấu đi, cho nên phải chính người ấy thưa lên” [9, tr. 812 – 813]. D ưới thời Pháp thuộc, để bảo đảm thực hiện mục tiêu kinh tế thực dân, thu lợi nhuận tối đa, thực dân Pháp thực hành chính sách chuyên chế về chính trị. Chúng dùng lối cai trị trực tiếp, thẳng tay đàn áp, tuyệt đối không cho dân ta b ất cứ quyền tự do, dân chủ nào. Pháp luật nói chung, pháp luật hình sự do thực dân Pháp đặt ra là để bảo vệ chế độ thực dân, phong kiến. Tội làm nhục người khác cũng được đề cập trong pháp luật hình sự thời gian này, nhưng là để bảo vệ nhân phẩm, danh dự của giai cấp thống trị, bóc lột. Trên tinh thần đó, Điều 154 Luật hình An N am quy định: "Trong khi quan lại đương làm chức vụ, người nào lấy văn từ, ngôn ngữ, thư chỉ và làm việc gì hay là dọa điều gì, đ ể cho mất danh dự, thể diện của các viên quan lại ấy, phải phạt giam từ một tháng đến hai năm, và phạt bạc từ hai mươi đồng đến hai trăm đồng" 9
  10. [46, tr. 25]. Tương tự như vậy, Điều 222 Hình luật canh cải quy định: "Người nào xỉ mạ quan bên chánh trị, b ên Tòa hội đồng thẩm án, trong lúc mấy vị ấy làm việc bổn phận hoặc dùng lời nói mà xỉ mạ, hoặc viết chữ hoặc vẽ hình mà không có truyền ra ngoài, trong các cách ấy hoặc nói xấu cho danh giá, cho sự liêm sỉ của các vị ấy, thì phải bị phạt tù từ 15 ngày cho tới 2 năm" [17, tr.54]; Điều 320 Hoàng Việt hình luật quy định: "Dùng lời nói, hoặc giấy má, viết tay hay giấy in, bức vẽ hoặc những phương pháp khác mà lỵ mạ một người viên chức đương khi làm chức vụ hay là nhân khi làm chức vụ, bất kỳ là công việc hay không cũng gọi là lỵ mạ và chiếu theo Điều 145 chương thứ 12 mà nghĩ xử" [18, tr. 445]. 1.1.2. Tội làm nhục người khác trong thời kỳ từ khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công cho đến trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời Sau Cách m ạng Tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - N hà nư ớc công nông đầu tiên ở Đ ông Nam Á ra đời, đã ban hành một loạt các văn bản quy phạm pháp luật hình sự, nhằm bảo vệ chính quyền nhân dân, chống thực dân Pháp, t rừng trị bọn việt gian phản động. Do tình hình kháng chiến diễn ra hết sức khẩn trương, không thể ban hành kịp các văn bản quy phạm pháp luật nói chung, văn bản quy phạm pháp luật hình sự cần thiết nói riêng, ngày 10-10-1945, Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 47-SL cho tạm thời giữ các luật lệ cũ, trong đó có Bộ "Luật hình An Nam", Bộ "Ho àng Việt hình luật" và Bộ "Hình luật pháp tu chính" với điều kiện "không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa" [34, tr. 190]. Trong b ối cảnh n ày, vi ệc đấu tranh chống tội làm nhục người khác chưa đư ợc đặt ra. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và bọn tay 10
  11. sai thống trị. Ở miền Bắc, Đảng ta chủ trương tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nước; ở miền Nam, tiến hành cách mạng dân tộc, dân chủ nhằm giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà. Trong thời kỳ này, đối với việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân phầm, danh dự của con người, pháp luật hình sự chủ yếu đề cập các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe như giết người, gây thương tích, làm chết người trong Thông tư số 442 -TTg ngày19-11-1955 của Thủ tướng Chính phủ, mà chưa có văn bản pháp luật hình sự nào quy định về các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm nói chung, về tội làm nhục người khác nói riêng. Ngày 15-06- 1960, Tòa án nhân dân tối cao ra Chỉ thị số 1024 có đề cập tội hiếp dâm, nhưng chưa đề cập tội làm nhục người khác. Trên cơ sở các kinh nghiệm mà thực tiễn xét xử đã đúc kết được trong thời gian trước đó, ngày 11-05-1967, Tòa án nhân dân tối cao đã thông qua Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét x ử tội hiếp dâm và các tội phạm khác về mặt tình dục, đề cập một cách toàn diện 4 hình thức phạm tội: hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu với người dưới 16 tuổi, dâm ô, nhưng vẫn chưa đề cập tội làm nhục người khác [39, tr. 389]. Sau khi miền Nam được giải phóng, trong khi chờ đợi thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước, trên thực tế về hình thức, tạm thời tồn tại hai Nhà nước: Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam; mỗi Nhà nước có pháp luật riêng [20, tr.35]. Nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành ngay một số chính sách, văn bản quy phạm pháp luật hình sự nhằm phục vụ thực hiện một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách là trấn áp bọn phản cách mạng và tội phạm khác, bảo vệ vững chắc an ninh chính trị và trật tự an to àn xã hội ở nửa đất nước mới được giải phóng. Cùng với việc ban hành Sắc luật về tổ chức Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân, Sắc luật quy định việc bắt, giam, khám người, khám nhà ở, 11
  12. đồ vật của Người phạm tội, Nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15 -3 -1976 quy đ ịnh các tội phạm và hình phạt. Sắc luật này được áp dụng trong phạm vi toàn quốc trước khi Bộ luật hình sự được ban hành. Sắc luật số 03-SL/76 có quy đ ịnh về các tội xâm phạm đến thân thể và nhân phẩm của công dân một cách đầy đủ hơn so với Thông tư số 442-TTg ngày19 -11-1955 của Thủ tướng Chính phủ Điểm d Điều 5 Sắc luật quy định: “Phạm các tội khác xâm phạm thân thể và nhân phẩm của công dân thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm những kẻ lập công chuộc tội" [40, tr. 236]. Trên cơ sở quy định này, các Tòa án đã vận dụng xử lý một số trường hợp phạm tội làm nhục người khác. 1.1.3. Tội làm nhục người khác thời kỳ từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến nay Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, V của Đảng, nhân dân ta đã giành được một số thành tựu nhất định trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, tạo ra những cơ sở đầu tiên cho sự phát triển mới. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, chúng ta đã gặp phải nhiều khó khăn và khuyết điểm do duy trì quá lâu cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp, nên không thực hiện được mục tiêu đã đ ề ra là ổ n định một cách cơ bản tình hình kinh tế – xã hội và đời sống nhân dân. Về mặt lập pháp hình sự, các văn bản quy phạm pháp luật hình sự đ ơn hành không thể hiện đ ược to àn diện, đầy đủ chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Trong bối cảnh đó, việc ban hành Bộ luật hình sự là vấn đề mang tính tất yếu khách quan và cấp thiết, có ý nghĩa góp phần phục vụ thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ngày 27-6-1985, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa 12
  13. VII, đã thông qua Bộ luật hình sự, có hiệu lực từ ngày 1-1-1986 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 1985). Bộ luật hình sự năm 1985 đã kế thừa và phát triển những thành tựu lập pháp hình sự Việt Nam, tổng kết kinh nghiệm đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thời gian trước năm 1985 và dự báo được tình hình tội phạm trong thời gian tới. Trong Bộ luật hình sự năm 1985, tiếp theo việc quy định các tội xâm phạm an ninh quốc gia ở chương 1, nhà làm luật đã quy định các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự ở chương 2 và quy đ ịnh các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân ở chương 3. Đây là hai chương của Bộ luật hình sự bao gồm những quy phạm pháp luật trực tiếp bảo vệ con người với tính chất là chủ thể của các quan hệ xã hội. Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tội làm nhục người khác tại Điều 116, tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên tại Điều 253, tội làm nhục cấp dưới tại Điều 254, tội làm nhục đồng đội tại Điều 255. Việc Bộ luật hình sự năm 1985 lần đầu tiên chính thức ghi nhận về mặt pháp lý tội làm nhục người khác, tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên, tội làm nhục cấp dưới, tội làm nhục đồng đội, đánh dấu sự trưởng thành về kỹ thuật lập pháp hình sự của nước ta trong lĩnh vực bảo vệ nhân phẩm, danh dự của con người Bộ luật đã đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm tội làm nhục người khác là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác và quy đ ịnh hai khung hình phạt. Khung cơ b ản có mức phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm. Khung tăng nặng có mức phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm. Đây là những trường hợp người phạm tội đã có hành vi làm nhục người thi hành công vụ để cản trở người đó thi hành công vụ hoặc để 13
  14. trả thù người đó vi đ ã thi hành công vụ, ảnh hưởng tới lợi ích của người phạm tội hay người thân hoặc gia đình họ. Từ sau Đại hội đại biểu to àn quốc lần thứ VI của Đảng, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã giành được những thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi cơ chế, b ên cạnh những mặt tích cực, mặt trái nền kinh tế thị trường cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, trong đó tình hình tội phạm diễn biến phức tạp. Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành trong thời kỳ của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, cho nên tuy đã phản ánh được nhu cầu bức xúc của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm thời kỳ đó, nhưng ở một mức độ nhất định vẫn chịu ảnh hưởng nhất định của cơ chế đó. Vì vậy, Bộ luật này không phù hợp cho việc bảo vệ các quan hệ phát sinh trong nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, dưới sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, Bộ luật hình sự năm 1985 còn có những hạn chế nhất định về kỹ thuật lập pháp hình sự nhiều tội danh đ ược quy định q uá chung chung; một số hành vi phạm tội với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau nhưng lại được quy định trong một điều luật với cùng một chế tài; khung hình phạt trong nhiều điều luật quá rộng, dễ dẫn đến tiêu cực... Hạn chế lớn nhất của Bộ luật hình sự năm 1985 là qua bốn lần sửa đổi, bổ sung, Bộ luật này đã không còn là một chỉnh thể thống nhất. Trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc sửa đổi toàn diện Bộ luật hình sự năm 1985 là một đòi hỏi mang tính tất yếu khách quan. Ngày 21-12 -1999, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, đã thông qua Bộ luật hình sự (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 1999), thay thế cho Bộ luật hình sự năm 1985. Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực từ ngày 1-7-2000. Bộ luật hình sự năm 1999 quy 14
  15. định tội làm nhục người khác tại Điều 121, tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên tại Điều 319, tội làm nhục cấp dưới tại Điều 320, tội làm nhục đồng đội tại Điều 321. So với Bộ luật hình sự năm 1985, những quy định về tội làm nhục người khác trong Bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm mới cơ bản như sau: Thứ nhất, quán triệt chính sách hình sự của Nhà nước ta trong việc xử lý hình sự đối với những người thực hiện các hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người là nghiêm khắc hơn, khung cơ bản Điều 121 quy định tội làm nhục người khác có mức phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm (trong Bộ luật hình sự năm 1985 là một năm). Thứ hai, khung tăng nặng có mức phạt tù từ một năm đến ba năm (trong Bộ luật hình sự năm 1985 là cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm). Thứ ba, bổ sung một số tình tiết định khung tăng nặng hình phạt như phạm tội nhiều lần, đối với nhiều người, lợi dụng chức vụ, quyền hạn, đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình. Thứ tư, quy định thêm hình phạt bổ sung: người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm (trong Bộ luật hình sự năm 1985 không có quy định này). 1.2. TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 1.2.1. Khái niệm tội làm nhục ng ười khác Tội làm nhục người khác có mối quan hệ chặt chẽ với danh dự và nhân phẩm con người. Cho nên, để có thể làm sáng tỏ khái niệm tội làm nhục người 15
  16. khác, cần làm rõ khái niệm danh dự, nhân phẩm con người. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, con người là vốn quý nhất. Đối với con người, chẳng những tính mạng, sức khỏe là vô giá mà danh dự, nhân phẩm cũng không kém phần quan trọng. Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người đều rất thân thiết đối với con người và là những quyền quan trọng nhất trong các quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp ghi nhận và bảo hộ. Điều 70 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm”. Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, “danh dự là phạm trù đạo đức chỉ lòng tôn trọng của con người trong mọi cử chỉ, hành vi của m ình” [50, tr. 647]. Người có danh dự biết tôn trọng lời mình đ ã hứa và có ý thức bảo vệ danh dự của mình, của dòng họ, của đoàn thể, Tổ quốc mình. Mất danh dự có nghĩa là mất sự tin yêu, m ến phục của người khác và đối với người có danh dự, thì đó là tổn thất lớn nhất. Vấn đề tiếp theo cần làm sáng tỏ là khái niệm nhân phẩm. Theo Đại từ điển tiếng Việt, "nhân phẩm là phẩm chất và giá trị con người" [29, tr. 1762 – 1323]. Nhân phẩm và danh d ự là những giá trị nội tại, vốn có được hình thành và phát triển cùng với sự phát triển và hoàn thiện của con người về mặt nhân tính. Đây là thuộc tính chung của tất cả các cá nhân trong cộng đồng nhân loại, không dựa trên b ất kỳ sự phân biệt hay khác biệt nào về địa vị xã hội, kinh tế, chính trị, chủng tộc, tôn giáo, dân tộc, giới tính, … Nhân phẩm và danh dự của con người chính là những cái làm nên sự khác biệt và cũng là bước tiến vượt bậc của con người với phần còn lại của giới tự nhiên. Vì chúng là những giá trị chỉ thuộc tính chung của con người, do vậy, tôn trọng nhân phẩm, danh dự của mỗi cá nhân con người là sự tôn trọng đối với chính m ình, 16
  17. đối với đồng loại. Tôn trọng nhân phẩm, danh dự của con người là tôn trọng những giá trị của con người, nhờ đó con người thực hiện được sự công bằng và bình đẳng. Tội làm nhục người khác phải thỏa mãn đ ầy đủ các dấu hiệu của tội phạm, mà theo PGS.TSKH Lê Cảm, phải thể hiện ba bình diện với năm đặc điểm (dấu hiệu) của nó là: a) bình diện khách quan: tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; b) bình diện pháp lý: tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự; c) bình diện chủ quan: tội phạm là hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi [37, tr. 105]. Trong khoa học pháp lý hình sự, các nhà hình sự học đã đưa ra khái niệm tội làm nhục người khác. Các tác giả của Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội cho rằng, “Tội làm nhục người khác là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác.” [38, tr. 158]. Các tác giả của Giáo trình luật hình sự Việt Nam, trường Đại học Luật - H à Nội cũng cho rằng, “Tội làm nhục người khác là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác” [49, tr. 335]. Từ sự phân tích các quan điểm được trình bày ở trên, chúng tôi xin đưa ra khái niệm tội làm nhục người khác như sau: Tội làm nhục người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật h ình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý, xâm phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác. 1.2.2. Những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng và hình phạt được áp dụng đối với tội làm nhục người khác 17
  18. 1.2.2.1. Khách thể của tội phạm. Là một loại hoạt động của con người, nên cũng như các loại hoạt động khác, tội phạm cũng nhằm vào những khách thể cụ thể, tồn tại ngoài ý thức, độc lập với ý thức của chủ thể, nhưng không phải để cải biến mà gây thiệt hại cho chính những khách thể đó. Trong hệ thống các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, các quan hệ x ã hội có ý nghĩa khác nhau đối với sự phát triển của xã hội được Nhà nước bảo vệ bằng các quy phạm pháp luật khác nhau. Khách thể bảo vệ của luật hình sự là những quan hệ xã hội đ ược Nhà nước xác định cần được bảo vệ bằng những quy phạm pháp luật hình sự. Những quan hệ xã hội đó sẽ là khách thể của tội phạm trong trường hợp chúng bị gây thiệt hại hoặc bị đe dọa gây thiệt hại ở mức độ nhất định. Như vậy, khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội đ ược luật hình sự bảo vệ và b ị tội phạm xâm hại” [49, tr. 61]. Công dân Việt Nam có quyền bát khả xâm phạm về thân thể và được pháp luật bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự. Tôn trọng và bảo vệ danh dự, nhân phẩm của mỗi công dân là trách nhiệm của mọi người. Đối với tội làm nhục người khác, khách thể của tội phạm là nhân phẩm, danh dự của con người. 1.2.2.2. Mặt khách quan của tội phạm. Bất cứ tội phạm nào khi xảy ra cũng đều có những biểu hiện diễn ra hoặc tồn tại bền ngoài, mà con người có thể trực tiếp nhận biết đ ược. Đó là: - H ành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội; - Hậu quả nguy hiểm cho xã hội, cũng như mối quan hệ giữa hành vi khách quan và hậu quả. 18
  19. - Các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội (công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội...). Tổng hợp những biểu hiện trên đây tạo thành mặt khách quan của tội phạm. Như vậy, mặt khách quan của tội làm nhục người khác là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngo ài thé giới khách quan. Mặt khách quan của tội làm nhục người khác là một trong bốn yếu tố của tội phạm. Không có mặt khách quan thì cũng không có các yếu tố khác của tội phạm và do vậy cũng không có tội phạm. Trong m ặt khách quan của tội làm nhục người khác, hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản. Những biểu hiện khác của mặt khách quan của tội làm nhục người khác chỉ có ý nghĩa khi có hành vi khách quan. H ành vi khách quan của tội làm nhục người khác luôn luôn được thể hiện dưới hình thức hành động phạm tội – là hình thức của hành vi phạm tội làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động, gây thiệt hại cho nhân phẩm,, danh dự con người quan việc chủ thể làm một việc bị pháp luật cấm như bằng lời nói hoặc hành động xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác như xỉ nhục, nhạo báng, chửi rủa thậm tệ, lột trần truồng người bị hại trước đám đông, dùng phân lợn đổ vào người bị hại… Ví dụ: tại Bản án hình sự phúc thẩm số 3888/HSPT ngày 29-10-2004, Tòa án nhân dân thành phố H à Nội kết luận: do nghi ngờ ông Nguyễn Ngọc Ninh xúi giục bà Trần Thị Vượng tranh chấp đất với gia đình Phạm Thanh Bình, nên sáng này 04-03-2004, trong lúc Bình cãi nhau với gia đình bà Vượng, thấy ông Ninh, Bình lên tiếng: “thằng nào đi vào lối tranh chấp Bình sẽ chặt chân”, ông Ninh thấy vậy đi ra khỏi cổng gia đình bà V ượng. Bình lấy xô nước đựng sẵn phân lợn ở cổng đến chỗ ông Ninh, dùng hai tay hất xô nước phân lợn vào đầu, người ông Ninh. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cho rằng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm nghiêm trọng đến 19
  20. danh dự, nhân phẩm của công dân. Phạm Thanh Bình đã phạm tội làm nhục người khác đ ược quy định tại khoản 1 Điều 121 Bộ luật hình sự năm 1999. H ành vi làm nhục người khác có thể được thực hiện công khai trước mặt người đó hoặc vắng mặt người bị hại, nhưng người phạm tội có ý thức để cho người bị hại biết việc lăng nhục đó vì động cơ cá nhân. Sự xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người khác phải đến mức nghiêm trọng thì mới truy cứu trách nhiệm hình sự. Đánh giá mức độ nghiêm trọng của hành vi phải căn cứ vào thái độ, nhận thức của người phạm tội, cường độ và thời gian kéo d ài của hành vi; vị thế, vai trò của người bị hại trong gia đình, tổ chức hoặc trong xã hội; dư luận xã hội về hành vi lăng nhục đó. N ếu hành vi làm nhục người khác dẫn đến người bị hại tự sát, thì phải coi đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm K kho ản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999. Tội làm nhục người khác là tội phạm mà pháp luật hình sự quy định có cấu thành hình thức. Tội phạm được coi là hoàn thành từ khi người phạm tội có lời nói hoặc hành động xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác. Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của tội làm nhục người khác. Tuy pháp luật hình sự không quy định hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của tội làm nhục người khác, nhưng điều đó không có nghĩa là hậu quả không xảy ra. Thực tế cho thấy, hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác có thể gây ra thiệt hại to lớn về mặt tinh thần đối với người bị hại, ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội. Hậu quả không có ý nghĩa trong việc định tội, nhưng việc xác định hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi làm nhục người khác với thiệt hại xảy ra, có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết trách nhiệm hình sự và hình phạt. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2