intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Đổi mới hoạt động của chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn, Ngân hàng Công thương Việt Nam

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:94

68
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, lĩnh vực tài chính, ngân hàng có vai trò ngày một quan trọng hơn. Hệ thống ngân hàng thương mại có ảnh hưởng mạnh đến sự phát triển toàn diện nền kinh tế quốc dân, đặc biệt đối với các địa bàn có khu công nghiệp mới hoạt động, nơi có nhiều doanh nghiệp đang ở trong giai đoạn đầu hoạt động sản xuất kinh doanh. Tại đó, vai trò của các ngân hàng thương mại còn quan trọng...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Đổi mới hoạt động của chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn, Ngân hàng Công thương Việt Nam

  1. LUẬN VĂN: Đổi mới hoạt động của chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn, Ngân hàng Công thương Việt Nam
  2. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, lĩnh vực tài chính, ngân hàng có vai trò ngày một quan trọng hơn. Hệ thống ngân hàng thương mại có ảnh hưởng mạnh đến sự phát triển toàn diện nền kinh tế quốc dân, đặc biệt đối với các địa bàn có khu công nghiệp mới hoạt động, nơi có nhiều doanh nghiệp đang ở trong giai đoạn đầu hoạt động sản xuất kinh doanh. Tại đó, vai trò của các ngân hàng thương mại còn quan trọng hơn, cung cấp vốn, dịch vụ ngân hàng và hỗ trợ thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp. Khu Công nghiệp Tiên Sơn là khu công nghiệp đầu tiên của tỉnh Bắc Ninh được thành lập từ ngày 18/12/1998. Đặc điểm chung của các doanh nghiệp đầu tư vào khu công nghiệp này là các ngành nghề có công nghệ cao, ngành công nghiệp sạch hoặc ít ô nhiễm môi trường và có quy mô tương đối lớn. Mặt khác, các doanh nghiệp ở đây do đang trong quá trình xây dựng và lắp đặt mới nhà xưởng, máy móc nên cần một lượng vốn lớn; do đó rất cần sự hỗ trợ của hệ thống ngân hàng thương mại đang hoạt động trên địa bàn huyện Tiên Du và Từ Sơn. Nằm trong hệ thống các ngân hàng thương mại đang hoạt động tại địa bàn, chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn, Ngân hàng Công thương Việt Nam (sau đây gọi tắt là chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn) sau ba năm hoạt động đã đóng góp rất lớn vào sự nghiệp phát triển doanh nghiệp và Khu Công nghiệp Tiên Sơn. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước đã có những bước phát triển mới, hệ thống doanh nghiệp trong Khu Công nghiệp Tiên Sơn đòi hỏi các ngân hàng thương mại nói chung, chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn nói riêng phải đổi mới hoạt động của mình. Điều đó không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp này mà còn là sự đòi hỏi của quá trình hội nhập và thực hiện các hiệp định kinh tế song phương giữa nước ta với các nước khác trên thế giới. Trước yêu cầu cấp bách đó, chủ đề "Đổi mới hoạt động của chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn, Ngân hàng Công thương Việt Nam" đã được tác giả lựa chọn làm đề tài
  3. luận văn Thạc sĩ. Tác giả mong muốn thông qua bản luận văn này đóng góp một phần nhỏ bé vào quá trình không ngừng đổi mới hoạt động của Ngân hàng Công thương Việt Nam nói chung, chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn nói riêng. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Liên quan đến đề tài đổi mới hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại đã có một số đề tài cấp Bộ, ngành, luận án tiến sỹ và luận văn thạc sỹ đề cập ở những góc độ, phạm vi khác nhau. Nhiều giải pháp và đề xuất trong các công trình khoa học trên đã được ứng dụng vào thực tiễn hoạt động của các ngân hàng thương mại. Dưới góc độ đổi mới hoạt động của ngân hàng thương mại, khía cạnh gần nhất với đề tài nghiên cứu, có thể kể ra một số công trình khoa học sau: Tác giả Lê Thị Hương (2003) với luận án tiến sĩ Kinh tế: "Nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam" đã thành công trong việc phát triển các mô hình đánh giá hoạt động đầu tư của các ngân hàng thương mại, đặc biệt là các hoạt động đầu tư chứng khoán và cho vay. Trong đó, tác giả tập trung đánh giá vào sự sinh lời của các ngân hàng thương mại trong giai đoạn 1996-2001. Tuy nhiên, luận án trên mới chỉ đề cập đến khía cạnh vi mô của hệ thống ngân hàng thương mại. Tiến sĩ Lê Anh Tuấn trong một đề tài liên quan đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng thương mại nhà nước đã sử dụng phương pháp nghiên cứu tình huống cụ thể tại Ngân hàng Công thương Việt Nam. Tác giả đã phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động này dựa trên một nền tảng vững chắc của những lý thuyết hiện đại nhất. Theo đó, các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ đã được đề xuất một cách có hệ thống và dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc. Luận án tiến sĩ Kinh tế với đề tài "Hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại Nhà nước ở nước ta hiện nay", tác giả Lê Đức Thọ (2005) đã đề cập đến thực trạng hoạt động tín dụng của hệ thống các ngân hàng thương mại nhà nước và những tác động tới quá trình phát triển kinh tế-xã hội ở Việt Nam. Tác giả đã đề xuất các giải pháp đổi mới hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam, phù hợp với yêu cầu đổi mới và gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm
  4. 2010. Ở mức độ chuyên sâu hơn, tác giả Nguyễn Hữu Tuấn đã đi sâu phân tích mặt chất lượng của hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam. Luận án tiến sĩ Kinh tế với đề tài "Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam" đã đánh giá toàn diện các mặt của hoạt động kinh doanh tại ngân hàng thương mại nhà nước đặc thù này. Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra một hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh của ngân hàng này. Tuy nhiên, với đặc thù riêng vốn có của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam nên hệ thống giải pháp trên khó có thể đưa ra vận dụng vào các ngân hàng thương mại khác. Trong các công trình khoa học kể trên, các tác giả đề cập đến sự đổi mới hoạt động của ngân hàng thương mại bằng cách phân tích tính hiệu quả hoạt động của ngân hàng trên các mặt khác nhau. Điều đó tạo ra sự chuyên sâu cần thiết nhưng thiếu đi sự toàn diện trong khi các hoạt động hoặc dịch vụ của ngân hàng thương mại lại có sự hỗ trợ qua lại lẫn nhau. Thực tế này đã thôi thúc tác giả đi vào phân tích một cách tổng thể những mặt khác nhau của quá trình đổi mới hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích của luận văn là nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng hoạt động, những mặt thành công và những yếu kém, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp tiếp tục đổi mới hoạt động của chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: - Hệ thống hoá và làm sáng tỏ hơn một số vấn đề chung về hoạt động của ngân hàng thương mại trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. - Phân tích thực trạng hoạt động của chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn từ ngày thành lập đến nay, đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế, vướng mắc và nguyên
  5. nhân. - Đề xuất giải pháp tiếp tục đổi mới hoạt động của chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu: Toàn bộ hoạt động của chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn. Phạm vi nghiên cứu: Từ ngày thành lập chi nhánh (2004) đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng, các phương pháp được sử dụng trong quá trình thực hiện luận văn gồm: Phương pháp so sánh, phân tích kết hợp với phương pháp hệ thống hoá để đưa ra nhận xét đánh giá các vấn đề. Bên cạnh đó, luận văn cũng vận dụng kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan để làm sâu sắc hơn các cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài. Đề tài kết hợp những vấn đề của kinh tế học hiện đại với tổng kết thực tiễn hoạt động của chi nhánh. 6. Những đóng góp khoa học của luận văn - Tổng kết thực tiễn, đánh giá đúng thực trạng hoạt động của chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn từ ngày thành lập đến nay. - Góp phần đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động của chi nhánh. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Ngân hàng thương mại và hoạt động của nó trong nền kinh tế thị trường. Chương 2: Thực trạng hoạt động của chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn. Chương 3: Định hướng và giải pháp tiếp tục đổi mới hoạt động của chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn.
  6. Chương 1 NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA NÓ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1.1. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại là tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất phục vụ công chúng. Lượng tài sản mà chúng nắm giữ lớn hơn bất cứ một trung gian tài chính nào. Mặt khác, các ngân hàng còn có vai trò là chiếc cầu chuyển tiếp các chính sách kinh tế của chính phủ (đặc biệt là chính sách tiền tệ) đến các chủ thể trong nền kinh tế. Sự khan hiếm tín dụng ngân hàng thường dẫn đến chi tiêu trong nền kinh tế chậm lại và gia tăng thất nghiệp. Ngoài ra, các biến động về tín dụng ngân hàng cũng có tác động mạnh mẽ đến lạm phát. Nguyên nhân của nó là lượng tiền gửi ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nguồn cung tiền tệ được sử dụng bởi người dân. Hơn nữa, mối quan hệ giữa những thay đổi về cung tiền tệ và giá cả hàng hoá, dịch vụ trong nền kinh tế là chặt chẽ. Tín dụng ngân hàng và các dịch vụ ngân hàng là nhu cầu thiết yếu của tất cả các chủ thể trong nền kinh tế. Các ngân hàng cung cấp phần lớn tín dụng tiêu dùng dưới hai hình thức: - Hình thức trực tiếp như các khoản vay được thương lượng và lệ phí tính theo thẻ tín dụng do ngân hàng phát hành; - Hình thức gián tiếp thông qua các khoản vay mua xe ôtô, đồ đạc nội thất, đồ điện gia dụng và các loại hàng hoá tiêu dùng khác. Những doanh nghiệp cần tín dụng thường liên hệ với một ngân hàng trước, đặc biệt khi có nhu cầu vốn ngắn hạn để dùng vào việc mua hàng hoá, nguyên vật liệu hoặc phí sửa chữa. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại, thông qua các phòng tín dụng của họ, còn là một nguồn lực chính trong các thị trường trái phiếu và cổ phiếu công ty. Ngân hàng theo nghĩa bình thường và truyền thống là một định chế tài chính cung
  7. cấp hai loại dịch vụ chính cho công chúng: - Tài khoản giao dịch được sử dụng để thanh toán việc mua hàng hoá và dịch vụ và thường được chấp nhận rộng rãi bởi người dân về chức năng này; - Cho vay trực tiếp đến các doanh nghiệp, cá nhân và các định chế khác [26, tr. 121]. Định chế tài chính gần gũi với định nghĩa này nhất là ngân hàng thương mại. Tài khoản thanh toán của ngân hàng thương mại là hình thức thanh toán chủ yếu trong nền kinh tế và được chấp nhận rộng rãi như là đồng tiền. Mặc dù ngân hàng thương mại có mua chứng khoán đầu tư (như chứng khoán công ty và nhà nước) được giao dịch trên thị trường mở, nhưng tài sản chủ yếu của ngân hàng là những khoản cho vay trực tiếp dành cho các doanh nghiệp, cá nhân và gia đình. Trong giai đoạn hiện nay, ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò to lớn đối với nền kinh tế nói chung và đối với cộng đồng dân cư nói riêng. Tuy nhiên, việc định nghĩa ngân hàng là gì lại đang trở nên khó khăn và nhầm lẫn. Hiển nhiên, chúng ta có thể định nghĩa ngân hàng thông qua các dịch vụ mà chúng cung cấp cho nền kinh tế. Thế nhưng vấn đề này trở nên phức tạp do không chỉ các chức năng của ngân hàng thương mại đang thay đổi mà chức năng của các đối thủ cạnh tranh chính của ngân hàng cũng đang không ngừng biến đổi. Xu hướng phổ biến hiện nay là nhiều tổ chức trung gian tài chính phi ngân hàng bao gồm công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm đều đang cố gắng cung cấp cho các khách hàng của mình những dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại, các ngân hàng cũng mở rộng phạm vi phục vụ của mình, hướng về phía đầu tư bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia các hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác nhằm đối phó với các đối thủ cạnh tranh của mình. Một ví dụ điển hình hiện nay ở nước ta là việc các công ty bảo hiểm và công ty chứng khoán đang đệ đơn lên Ngân hàng Nhà nước xin thành lập ngân hàng của mình. Tập đoàn Tài chính - Bảo hiểm Việt Nam đã có lộ trình hình thành ngân hàng của riêng mình, trong khi đó, các ngân hàng cũng nhanh chóng tham gia thành lập các công ty bảo hiểm, công ty đầu tư chứng khoán như Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân
  8. hàng Đầu tư phát triển và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam. Xu hướng phát triển trên đây tất yếu sẽ dẫn đến những thay đổi về pháp lý và đem đến sự nhầm lẫn cho công chúng khi phân biệt ngân hàng với các tổ chức tài chính khác. Do đó, cách tiếp cận hợp lý và đúng đắn nhất là xem xét các tổ chức này trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp. Theo đó, ngân hàng được định nghĩa như sau: Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế [25, tr. 7]. Sự phong phú về dịch vụ và chức năng của ngân hàng đã dẫn đến việc chúng được gọi là các "bách hoá tài chính". 1.1.2. Vai trò, chức năng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính tương tự như các hội tín dụng, các công ty bảo hiểm và các tổ chức kinh doanh dịch vụ tài chính khác. Thuật ngữ "trung gian tài chính" được dùng để chỉ những công việc kinh doanh đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế đó là các cá nhân và tổ chức thiếu hụt chi tiêu, tức là phần chi cho tiêu dùng và đầu tư lớn hơn thu nhập của họ, do đó cần bổ sung vốn từ bên ngoài bằng cách vay mượn; các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Các bằng chứng thực nghiệm cho thấy hai nhóm cá nhân và tổ chức trên khó có thể gặp nhau trực tiếp trên thị trường, và họ thường không tin tưởng lẫn nhau. Điều đó đòi hỏi giữa họ cần có một tổ chức trung gian đứng ra làm cầu nối. Các ngân hàng xuất hiện và nhận nhiệm vụ trung gian đó, thu hút vốn của các nhóm "thặng dư" bằng các dịch vụ tài chính thuận lợi, và cho nhóm "thiếu hụt" vay. Hoạt động trung gian của ngân hàng sẽ diễn ra trong hai trường hợp sau: - Thứ nhất, có được mức lợi nhuận kỳ vọng dương giữa thu nhập dự tính từ các khoản cho nhóm "thiếu hụt" vay và lãi suất dự tính phải trả cho nhóm "thặng dư";
  9. - Thứ hai, có được chênh lệch dương giữa các khoản tín dụng và lãi suất phải trả cho tiền gửi và vốn vay từ nhóm "thặng dư". Nếu quan hệ giữa lãi suất cho vay và chi phí đi vay là tương quan dương, nó sẽ làm giảm tính rủi ro của lợi nhuận dự tính, khuyến khích ngân hàng tiếp tục huy động vốn để cho vay. Một đóng góp quan trọng khác của ngân hàng là họ sẵn sàng chấp nhận các khoản cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền. Qua đó, các ngân hàng cung cấp sự đảm bảo cho các dự án đầu tư và đem lại nhiều phúc lợi xã hội cho công chúng. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, bên cạnh các chức năng, vai trò truyền thống, ngân hàng thương mại còn có nhiều hoạt động dịch vụ và vai trò quan trọng khác, đó là khả năng thẩm định thông tin. Một số người cho vay và người đi vay biết nhiều thông tin hơn những người khác; một số cá nhân và tổ chức có các thông tin bên trong và điều này cho phép họ có được những quyết định đầu tư đúng đắn và hiệu quả mang lợi nhuận cao. Sự khác biệt trong khả năng tiếp cận và phân tích thông tin được gọi là tình trạng "thông tin không cân xứng". Sự không cân xứng đó làm giảm tính hiệu quả của thị trường nhưng tạo ra một khả năng sinh lợi to lớn cho ngân hàng thương mại, nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đánh giá các thông tin tài chính và có khả năng lựa chọn những dự án với các yêu cầu rủi ro thấp nhưng lợi nhuận hấp dẫn nhất. Khả năng đặc biệt đó của ngân hàng đã dẫn đến một quan điểm mới trong việc lý giải tại sao ngân hàng lại tồn tại trong xã hội hiện đại - lý thuyết quản lý uỷ thác. Hầu hết người vay tiền và người gửi tiền đều muốn giữ bí mật tình trạng tài chính của họ, đặc biệt là trước các đối thủ cạnh tranh. Lý thuyết này cho rằng các ngân hàng có thể thu hút người đi vay bởi vì họ cam kết giữ bí mật. Thậm chí ngay những người gửi tiền cũng không có đặc quyền được biết tình trạng tài chính của người vay tiền. Người gửi tiền thường không có thời gian cũng như không có kỹ năng trong việc thẩm định người vay vốn. Do đó, họ đã chuyển quá trình kiểm tra, thẩm định đến các ngân hàng, nơi đã đầu tư nhân lực, tài lực và vật lực vào quá trình này. Ngân hàng hành động như là một đại lý của người gửi tiền, kiểm tra điều kiện tài chính của khách hàng xin vay để đảm bảo cho việc người gửi tiền sẽ thu hồi
  10. đủ vốn và lãi. Để đáp lại điều này, người gửi tiền phải trả một khoản phí cho ngân hàng, có thể nhỏ hơn chi phí mà họ phải bỏ ra nếu họ tự thẩm định người vay vốn. Trong nền kinh tế hiện đại, ngân hàng thực hiện nhiều chức năng khác nhau, được thể hiện ở sơ đồ sau: Chức năng uỷ thác Chức năng tín Chức năng bảo Chức năng lập kế hoạch đầu tư NGÂN HÀNG Chức năng môi giới HIỆN Chức năng ĐẠI thanh toán Chức năng đầu tư và bảo Chức năng lãnh tiết kiệm Chức năng quản lý tiền mặt Sơ đồ 1.1. Những chức năng cơ bản của ngân hàng ngày nay Nguồn: [25, tr.7]. 1.1.3. Các khuynh hướng ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng Thứ nhất, sự gia tăng nhanh chóng các loại hình dịch vụ Áp lực của cạnh tranh từ các tổ chức trung gian tài chính khác, sự hiểu biết ngày một cao của người tiêu dùng và những biến đổi căn bản trong công nghệ ngân hàng đã dẫn đến sự đa dạng hoá các hình thức dịch vụ ngân hàng. Điều đó đã tạo ra những nguồn thu mới cho ngân hàng - các khoản lệ phí của dịch vụ không phải trả lãi, một bộ phận có xu hướng tăng trưởng nhanh hơn so với các nguồn thu truyền thống từ lãi cho vay.
  11. Thứ hai, áp lực của cạnh tranh Sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đang ngày càng trở nên quyết liệt khi ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh mở rộng danh mục dịch vụ. Các ngân hàng địa phương cung cấp tín dụng, dịch vụ tư vấn tài chính cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Đây là những dịch vụ đang phải đối mặt với sự cạnh tranh từ các ngân hàng khác, các hiệp hội tín dụng, các công ty kinh doanh chứng khoán như Bảo Việt Chứng khoán, Công ty chứng khoán Sài gòn, các công ty tài chính như Vina Capital và các tổ chức bảo hiểm như Bảo Việt, Prudential. Áp lực cạnh tranh đóng vai trò như một lực đẩy tạo ra sự phát triển dịch vụ cho tương lai. Thứ ba, giảm bớt sự kiểm soát của Chính phủ Cạnh tranh và quá trình mở rộng dịch vụ ngân hàng cũng được thúc đẩy bởi sự nới lỏng các quy định - giảm bớt sức mạnh kiểm soát của Chính phủ. Một trong những dấu hiệu dễ nhận biết của quá trình này là việc Chính phủ nâng lãi suất trần đối với tiền gửi tiết kiệm nhằm phân phối lại cho người dân một mức thu nhập tốt hơn từ khoản tiết kiệm của mình. Cùng lúc đó, nhiều loại tài khoản tiền gửi mới được phát triển giúp cho công chúng có thể thu được lợi tức trên các khoản giao dịch. Gần như đồng thời, hiệp hội tín dụng và cho vay cũng được mở rộng danh mục dịch vụ nhanh chóng và do đó khả năng cạnh tranh của những tổ chức này cũng được củng cố và nâng cao. Các ngân hàng được nới rộng giới hạn pháp lý, được cung cấp một số dịch vụ thuộc những tổ chức trung gian tài chính như: dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ đầu tư chứng khoán và tư vấn đầu tư. Thứ tư, sự gia tăng các nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất Các quy định của Chính phủ đối với ngành ngân hàng tạo ra cho khách hàng khả năng nhận được mức thu nhập cao hơn từ tiền gửi, nhưng nó mới chỉ là tiềm năng, chỉ có công chúng mới chuyển hoá các cơ hội đó trở thành hiện thực. Tiền được gửi trong những tài khoản tiết kiệm thu nhập thấp và các tài khoản giao dịch không sinh lợi kiểu cũ đã được chuyển sang các tài khoản có mức thu nhập cao hơn, những tài khoản có tỷ lệ thu nhập thay đổi theo điều kiện thị trường. Ngân hàng đã phát hiện ra rằng họ đang phải đối mặt với những khách hàng có hiểu biết hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn. Các khoản tiền gửi "trung
  12. thành" của họ có thể dễ dàng bị lôi kéo bởi các đối thủ cạnh tranh mạnh mẽ. Do đó, ngân hàng phải phấn đấu để tăng cường khả năng cạnh tranh trên phương diện thu nhập trả cho tiền gửi của người dân và phải nhạy cảm hơn với ý thức thay đổi của xã hội về vấn đề phân phối các khoản tiết kiệm. Thứ năm, cách mạng trong công nghệ ngân hàng Với mục tiêu giảm thiểu chi phí lưu động, nhiều năm gần đây, các ngân hàng đã tăng cường đầu tư vào hệ thống hoạt động tự động và điện tử, thay thế cho những hệ thống dựa trên lao động thủ công và đã đem lại nhiều lợi ích cho ngân hàng. Ngân hàng đang trở thành ngành sử dụng nhiều vốn và chi phí cố định; sử dụng ít lao động. Có nhiều bằng chứng thực nghiệm cho thấy sự sụt giảm mạnh các cuộc trao đổi trực tiếp giữa ngân hàng và khách hàng, thay vào đó là hệ thống máy tính kết nối Internet. Khách hàng có thể ngồi ở một nơi rất xa ngân hàng và ra lệnh chuyển tiền từ ngân hàng đến một tài khoản khác thông qua hệ thống giao dịch điện tử. Sản xuất và cung cấp dịch vụ sẽ hoàn toàn tự động. Những bước đi đó sẽ giảm đáng kể chi phí đối với những khu vực có khối lượng giao dịch lớn, nhưng chúng sẽ tạo ra quá trình phi nhân công hoá ngân hàng và gây ra tình trạng mất việc làm khi máy móc thay thế người lao động. Tuy nhiên, những kinh nghiệm gần đây cho thấy viễn cảnh tự động hoá hoàn toàn ngành ngân hàng vẫn còn xa vời. Một tỷ lệ lớn khách hàng vẫn ưa chuộng các dịch vụ của con người và những cơ hội để nhận được sự tư vấn cá nhân về các vấn đề tài chính. Thứ sáu, sự củng cố và mở rộng hoạt động về mặt địa lý Sử dụng có hiệu quả quá trình tự động hoá và những đổi mới công nghệ đòi hỏi các hoạt động ngân hàng phải có quy mô lớn. Vì vậy, ngân hàng cần phải mở rộng cơ sở khách hàng bằng cách vươn tới các thị trường mới, xa hơn và gia tăng số lượng tài khoản. Kết quả là hoạt động mở chi nhánh ngân hàng diễn ra. Bên cạnh đó, biện pháp sáp nhập và thôn tính các ngân hàng nhỏ, biến chúng trở thành một bộ phận của các ngân hàng đa trụ sở ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Theo đó, chiến lược hướng về khách hàng đang được các ngân hàng thương mại ưu tiên. Mô hình ngân hàng cổ điển, thiếu năng động đang được thay thế bởi một mô hình mới với đặc trưng như là một tổ chức tài chính năng động. Với sự phát triển tự
  13. động hoá, ngày càng có nhiều ngân hàng mở chi nhánh ở những địa phương xa với các thiết bị viễn thông và máy rút tiền tự động - một phương pháp mở rộng quy mô thị trường, hơn là xây dựng các cơ sở vật chất mới. Thứ bảy, quá trình toàn cầu hoá ngân hàng Sự bành trướng địa lý và hợp nhất các ngân hàng đã vượt ra khỏi ranh giới lãnh thổ một quốc gia đơn lẻ và lan rộng ra với quy mô toàn cầu. Ngày nay, các ngân hàng lớn nhất trên thế giới cạnh tranh với nhau trên tất cả các lục địa. Vào những năm 80, các ngân hàng Nhật, dẫn đầu là Dai-I Kangyo Bank và Fuji Bank đã phát triển nhanh hơn hầu hết các đối thủ cạnh tranh trên khắp thế giới. Các ngân hàng lớn đã đặt trụ sở tại Pháp (dẫn đầu là Caisse Nationale de Credit Agricole), tại Đức (dẫn đầu là Deutsche Bank) và tại Anh (dẫn đầu là Barclay PLC) cũng trở thành những đối thủ nặng ký trên thị trường cho vay Chính phủ và cho vay công ty. Quá trình phi quản lý hoá đã giúp tất cả các tổ chức này cạnh tranh hiệu quả hơn so với các ngân hàng Mỹ và nắm được thị phần ngày càng tăng trên thị trường toàn cầu về dịch vụ ngân hàng. Ngày nay, Canada, Mỹ và Mêxicô đã thực hiện Hiệp ước Mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), trong đó có điều khoản cho phép ngân hàng ở nước này sở hữu, quản lý các chi nhánh ngân hàng ở nước kia và sức mạnh dịch vụ của các chi nhánh loại này hoàn toàn so sánh với những chi nhánh sở hữu bởi các ngân hàng trong nước. 1.2. HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1.2.1. Các loại dịch vụ ngân hàng 1.2.1.1. Các dịch vụ truyền thống của ngân hàng Thứ nhất, thực hiện trao đổi ngoại tệ Trong lịch sử phát triển của ngân hàng, một trong những dịch vụ đầu tiên mà chúng cung cấp cho khách hàng là dịch vụ trao đổi đồng ngoại tệ lấy đồng nội tệ [25, tr. 8]. Sự trao đổi đó rất cần thiết đối với những khách du lịch vì họ sẽ cảm thấy thoải mái, yên tâm hơn và dễ dàng hơn trong mua sắm khi cầm trong tay đồng bản tệ. Ví dụ, khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam sẽ dễ dàng đến thăm viếng các khu du lịch hay danh lam thắng cảnh hoặc mua các đồ
  14. vật lưu niệm khi họ có trong tay đồng tiền Việt Nam. Mặt khác, trong điều kiện hiện nay, việc mua bán và trao đổi ngoại tệ cũng là một hình thức kinh doanh thu lợi của các ngân hàng. Tuy nhiên, do đây là hoạt động có mức độ rủi ro cao, yêu cầu trình độ chuyên môn sâu nên thường do các ngân hàng lớn nhất thực hiện. Thứ hai, chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các doanh nhân địa phương, những người bán các khoản nợ (khoản phải thu) của khách hàng cho ngân hàng để lấy tiền mặt. Đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với khách hàng, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ hoặc xây dựng văn phòng và thiết bị sản xuất. Thứ ba, nhận tiền gửi Cho vay là hoạt động đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng, do đó các ngân hàng thực hiện nhiều chiêu thức quảng cáo khác nhau nhằm thu hút khách hàng gửi tiền. Ngoài ra, các ngân hàng còn sử dụng nhiều cách thức cạnh tranh truyền thống khác. Biện pháp hiệu quả nhất cho đến nay mà các ngân hàng thường sử dụng là nâng cao mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm cho khách hàng trong điều kiện cho phép. Trong lịch sử, kỷ lục về lãi suất huy động thuộc về các ngân hàng Hy Lạp khi họ đã trả lãi suất tiết kiệm lên đến 16%/năm. Sau đó, họ đã cho các chủ tàu buôn ở Địa Trung Hải vay với lãi suất gấp đôi hay gấp ba lãi suất tiết kiệm. Ở nước ta, để chống lạm phát, có thời gian chúng ta đã nâng lãi suất tiền gửi tiết kiệm lên 12%/tháng. Thứ tư, tài trợ các hoạt động của Chính phủ Trong quá trình điều hành nền kinh tế quốc gia, Chính phủ buộc phải đầu tư vào những dự án đem lại nhiều lợi ích cho xã hội mà các doanh nghiệp tư nhân không làm như: xây dựng đường sá, cầu cống và cung cấp hàng hoá công cộng khác. Tuy nhiên, không phải lúc nào ngân sách Chính phủ cũng cho phép tiến hành các hoạt động đầu tư đó. Nếu phát hành thêm tiền thì sẽ làm tăng lượng cung tiền trong nền kinh tế, dẫn đến lạm phát gia tăng và nền kinh tế mất ổn định. Do đó, Chính phủ thường phát hành trái phiếu nhằm tranh thủ nguồn vốn lớn của hệ thống ngân hàng. Thông thường, để được cấp phép hoạt động, các
  15. ngân hàng cần mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được. Điều đó giúp cho Chính phủ có vốn để thực hiện các hoạt động đầu tư của mình mà không phải làm thay đổi lượng cung ứng tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân. Thứ năm, cung cấp các tài khoản giao dịch Cuộc cách mạng công nghiệp ở châu Âu và châu Mỹ đã đánh dấu sự ra đời những hoạt động và dịch vụ ngân hàng mới. Một dịch vụ mới, quan trọng nhất được phát triển trong thời kỳ này là tài khoản tiền gửi giao dịch - một tài khoản tiền gửi cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới này được xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong dịch vụ ngân hàng bởi vì nó cải thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán, làm cho các giao dịch kinh doanh trở nên dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn và an toàn hơn. 1.2.1.2. Các dịch vụ ngân hàng mới phát triển gần đây - Cho vay tiêu dùng: Trong lịch sử, các ngân hàng thường không chú trọng vào các khoản cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình, họ cho rằng các khoản vay đó có mức độ rủi ro cao và quy mô nhỏ. Mặt khác, tỷ lệ sinh lời của chúng thấp nên mức độ hấp dẫn của nó đối với ngân hàng là không đáng kể. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, tình thế đã thay đổi, với xu hướng đa dạng hoá danh mục dịch vụ, các ngân hàng đã cân đối lại cơ cấu khách hàng của mình theo hướng cân bằng các khoản vay: cá nhân, hộ gia đình và doanh nghiệp. Điều đó buộc các ngân hàng phải coi người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng. Hiện nay, nhiều ngân hàng nước ta đã tiến hành cung cấp các dịch vụ cho vay tiêu dùng khá phong phú như: cho vay để mua ôtô, sửa chữa và xây mới nhà cửa và cho vay phục vụ giáo dục như đi du học. Người tiêu dùng vẫn tiếp tục là nguồn vay vốn chủ yếu và tạo ra một trong số những nguồn thu quan trọng của ngân hàng. - Quản lý tiền mặt: Qua nhiều năm, các ngân hàng đã phát hiện ra rằng một số dịch vụ mà họ làm cho bản thân mình cũng có lợi ích đối với khách hàng. Một trong những ví dụ nổi bật nhất là dịch vụ quản lý tiền mặt, trong đó ngân hàng làm dịch vụ quản lý việc thu, chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các
  16. chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. Trong khi các ngân hàng có khuynh hướng chuyên môn hoá vào dịch vụ quản lý tiền mặt cho các tổ chức, hiện nay có một xu hướng đang gia tăng về việc cung cấp các dịch vụ tương tự cho người tiêu dùng. Sở dĩ khuynh hướng này đang lan rộng là do các công ty môi giới chứng khoán, các tập đoàn tài chính khác cung cấp cho người tiêu dùng tài khoản môi giới với hàng loạt dịch vụ tài chính liên quan. - Cho vay tài trợ dự án: Các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho chi phí xây dựng nhà máy mới, đặc biệt là trong ngành công nghệ cao. Do rủi ro trong loại hình tín dụng này nói chung là cao nên chúng th ường được thực hiện qua một công ty đầu tư là thành viên của công ty sở hữu ngân hàng, cùng với sự tham gia của các nhà đầu tư khác để chia sẻ rủi ro. - Bán các dịch vụ bảo hiểm: Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm tín dụng cho khách hàng, điều đó đảm bảo trong trường hợp khách hàng vay vốn bị chết hay tàn phế. Trong khi các quy định ở nước ta hiện nay còn hạn chế các ngân hàng thương mại trực tiếp bán các dịch vụ bảo hiểm, nhiều ngân hàng hi vọng có thể đưa ra các hợp đồng bảo hiểm cá nhân thông thường và hợp đồng bảo hiểm cho khách hàng thông qua các liên doanh hoặc các thoả thuận đại lý kinh doanh độc quyền, theo đó một công ty bảo hiểm đồng ý đặt một văn phòng đại lý tại hành lang của ngân hàng và ngân hàng sẽ nhận một phần thu nhập từ các dịch vụ ở đó. - Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: Trên thị trường tài chính hiện nay, nhiều ngân hàng đang phấn đấu để trở thành một "bách hoá tài chính" thực sự, cung cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính cho phép hàng hoá thoản mãn mọi nhu cầu tại một địa điểm. Đây là một trong những lý do khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Trong một vài trường hợp, các ngân hàng thành lập các công ty môi giới chứng khoán như Công ty chứng khoán Ngân hàng ACB, Công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư phát triển, Công ty chứng khoán Ngân
  17. hàng Công thương Việt Nam. - Cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán buôn: Ngân hàng ngày nay theo chân các tổ chức tài chính hàng đầu trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và dịch vụ ngân hàng buôn bán cho các tập đoàn lớn. Những dịch vụ này bao gồm xác định mục tiêu hợp nhất, tài trợ mua lại công ty, mua bán chứng khoán cho khách hàng (Ví dụ: bảo lãnh phát hành chứng khoán), cung cấp công cụ Marketing chiến lược, các dịch vụ hạn chế rủi ro để bảo vệ khách hàng. Các ngân hàng cũng dấn sâu vào thị trường bảo đảm, hỗ trợ các khoản nợ do chính phủ và công ty phát hành để những khách hàng này có thể vay vốn với chi phí thấp nhất từ thị trường tự do hay từ các tổ chức cho vay khác. Thông qua nghiệp vụ bảo lãnh phát hành, ngân hàng đã tạo ra cho các công ty một kênh huy động vốn mới bên cạnh hình thức cho vay vốn truyền thống. Nhiều công ty đã đánh giá rất cao nghiệp vụ này của ngân hàng, hơn cả hình thức cho vay truyền thống bởi vì nó cung cấp cho họ một nguồn vốn dài hạn với chi phí thấp hơn. Không phải tất cả mọi ngân hàng đều cung cấp nhiều dịch vụ tài chính như danh mục dịch vụ mà chúng tôi đã miêu tả ở trên, nhưng danh mục dịch vụ ngân hàng đang tăng lên nhanh chóng. Nhiều loại hình tín dụng và tài khoản tiền gửi mới đang được phát triển, các loại dịch vụ mới như giao dịch Internet và thẻ thông minh (Smart), bảo hiểm, kinh doanh chứng khoán đang được mở rộng và được tung ra hàng năm. Nhìn chung, danh mục các dịch vụ do ngân hàng cung cấp đã và đang tạo ra một sự thuận lợi rất lớn cho khách hàng. Khách hàng có thể hoàn toàn thoả mãn tất cả các nhu cầu dịch vụ tài chính của mình thông qua một ngân hàng, tại một địa điểm. Thực sự ngân hàng đã trở thành "bách hoá tài chính" ở kỷ nguyên hiện đại. Công việc hợp nhất các dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, môi giới chứng khoán, …dưới một mái nhà chính là xu hướng mà người ta thường gọi là Universal Banking ở Mỹ, Canada và Anh, là Allginanz ở Đức, và là Bancassurance ở Pháp. 1.2.2. Phân tích và đánh giá hoạt động ngân hàng Để phân tích, đánh giá hoạt động của ngân hàng thương mại chúng ta thường sử dụng những chỉ số sau:
  18. 1.2.2.1. Các chỉ số đo lường mức sinh lời Các tỷ lệ chủ yếu phản ánh khả năng sinh lời trong hoạt động ngân hàng được sử dụng hiện nay gồm: Thu nhập sau thuế Tỷ lệ thu nhập trên vốn = (1) chủ sở hữu (ROE) Vốn chủ sở hữu Thu nhập sau thuế Tỷ lệ thu nhập trên = (2) tổng tài sản (ROA) Tổng tài sản I - II Tỷ lệ thu nhập = (3) lãi cận biên (NIM) Tổng tài sản* I: Thu lãi từ các khoản cho vay và đầu tư chứng khoán. II: Chi phí trả lãi cho tiền gửi và nợ khác Thu ngoài lãi - Chi phí ngoài lãi Tỷ lệ thu nhập ngoài = (4) lãi cận biên Tổng tài sản * Nhiều cơ quan quản lý ngân hàng sử dụng tài sản sinh lời để làm mẫu số trong công thức (3) và (4). Tài sản sinh lời là những tài sản tạo ra nguồn thu cho ngân hàng dưới dạng thu lãi hoặc thu ngoài lãi chủ yếu là khoản mục đầu tư và cho vay. Bởi vì trong hệ thống danh mục các tài sản của ngân hàng, không phải tài sản nào cũng sinh lời, do vậy, để đánh giá thực sự tính hiệu quả của tài sản đối với lợi nhuận của ngân hàng, chúng ta sử dụng tổng tài sản thay vì tài sản sinh lời để làm mẫu số trong công thức (3) và (4). Tỷ lệ thu nhập Tổng thu từ hoạt động - Tổng chi phí hoạt động = (5) hoạt động cận biên Tổng tài sản Các chỉ số về khả năng sinh lời nêu trên có sự khác biệt không đáng kể. ROA là chỉ số liên quan đến hiệu quả của công nghệ quản lý mà ngân hàng áp dụn g. Nó cho biết khả
  19. năng của ban lãnh đạo ngân hàng trong quá trình chuyển hoá tài sản của ngân hàng thành thu nhập ròng. Ngược lại ROE phản ánh mức thu nhập cho các cổ đông của ngân hàng. Nó thể hiện hiệu quả đầu tư mà các cổ đông có được khi đầu tư vào ngân hàng. Như vậy, ROA phản ánh quan hệ giữa ngân hàng và ban lãnh đạo trong khi ROE thể hiện mối quan hệ giữa ngân hàng và cổ đông. Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên đo lường mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi phí trả lãi mà ngân hàng có thể đạt được thông qua hoạt động kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời và theo đuổi các nguồn vốn có chi phí thấp nhất. Trái lại, tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên đo lường mức chênh lệch giữa nguồn thu ngoài lãi, chủ yếu là nguồn thu phí từ các dịch vụ với các chi phí ngoài lãi mà ngân hàng phải chịu (gồm tiền lương, chi phí sửa chữa, bảo hành thiết bị, và chi phí tổn thất tín dụng). Đối với hầu hết các ngân hàng, chênh lệch ngoài lãi thường là âm - chi phí ngoài lãi nhìn chung vượt quá thu từ phí, mặc dù tỷ lệ thu từ phí trong tổng các nguồn thu của ngân hàng đã tăng rất nhanh trong những năm gần đây. Tóm lại, hai chỉ số này phản ánh năng lực của lãnh đạo và nhân viên ngân hàng trong việc duy trì sự tăng trưởng các khoản thu. Một biện pháp đo lường hiệu quả chỉ tiêu thu nhập truyền thống khác mà các nhà quản lý sử dụng để điều hành ngân hàng là chênh lệch lãi suất bình quân (hay chênh lệch lãi suất đầu vào - đầu ra), được tính như sau: Thu từ lãi Tổng chi phí trả lãi Chênh lệch = - (6) lãi suất bình quân Tổng tài sản sinh lời Tổng nguồn vốn phải trả lãi Chỉ số chênh lệch lãi suất bình quân dùng để đo lường hiệu quả hoạt động trung gian của ngân hàng trong quá trình huy động vốn và cho vay, đồng thời nó cũng đo lường cường độ cạnh tranh của ngân hàng. Sự gia tăng cạnh tranh có xu hướng làm giảm chỉ số này. Ngoài ra chỉ số này là đưa ra những tín hiệu buộc ban lãnh đạo phải cố gắng tìm ra những giải pháp nâng cao mức chênh lệch lãi suất bình quân. Một thước đo khả năng sinh lợi khác là tỷ lệ hiệu suất sử dụng tài sản cố định, bằng tổng thu nhập hoạt động chia cho tổng tài sản. Tỷ lệ này có thể được chia thành 2 phần quan trọng, phần thứ nhất là mức thu lãi bình quân trên tài sản và mức thu ngoài lãi bình quân
  20. trên tài sản. Bộ phận thứ hai chủ yếu gồm phí thu từ các dịch vụ. Điều này được thể hiện như sau: Tổng thu từ hoạt động Thu nhập lãi Thu nhập ngoài lãi = + (7) Tổng tài sản Tổng tài sản Tổng tài sản Mức độ cạnh tranh trên thị trường và các khoản cho vay kém chất lượng gia tăng tạo ra sức ép buộc các ngân hàng phải chú trọng đến việc tăng nguồn thu ngoài lãi để bù đắp. Điều đó giúp cho ngân hàng có thể tăng thu nhập ròng cho vốn chủ sở hữu của mình. Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, các nhà quản lý ngân hàng hiện đại đang nỗ lực trong việc giảm tỷ trọng tài sản không sinh lời như tiền mặt, tài sản cố định và tài sản vô hình trong tổng tài sản. Theo đó, một thước đo quan trọng khác phản ánh mối tương quan tương đối giữa tài sản không sinh lời và tài sản sinh lời là tỷ lệ tài sản sinh lời: Nếu cho A là các khoản cho vay, B các khoản cho thuê, C là đầu tư chứng khoán và D là tài sản không sinh lời thì tỷ lệ này được tính như sau: Tổng tài sản sinh lời A+B+C Tổng tài sản - D Tỷ lệ tài = = = (8) sản sinh lời Tổng tài sản Tổng tài sản Tổng tài sản Nhìn chung, khi tỷ lệ tài sản sinh lời giảm, hội đồng quản trị và nhân viên của ngân hàng cần làm việc tích cực hơn để có thể duy trì mức thu nhập hiện tại. 1.2.2.2. Các mô hình về khả năng sinh lời Để đánh giá tình hình hoạt động của ngân hàng, người ta thường sử dụng các đẳng thức thể hiện mối liên hệ giữa các chỉ số sinh lời. Ví dụ: 2 chỉ số quan trọng nhất là ROE và ROA liên hệ rất chặt chẽ với nhau. Cả 2 có cùng tử số là thu nhập sau thuế, vì thế, 2 chỉ số này có mối liên hệ trực tiếp như sau: Tổng tài sản ROE = ROA x (9) Vốn chủ sở hữu Nói cách khác:
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2