LUẬN VĂN: Giải pháp phát triển lao động kỹ thuật trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá
lượt xem 41
download
Phát triển nguồn nhân lực là mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, nguồn nhân lực được đào tạo chất lượng cao là tiêu chí quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh trong tiến trình hội nhập quốc tế và là nhân tố cơ bản bảo đảm cho sự phát triển bền vững của quốc gia. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã xác định: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Giải pháp phát triển lao động kỹ thuật trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá
- LUẬN VĂN: Giải pháp phát triển lao động kỹ thuật trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá
- mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Phát triển nguồn nhân lực là mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, nguồn nhân lực được đào tạo chất lượng cao là tiêu chí quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh trong tiến trình hội nhập quốc tế và là nhân tố cơ bản bảo đảm cho sự phát triển bền vững của quốc gia. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã xác định: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Nước ta có nguồn lao động dồi dào, nhưng lao động qua đào tạo chiếm tỷ lệ thấp, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ đào tạo, cơ cấu vùng còn mất cân đối, chưa đáp ứng nhu cầu của sản xuất, CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế và nhu cầu lập thân lập nghiệp đối với người lao động, nhất là thanh niên. Hàng năm nước ta thiếu hàng trăm ngàn công nhân kỹ thuật, công nhân lành nghề đáp ứng cho nhu cầu nhân lực ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, các vùng kinh tế động lực và cho xuất khẩu lao động. Lao động kỹ thuật là bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực, nhưng trong những năm qua cả nước nói chung cũng như tại tỉnh Thanh Hóa nói riêng, việc đào tạo, phát triển, sử dụng LĐKT còn chưa đạt số lượng, chất lượng, cơ cấu, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. Để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hôi của tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn tới cần huy động và phát huy nhiều nguồn lực - trong đó cần tạo ra cơ cấu lao động phù hợp, giải quyết có hiệu quả nghịch lý vừa thừa, vừa thiếu lao động, người lao động thiếu việc làm nhưng đơn vị cần tuyển lao động thì lại không tuyển được người. Để có được đội ngũ công nhân có trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp ngày càng cao, có khả năng tiếp thu nhanh và làm chủ công nghệ mới, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh, thì việc phát triển lực lượng lao động kỹ thuật là nhu cầu cấp thiết và là lý do để tác giả chọn đề tài: “Giải pháp phát triển lao động kỹ thuật trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá” làm luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Quản lý kinh tế.
- 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Liên quan đến đề tài nghiên cứu đã có những công trình khoa học, các bài nghiên cứu đã được công bố như: - Đỗ Minh Cương - Mạc Văn Tiến, Đề tài khoa học cấp nhà nước: "Phát triển LĐKT ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010”. - Nguyễn Đức Tĩnh (2001): "Hoàn thiện quản lý nhà nước về đào tạo nghề ở nước ta hiện nay", Đề tài luận án thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. - Đỗ Thị Xuân Phương (2000): "Phát triển thị trường sức lao động giải quyết việc làm", Đề tài luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. - Nguyễn Thanh (2005): "Phát triển nguồn nhân lực phục vụ CNH, HĐH đất nước", Nxb Chính trị quốc gia- Hà Nội. - Phan Văn Sơn (2007): "Phát triển đội ngũ LĐKT ở thành phố Đã Nẵng - thực trạng và giải pháp", Đề tài luận án thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Các tác giả trên đã tập trung nghiên cứu các phương diện khác nhau xoay quanh nội dung phát triển NNL và lao động kỹ thuật. Tuy nhiên, trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa hiện chưa có đề tài chuyên sâu nào về chủ đề trên được nghiên cứu và công bố. Để thực hiện đề tài, tác giả có kế thừa một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài; khảo sát đánh giá thực trạng trên địa bàn Thanh Hoá, đề xuất giải pháp dựa trên cơ sở những vấn đề đặt ra hiện nay của Thanh Hóa. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn - Mục đích nghiên cứu: Phân tích tình hình đào tạo, sử dụng LĐKT, đề xuất giải pháp phát triển LĐKT ở tỉnh Thanh Hóa đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. - Nhiệm vụ nghiên cứu: + Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về phát triển NNL nói chung và LĐKT nói riêng. + Đánh giá thực trạng phát triển LĐKT ở Thanh Hóa, rút ra kết quả, hạn chế và nguyên nhân.
- + Đề xuất giải pháp nhằm phát triển LĐKT của Thanh Hóa đáp ứng nhu cầu nhân lực cho CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan đến lao động kỹ thuật mang tính thực hành được đào tạo ở các bậc, các hình thức đào tạo khác nhau tại các cơ sở đào tạo, dạy nghề và cơ sở sử dụng lao động và tình hình phân bổ sử dụng, quản lý nhà nước về lao động kỹ thuật trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu thực trạng LĐKT trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn chủ yế u từ năm 2001 đến 2007. Các giả i pháp đề xuấ t ngắ n hạn đ ến 2010 và dài hạ n đến 2015. 5. Cơ sở lý luậ n và phương pháp nghiên c ứu c ủa luậ n văn Luận văn sử dụng phương pháp duy vật bi ện ch ứng, duy vậ t lị ch s ử, tư tưởng Hồ C hí Minh và các nghị quyết của Đả ng về giáo dục, đào tạ o NNL và các phương pháp: - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết - Phương pháp điều tra, khảo sát - Phương pháp chuyên gia - Phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, đánh giá, dự báo. 6. Những đóng góp chủ yếu của luận văn - Về lý luận: Làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về lao động, LĐKT, đào tạo, sử dụng, quản lý LĐKT trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế. - Về thực tiễn: Đóng góp một số giải pháp cơ bản về quản lý phát triển LĐKT trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho cán bộ quản lý cấp tỉnh, huyện trong công tác quản lý nhà nước về đào tạo và phát triển lao động kỹ thuật tại Thanh Hoá. 7. Kết cấu của luận văn
- Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 10 tiết.
- Chương 1 Một số vấn đề chung về lao động kỹ thuật và phát triển lao động kỹ thuật 1.1. Khái niệm và vai trò của lao động kỹ thuật trong phát triển kinh tế 1.1.1. Khái niệm lao động và lao động kỹ thuật * Khái niệm lao động Lao động là hoạt động hữu ích của con người nhằm sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cần thiết để thoả mãn những nhu cầu của từng cá nhân nói riêng cũng như toàn xã hội nói chung. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, lao động của con người cũng không ngừng phát triển và chuyên sâu thành các mức độ khác nhau có thể phân biệt qua những khái niệm cụ thể sau: Lao động giản đơn là lao động không đòi hỏi phải đào tạo về chuyên môn cũng có thể thực hiện được một công việc nào đó. Tất nhiên lao động giản đơn còn được phân biệt trên cơ sở so sánh tương quan giữa các loại lao động khác nhau trong tổng số lao động tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Lao động lành nghề là lao động có trình độ chuyên môn được đào tạo, huấn luyện hay qua tích luỹ kinh nghiệm trong thực tiễn để thực hiện công việc phức tạp mà lao động giản đơn không làm được. Theo C.Mác “Lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn”. Lao động qua đào tạo (còn được gọi là là lao động có chuyên môn kỹ thuật), là lao động được đào tạo qua các trình độ từ sơ cấp nghề, công nhân kỹ thuật, THCN, CĐ, ĐH và sau ĐH. Trong thống kê cũng như trong điều tra lao động- việc làm còn có khái niệm “Lao động qua đào tạo nghề”, đó là một bộ phận của lao động qua đào tạo được cấp bằng nghề hoặc chứng chỉ nghề ở hệ thống giáo dục nghề nghiệp trong hệ thống giáo dục quốc dân, mà giáo dục nghề nghiệp thì bao gồm đào tạo trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề. * Khái niệm lao động kỹ thuật Thuật ngữ “Lao động kỹ thuật” tuy chưa được đưa vào từ điển Bách khoa ở Việt Nam nhưng trong thực tế được dùng khá phổ biến. Trong một số tài liệu, một số nghiên
- cứu của các nhà khoa học cũng có đề cập đến khái niệm này nhưng với các cách hiểu khác nhau. Năm 1982, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã có chỉ thị số 151/CT ngày 25 tháng 5 năm 1982 về thống kê lao động kỹ thuật ở Việt Nam. Theo đó lao động kỹ thuật là: tất cả các cán bộ khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ đã tốt nghiệp (có bằng cấp) từ bậc trung học chuyên nghiệp trở lên và công nhân kỹ thuật. Hiện nay cần thay đổi quan niệm công nhân kỹ thuật và thay vào đó là lao động có nghề hoặc người đã được đào tạo nghề, trong nền kinh tế hiện đại, giáo dục nghề nghiệp còn phát triển đào tạo các trình độ cao hơn như CĐ kỹ thuật, ĐH kỹ thuật mang tính thực hành và trong thực tế công nhân kỹ thuật có thể không có bằng, chứng chỉ nghề nhưng lại có kỹ năng nghề nhất định và có kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh, được thống kê theo chỉ tiêu thống kê lao động việc làm hàng năm của cơ quan thống kê theo chỉ tiêu “công nhân kỹ thuật không có bằng” nên cũng cần được mở rộng, nghiên cứu thống nhất. Đề án nghiên cứu tổng thể về giáo dục- đào tạo và phân tích nguồn nhân lực Việt Nam (VIE/89/022) do UNESCO, UNDP, Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện đã đưa ra khái niệm “Lao động kỹ thuật” và cho rằng: lao động kỹ thuật là lao động qua đào tạo được cấp bằng hoặc chứng chỉ của các bậc đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất. Theo khái niệm này người lao động được xếp vào loại lao động kỹ thuật nếu hội tụ đủ hai yếu tố: được đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất; được cấp bằng hoặc chứng chỉ của các bậc đào tạo. LĐKT theo quan niệm này đồng nghĩa với khái niệm “lao động qua đào tạo” hay khái niệm “lao động chuyên môn kỹ thuật” thường được dùng trong thống kê nhà nước, nghĩa là lao động được đào tạo và được cấp văn bằng hoặc chứng chỉ. Lao động kỹ thuật theo khái niệm của dự án VIE/89/022 xét về tính chất lao động bao gồm hai loại: - Lao động kỹ thuật mang tính chất thực hành. - Lao động chuyên môn (quản lý, nghiên cứu và chuyên gia) mang tính hàn lâm. Như vậy, khái niệm lao động kỹ thuật ở đây được hiểu theo hai cấp độ: theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp.
- Theo nghĩa rộng: lao động kỹ thuật là loại lao động qua đào tạo, được cấp bằng hoặc chứng chỉ của các bậc đào tạo nói chung; theo nghĩa hẹp lao động kỹ thuật là lao động mang tính chất thực hành. Với khái niệm này, nhóm tác giả Đỗ Minh Cương và Mạc Văn Tiến cho rằng: lao động kỹ thuật (theo nghĩa hẹp) Là loại lao động được đào tạo, cấp bằng hoặc chứng chỉ của các bậc đào tạo trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp của hệ thống giáo dục quốc dân, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động và có kỹ năng hành nghề để thực hiện các công việc có độ phức tạp với các công nghệ khác nhau, phù hợp với ngành, nghề ở các cấp trình độ khác nhau, trực tiếp tạo ra sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ phục vụ quốc kế dân sinh [12, tr.21]. Theo khái niệm trên, LĐKT phải có 2 điều kiện: - Thứ nhất, được đào tạo và cấp bằng hoặc chứng chỉ của các bậc đào tạo của hệ thống giáo dục nghề nghiệp (đào tạo trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề) [36, tr.2]. - Thứ hai, có kỹ năng hành nghề để tạo ra sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ... Tuy nhiên, trong thực tế sản xuất kinh doanh vẫn tồn tại một bộ phận người lao động do nhiều nguyên nhân khác nhau vẫn chưa đạt điều kiện một nhưng do tích luỹ kinh nghiệm hoặc được truyền nghề, kèm cặp trực tiếp nên có thể đáp ứng điều kiện hai. Vì vậy nếu xem điều kiện một là điều kiện cần thì có thể đề ra chính sách để có thể giúp họ hoàn thiện bằng cách học thêm và tổ chức thẩm định cấp chứng chỉ công nhận và từ đó cần mở rộng khái niệm này để nghiên cứu. Trong thuật ngữ LĐ-TB-XH cho rằng “ LĐKT sản xuất kinh doanh là người lao động có trình độ và kỹ xảo nhất định thông qua đào tạo hoặc tích luỹ kinh nghiệm thực tế, đảm nhiệm được những công việc phức tạp, đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật - công nghệ, có khả năng truyền nghề hoặc dạy nghề [2, tr.5]. Như vậy theo “ Thuật ngữ LĐ-TB và XH “ những người có trình độ, kỹ năng, kỹ xảo nhất định (chưa có bằng hoặc chứng chỉ đào tạo) cũng thuộc nhóm LĐKT. Trong quản trị doanh nghiệp, để định mức hao phí thời gian lao động thường chia lao động thành lao động công nghệ, lao động phụ trợ, phục vụ và lao động quản lý. LĐKT được xếp vào lao động công nghệ là lao động trực tiếp thực hiện nhiệm vụ sản xuất theo
- qui trình công nghệ nhằm biến đổi đối tượng lao động về hình dáng, kích thước, cơ lý hoá tính… để hình thành sản phẩm. Đây là loại lao động chiếm tỷ trọng lớn trong doanh nghiệp. Như vậy LĐKT phải gắn với thị trường lao động, là loại lao động mang tính thực hành, trực tiếp vận hành máy móc thiết bị để tạo ra sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ đáp ứng nhu cầu xã hội. Từ các cách biểu hiện trên, có thể nêu khái niệm LĐKT như sau: “LĐKT là loại lao động được đào tạo và cấp bằng hoặc chứng chỉ phù hợp theo trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục nghề nghiệp trong hệ thống giáo dục quốc dân hoặc tích luỹ kinh nghiệm thực tế, có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp được công nhận bởi một cơ quan (tổ chức) có thẩm quyền và đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động”. Khái niệm LĐKT trên đảm bảo sự phù hợp với Quyết định số 48/2002/QĐ-TTg ngày 11 tháng 4 năm 2002 của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt qui hoạch mạng lưới trường dạy nghề giai đoạn 2002-2010, Quyết định số 201/2002/QĐ-TTg ngày 28 tháng 12 năm 2002 của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 và luật giáo dục năm 2005 nhằm “hình thành hệ thống đào tạo kỹ thuật thực hành áp ứng nhu cầu phát triển KT-XH, trong đó chú trọng phát triển đào tạo nghề ngắn hạn và đào tạo công nhân kỹ thuật, kỹ thuật viên, nhân viên nghiệp vụ có trình độ cao” và mở rộng đào tạo công nhân kỹ thuật, kỹ thuật viên và nhân viên nghiệp vụ theo nhiều trình độ; liên thông giữa các ngành nghề, các trình độ đào tạo nghề với các trình độ đào tạo khác trong trong hệ thống giáo dục quốc dân”. Lao động kỹ thuật hiện nay còn phải đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, phải là loại lao động có kiến thức, có kỹ năng, có trình độ đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư, của các doanh nghiệp và phải đảm bảo trên cả ba mặt của chất lượng lao động là thể lực, trí lực và phẩm chất. 1.1.2. Phân loại lao động kỹ thuật Sơ đồ phân loại LĐKT theo cơ cơ cấu lực lượng lao động như sau (sơ đồ 1.1). Theo sơ đồ này, các khái niệm liên quan gồm: Lực lượng lao động (hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế) bao gồm toàn bộ những người đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc đang tìm kiế m
- việc làm. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động (hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế trong độ tuổi lao động) bao gồm những người trong độ tuổi lao động (nam từ 15 tuổi đến 60 tuổi; nữ từ 15 tuổi đến 55 tuổi) đang có việc làm hoặc không có việc làm(thất nghiệp) nhưng có nhu cầu tìm việc hoặc sẵn sàng làm việc [41, tr.16]. Sơ đồ 1.1: Phân loại LLLĐ LLLĐ(dân số hoạt động kinh tế ) LĐ qua đào LĐ không qua tạo(Có bằ ng/ đào t ạo(Không chứng chỉ ) có bằ ng/ Lao đ ộng Lao đ ộng LĐKT LĐKT(chưa có không CMKT chuyên bằng/ chứ ng (hệ t hực chỉ) môn(h ệ hàn hành) Dạy nghề Sơ cấ p nghề(bán lành nghề ) Trung cấp nghề(lành nghề) Th ị trườ ng CĐ nghề(trình lao độ ng độ cao) - Lao động qua đào tạo là loại lao động được đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất, được cấp bằng/ chứng chỉ của các bậc đào tạo, có thể là đào tạo chính qui hoặc không chính qui, đào tạo dài hạn hay ngắn hạn, theo các chương trình do Nhà nước qui định, đúng với qui định của Luật Giáo dục.
- - Lao động không qua đào tạo thường là lao động giản đơn, trường hợp tự học, tự tích luỹ kinh nghiệm thực tế có thể làm được những công việc chuyên môn phức tạp do được kèm cặp truyền nghề, nếu muốn xếp vào LĐKT cần được bồi dưỡng về lý thuyết để thi để được cấp bằng/ chứng chỉ(bộ phận này cần được qui định bởi cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền). - Lao động chuyên môn: là loại lao động được đào tạo và cấp bằng thuộc hệ cao đẳng, đại học, sau đại học được đào tạo mang tính hàn lâm, coi trọng lý thuyết, nếu muốn làm công việc của LĐKT thực hành thì phải qua chương trình đào tạo liên thông để bổ sung hoặc nâng cao kỹ năng thực hành, loại này bao gồm các nhà nghiên cứu, nhà quản lý, chuyên gia … - Dạy nghề (đào tạo nghề): hiện nay trong các văn bản pháp qui của nhà nước, khái niệm dạy nghề hoặc đào tạo nghề được dùng rất phổ biến. Để có NNL trực tiếp lao động sản xuất có tay nghề đáp ứng yêu cầu cho phát triển KT-XH, rất cần thiết phải đào tạo nghề nghiệp và do tầm quan trọng như vậy Nhà nước đã ban hành Luật Dạy nghề. Theo điều 5 Luật Dạy nghề qui định “ là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho ngườì học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khoá học” [37, tr.9]. Thuật ngữ “đào tạo LĐKT” tuy mới xuất hiện cách đây chưa lâu, nhưng ngày càng làm sáng tỏ chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập, phát triển kinh tế tri thức. Đã đến lúc chúng ta phải thống nhất dùng khái niệm “đào tạo lao động kỹ thuật” thay thế cho khái niệm“ dạy nghề” hoặc “ đào tạo nghề” trong các văn bản pháp quy và trong đời sống xã hội. Trong trường hợp còn sử dụng thuật ngữ ” dạy nghề” hoặc “ đào tạo nghề” thì phải được hiểu với nội dung mới, đó là “ đào tạo lao động kỹ thuật” trong hệ thống đào tạo kỹ thuật thực hành. 1.1.3. Vai trò của lao động kỹ thuật trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế CNH, HĐH là một quá trình, quá trình này ở Việt Nam do Đảng ta đề ra là quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp truyền thống sang công nghiệp hiện đại, là: Quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện
- và phương pháp tiên tiến, hiện đại tạo ra năng suất lao động xã hội cao [25, tr.502]. Do vậy phát triển LĐKT phải đáp ứng cho CNH, HĐH để thực hiện mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Cần phải huy động mọi nguồn lực cho phát triển, trong đó nguồn lực con người là quan trọng nhất, trong đó có LĐKT. Đối với nước ta, bắt đầu từ một xuất phát điểm thấp, muốn rút ngắn quá trình CNH, HĐH việc phát huy nội lực, phát huy nhân tố con người là cách làm đúng đắn và khôn ngoan nhất và nguồn lực này có vai trò rất quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế thế giới. Thứ nhất, LĐKT với tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là một trong những mục tiêu quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia, đồng thời là chỉ tiêu chủ yếu đánh giá trình độ phát triển của quốc gia đó. Để tăng trưởng phải phát huy tối đa các nguồn lực và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó. Các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế thông thường bao gồm: tài nguyên thiên nhiên, vốn, công nghệ và nguồn nhân lực. Tuỳ theo điều kiện mỗi quốc gia việc sử dụng các nguồn lực này và cách kết hợp các nguồn lực này cũng rất khác nhau. Các nhà kinh tế Paul A Samuelson và Wiliam D Nordhalls cho rằng: Vốn, nguyên vật liệu, công nghệ... đều có thể mua hoặc vay được trong nền kinh tế thế giới. Một nước có thể mua những thiết bị thông tin, viễn thông, máy tính, máy phát điện và máy bay chiến đấu hiện đại nhất. Thế nhưng những hàng hoá vốn này chỉ có thể được sử dụng và duy trì hữu hiệu bởi những người công nhân có kỹ năng và được đào tạo. Trình độ văn hoá, sức khoẻ, kỷ luật được nâng cao và gần đây nhất là khả năng sử dụng máy tính đã làm cho năng suất lao động tăng thêm rất nhiều [40, tr.311-312]. Là một nước kinh tế kém phát triển, mục tiêu tăng trưởng kinh tế càng cấp bách đối với nước ta. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X xác định: "Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển” [21, tr.185].
- Để tăng trưởng cần dựa vào vốn, lao động và công nghệ, rõ dàng để tăng trưởng nhanh cần đầu tư công nghệ cao, sử dụng nhiều vốn nhưng đối với Việt Nam nói chung và Thanh Hoá nói riêng chúng ta xuất phát điểm từ một nền kinh tế nông nghiệp, tích luỹ ban đầu thấp, vốn đầu tư có giới hạn nhưng lao động dư thừa lớn. Với dân số đông, lao dộng dồi dào vừa là nội lực, vừa là mục tiêu phát triển, cần quan tâm giải quyết vấn đề con người nên phải lựa chọn công nghệ sử dụng nhiều lao động với hệ số co giãn việc làm cao (khoảng 0,23-0,33) để tạo nhiều việc làm cho người lao động. Cần giải quyết hài hoà bài toán vừa đảm bảo tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, vừa đảm bảo yêu cầu tạo nhiều việc làm. Đào tạo LĐKT cũng liên quan đến việc giải bài toán trên, vừa cần cung cấp LĐKT trình độ cao cho sử dụng công nghệ tiên tiến sử dụng nhiều vốn, vừa phải có lao động bán lành nghề và lành nghề cung cấp cho các ngành sử dụng công nghệ cần nhiều lao động. Thứ hai, LĐKT với thay đổi cơ cấu lao động, giải quyết việc làm. ở nước ta việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng CNH, HĐH tác động rất lớn đến đào tạo và phát triển LĐKT, phải đảm bảo mối quan hệ biện chứng giữa cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động căn cứ vào cơ cấu kinh tế để hình thành cơ cấu lao động đảm bảo sự phù hợp với cơ cấu kinh tế ở nước ta, quá trình chuyển dịch kinh tế từ cơ cấu kinh tế cũ lạc hậu sang cơ cấu kinh tế mới tiến bộ chúng ta đang vấp phải một lực cản là cơ cấu lao động quá lạc hậu chuyển dịch chậm so với cơ cấu kinh tế. Cơ cấu lao động hiện đang mất cân đối nghiêm trọng nhất là cơ cấu LĐKT, trong khi lao động phổ thông dư thừa lớn lại thiếu trầm trọng lao động kỹ thuật nhất là lao động kỹ thuật trình độ cao ở các ngành như tin học, viễn thông, công nghiệp chế biến, xây dựng công nghiệp, lắp máy… lao động kỹ thuật cho xuất khẩu lao động và chuyên gia. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp, phát huy thế mạnh của từng vùng, từng ngành, từng thành phần kinh tế trong sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế tăng sức cạnh tranh tạo ra bước đột phá trong phát triển rất cần một đội ngũ LĐKT đáp ứng được cho nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đào tạo LĐKT một mặt phải nhằ m khắc phục dần mất cân đối cơ cấu lao động đồng thời chuẩn bị một đội ngũ LĐKT đủ để cung cấp kịp thời các ngành, các vùng kinh tế và hướng tới kinh tế tri thức. Thứ ba, LĐKT với nâng cao năng lực cạnh tranh, hội nhập
- Nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trên 3 nội dung: khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ, của doanh nghiệp và của quốc gia trong kinh tế thị trường và trong hội nhập kinh tế quốc tế là điều sống còn đối với mỗi quốc gia. Trong thời gian qua Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 169 nước, đã tham gia vào các tổ chức, các diễn đàn quốc tế lớn như: ASEAN, ASEM, WTO… , mở rộng quan hệ buôn bán với 224/225 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký 87 hiệp định thương mại song phương, 350 hiệp định hợp tác phát triển với các nhà tài trợ, 48 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 42 hiệp định tránh đánh thuế 2 lần, 37 hiệp định hợp tác về văn hoá song phương với các nước và tổ chức quốc tế. Việc gia tăng quan hệ kinh tế thương mại, gia tăng kim ngạch xuất khẩu đã góp phần tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong những năm qua. Từ một nước có mức tăng trưởng kém, đến nay Việt Nam luôn đạt mức tăng trưởng 7%, đứng thứ 2 sau Trung Quốc, kim ngạch xuất khẩu đã đóng góp 50% GDP năm 2004…[46, tr.124-125]. Tuy vậy theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) năm 2008 năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam vẫn là vấn đề thách thức đáng lo ngại; báo cáo đánh giá kết quả xếp hạng khả năng cạnh tranh toàn cầu năm 2008, Việt Nam đứng thứ 70 trên tổng số 126 quốc gia và nền kinh tế được xếp hạng. Tụt 2 bậc so với năm 2007 và tụt liên tiếp trong 3 năm qua (năm 2006 hạng 64, năm 2007 hạng 68 và 2008 hạng 70) kết quả này dựa trên kết quả khảo sát 11.000 doanh nghiệp quốc tế và xem xét các nền kinh tế trên 12 “trụ cột” của năng lực cạnh tranh với 3 nhóm yếu tố (bảng 1.1). Cũng trong cuộc khảo sát theo ý kiến các chuyên gia trong 3 “vấn đề đáng lo ngại nhất” thì có 1 vấn đề liên quan đến lao động là “thiếu lao động có trình độ”. Như vậy, đối với nước ta tuy kinh tế tăng trưởng nhanh nhưng lại tụt hạng về năng lực cạnh tranh thì vẫn là vấn đề đáng lo ngại. Nước ta đang cố gắng: cải cách giáo dục, cải cách thủ tục hành chính, phòng chống tham nhũng, nâng cao hiệu quả kinh tế vĩ mô…nhằm cải thiện khả năng cạnh tranh, nhưng nếu các lĩnh vực khác chưa cải cách hoặc cải cách chậm trễ nhất là trong việc phát triển đội ngũ LĐKT, áp dụng công nghệ hiện đại… thì cũng khó thu hẹp được khoảng cách trong cải thiện thứ bậc cạnh tranh so với các nước trong khu vực cũng như thế giới. Vì vậy nâng cao chất lượng NNL nhất là đội ngũ LĐKT trình độ cao cho các lĩnh vực mang tính đột phá như: công nghệ thông tin, công
- nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hoá…Hạ thấp chi phí lao động trong giá thành sản phẩm dịch vụ mới có thể tăng năng lực cạnh tranh trong khu vực và quốc tế. Bảng 1.1: Đánh giá của WEF về năng lực cạnh tranh của Việt Nam năm 2008 Các yếu tố đánh giá Xếp hạng Điểm số Nhóm 1: các yếu tố căn bản 79 4.2 1. Các định chế 71 3.9 2. Cơ sở hạ tầng 93 2.9 3. ổn định kinh tế vĩ mô 70 4.9 4. Y tế và giáo dục phổ thông 84 5.3 Nhóm 2: Các yếu tố cải thiện hiệu quả 73 3.9 5. Đào tạo và giáo dục đại học 98 3.4 6. Hiệu quả của thị trường hàng hoá 70 4.2 7. Hiệu quả của thị trường lao động 47 4.5 8. Trình độ của thị trường tài chính 80 4.1 9. Mức độ sẵn sàng cho công nghệ 79 3.1 10. Quy mô của thị trường 40 4.4 Nhóm 3: Các yếu tố sáng tạo 71 3.6 11. Trình độ của doanh nghiệp 84 3.8 12. Sáng tạo 57 3.3 Nguồn: Vietnamnet- Bùi Văn (09/10/08). 1.2. phát triển lao động kỹ thuật 1.2.1. Khái niệm phát triển lao động kỹ thuật Nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. LĐKT là bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực, phát triển LĐKT cũng là góp phần phát triển nguồn nhân lực phục vụ CNH, HĐH. Theo nhóm tác giả Đỗ Minh Cương và Mạc Văn Tiến: “Phát triển LĐKT là quá trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu LĐKT ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của thị trường lao động và của nền kinh tế - xã hội trong quá trình CNH, HĐH” [12, tr.37].
- Phát triển LĐKT phải nhằm đáp ứng thị trường lao động, đó là quá trình đào tạo, phân bổ sử dụng và quản lý LĐKT. Phát triển LĐKT cần phải tác động vào các yếu tố hợp thành của LĐKT làm cho nó biến đổi đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở từng giai đoạn. 1.2.2. Nội dung phát triển lao động kỹ thuật Một là, làm tăng qui mô số lượng LĐKT Đây là khâu đầu tiên, quan trọng để tác động vào việc phát triển LĐKT. ở nước ta nói chung và Thanh Hoá nói riêng số lao động qua đào tạo chiếm tỉ lệ thấp. Hiện nay một trong những rào cản đối với việc giải ngân vốn FDI là thiếu trầm trọng lao động có chuyên môn kỹ thuật và lao động quản lý. Các khu công nghiệp, khu chế xuất tình hình cũng tương tự, mới chỉ đáp ứng 5-10%, lực lượng công nhân lành nghề cũng chỉ mới đáp ứng được 30-40% [9, tr.43] nước ta đang trong tình trạng thiếu cả thầy lẫn thợ. Làm tăng qui mô số lượng LĐKT là nội dung quan trọng tạo tiền đề cho phát triển LĐKT, đi từ quá trình thay đổi về lượng để tiến đến biến đổi về chất. Hiện nay đi đôi với việc tăng nhanh số lượng LĐKT bán lành nghề, lành nghề để cung cấp nhân lực cho các ngành nghề đang áp dụng công nghệ đang sử dụng nhiều lao động cần phải tăng nhanh số LĐKT có trình độ cao đáp ứng cho các đơn vị áp dụng công nghệ mới. Thứ hai, phát triển về chất lượng LĐKT. Đây là nội dung quan trọng bậc nhất, chiều sâu của phát triển LĐKT. Hiện nay giáo dục và đào tạo của nước ta nói chung và tỉnh Thanh Hoá nói riêng còn nhiều yếu kém, trong đó có chất lượng đào tạo LĐKT "Phát triển giáo dục nghề nghiệp và giáo dục ĐH chưa cân đối với giáo dục THPT. Đào tạo nghề còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng" [21, tr.170-171]. Thực tế, lao động qua đào tạo nghề từ các cơ sở dạy nghề ở nước ta về cơ bản chưa đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các khu chế xuất, khu công nghiệp…. Phát triển chất lượng LĐKT một mặt nâng cao kỹ năng, kỹ xảo của người lao động ở các trình độ tương ứng với độ phức tạp của công việc trong sản xuất, kinh doanh. Mặt khác phải trau dồi đạo đức nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỹ luật lao động, phải có tinh thần say mê với nghề nghiệp, sáng tạo trong lao động sản xuất.
- Phát triển chất lượng LĐKT phải tăng dần tỷ trọng đào tạo nghề dài hạn và trình độ đào tạo ở các bậc cao như trung cấp nghề, CĐ nghề, ĐH kỹ thuật trong tổng số lao động kỹ thuật. Phát triển chất lượng LĐKT còn chú trọng đến tăng cường thể lực, sức khoẻ, trí lực. Phát triển chất lượng LĐKT phải hội nhập, tương thích với hệ thống chuẩn mực của thế giới và khu vực. Các yếu tố cấu thành hệ thống đào tạo phải đạt các chuẩn khu vực và thế giới, kể cả hệ thống văn bằng, chứng chỉ. Thứ ba, biến đổi về cơ cấu LĐKT. Cơ cấu LĐKT phải biến đổi phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, vùng kinh tế tạo ra áp lực chuyển đổi cơ cấu LĐKT hợp lý, cho phù hợp với nhu cầu sử dụng nhân lực. Trong bối cảnh cách mạng KH- CN bùng nổ quá trình toàn cầu hoá diễn ra với tốc độ nhanh chưa từng có, chúng ta đang đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại cần nhanh chóng hình thành cơ cấu LĐKT hợp lý, phù hợp với chiến lược, qui hoạch phát triển đất nước theo từng thời kỳ. Biến đổi cơ cấu LĐKT hợp lý trong phát triển LĐKT phải gắn với phân bổ LĐKT cho từng ngành nghề, từng vùng kinh tế tránh hiện tượng dư thừa ngành này, thiếu hụt ngành kia, tình trạng vừa thừa, vừa thiếu gây lãng phí cho xã hội. Thực tế ở nước ta, lực lượng lao động chuyên môn kỹ thuật hiện phân bổ còn bất hợp lý giữa các cấp, ngành, vùng kinh tế, nông thôn, thành thị. Đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật lại phân bổ không đồng đều, phần lớn làm việc ở các cơ quan trung ương(94,4%); trong các doanh nghiệp số lao động có trình độ CĐ trở lên chỉ chiếm 32% (trong khi đó ở Hàn Quốc là 48%, Nhật Bản là 64,4 %, Thái Lan 58,2%). Riêng lao động ở nông thôn chiếm 70,1% cả nước nhưng chỉ có 10% qua đào tạo, trong đó đào tạo nghề chỉ có 0,44%. LLLĐ khoa học kỹ thuật được đào tạo cho ngành nông nghiệp thì 89,9% làm việc ở các cơ quan trung ương, cấp tỉnh chỉ có 8,9% còn cấp huyện 1,8% ở cấp xã và cơ sở hầu như không có. Ngành luyện kim hơn 32% công nhân không có tay nghề chuyên môn, ngành xây dựng có tới 63%, hơn 11% chỉ có tay nghề bậc 1 và bậc 2. Số công nhân học hết tiểu học là 12,72%, hết THCS là 39,51%, hết THPT là 30,75%. Số nhân viên tốt nghiệp đại học chỉ chiếm 10,18% [9, tr.43-44].
- Thứ tư, sử dụng hiệu quả LĐKT. Đây là nội dung quan trọng của phát triển LĐKT. Hiệu quả sử dụng LĐKT liên quan đến nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí lao động trong tổng chi phí sản xuất sản phẩm, dịch vụ của từng doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế, là điều kiện để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như thế giới. Hiệu quả sử dụng liên quan chặt chẽ với bố trí cơ cấu LĐKT hợp lý, đúng người, đúng việc, bố trí đúng chuyên môn, người có trình độ tay nghề cao cần được bố trí ở những việc, những khâu, những công đoạn phức tạp và qua đó có mức thù lao tương xứng với với công việc và cống hiến của người lao động. Điều này vừa góp phần nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm vừa khuyến khích người lao động thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn. Sử dụng hiệu quả LĐKT cũng liên quan chặt chẽ với công nghệ sản xuất, với công cụ lao động, hiện nay cần hài hoà trong việc áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, phải có những ngành, những khu vực chuyển dần từ công nghệ sử dụng nhiều lao động sang công nghệ sử dụng nhiều vốn (công nghệ hiện đại, công nghệ cao để đảm bảo tăng trưởng kinh tế cao), hệ số co giãn việc làm so với 1% tăng GDP có xu hướng giảm nhưng đây chính là xu hướng tăng nhu cầu sử dụng LĐKT, nhất là LĐKT trình độ cao, thị trường LĐKT sẽ phát triển với sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt, cũng cần chú ý đến việc giải quyết công ăn việc làm của lao động do sức ép tăng lao động, do phần khó khăn về vốn không thể ngay lập tức đầu tư công nghệ mới trên tất cả các ngành, các vùng cũng như hiện tượng thất nghiệp cơ cấu do không cân đối cung cầu lao động kỹ thuật trong không gian và thời gian cũng như biến động quan hệ cung cầu lao động. Sử dụng hiệu quả LĐKT còn liên quan tới việc ban hành và áp dụng các chế độ, chính sách đối với người lao động, nếu ban hành và áp dụng các chế độ, chính sách phù hợp, kịp thời sẽ tạo ra khả năng khai thác tính tích cực, năng động của người lao động, cần chú ý cả quyền lợi về vật chất cũng như tinh thần của người lao động. Sử dụng hiệu quả LĐKT đòi hỏi phải tạo lập thị trường lao động, Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chủ trương “Phát triển đồng bộ các loại thị trường và tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và “Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, tạo môi trường thông suốt để phát triển thị trường lao động, gắn kết cung- cầu lao động. Đa dạng hoá các hình thức giao dịch việc làm, đảm bảo quyền của
- người lao động lựa chọn chỗ làm việc. Thực hiện rộng rãi chế độ hợp đồng lao động; bảo đảm quyền lợi hợp pháp của cả người lao động và người sử dụng lao động; thực hiện chế độ bảo hiểm và trợ cấp thất nghiệp. Tăng cường hệ thống thông tin, thống kê thị trường lao động. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động và tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động này”. Qua thị trường lao động quan hệ cung - cầu về LĐKT có điều kiện gặp nhau, giúp cho người sở hữu sức lao động có thể bán nó đúng giá trị như nó vốn có, ngược lại người bỏ tiền mua sức lao động có thể thuê được sức lao động phù hợp với nhu cầu và khả năng của mình. Thông qua thị trường lao động, người lao động dễ dàng chuyển đổi chỗ làm việc thích hợp hơn với họ, nơi họ có thể làm việc với năng xuất cao hơn và thu nhập khá hơn. 1.2.3. Các yếu tố tác động đến phát triển lao động kỹ thuật Để đạt mục tiêu phát triển đất nước theo đường lối do Đảng đề ra, giáo dục, đào tạo nhân lực nói chung và đào tạo LĐKT phải đi trước một bước. Vì vậy cần nhanh chóng phát triển LĐKT, nội dung phát triển LĐKT chịu tác động của nhiều yếu tố, trong đó trực tiếp là các yếu tố như cung, cầu LĐKT, quản lý nhà nước về LĐKT, khoa học công nghệ, cơ chế thị trường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập … 1.2.3.1. Các yếu tố tác động đến cung lao động kỹ thuật Cung lao động kỹ thuật được hình thành từ nhiều nguồn trong đó có hai hướng chính là cung LĐKT từ bên trong, ngay chính tại địa bàn tỉnh Thanh Hoá và nguồn cung từ bên ngoài (các địa phương khác, từ nước ngoài). Nguồn cung tại địa bàn trước hết được đảm bảo từ số học sinh tốt nghiệp tại các trường, cơ sở đào tạo, dạy nghề. Nguồn này phụ thuộc vào năng lực đào tạo của các trường, cơ sở đào tạo, dạy nghề trong đó bao gồm qui mô trường lớp, đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất thiết bị dạy nghề, chương trình, giáo trình… và khả năng tuyển sinh, cơ hội tiếp cận học nghề của người học, tính hiệu quả của chương trình định hướng nghề nghiệp của địa phương và của giáo dục THCS, THPT. Việc đầu tư mở thêm trường, nâng cấp trường hiện có, tăng qui mô tuyển sinh, tăng cường đội ngũ giáo viên về số lượng và chất lượng cũng là động lực làm tăng cung LĐKT. Chất lượng đào tạo LĐKT là một trong những yếu tố quan trọng nhất đối với việc duy trì và phát triển từ nguồn này.
- Nguồn cung thứ hai hiện nay về LĐKT được hình thành từ các giao dịch trên thị trường lao động. Hoạt động của thị trường này làm thông tin về cung - cầu lao động được nối liền giữa người sử dụng lao động và người lao động qua các kênh giao dịch như hội chợ việc làm, sàn giao dịch việc làm, trung tâm môi giới, giới thiệu việc làm, qua quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, qua internet… Sự điều tiết của thị trường lao động sẽ kích thích, định hướng, tác động mạnh đến cung số lượng, chất lượng LĐKT theo yêu cầu của thị trường lao động. Nguồn cung thứ ba về LĐKT là từ các doanh nghiệp, các cơ sở sử dụng lao động, khi các đơn vị có nhu cầu nhưng không tuyển đủ hoặc không có lao động phù hợp với yêu cầu sử dụng họ tự tuyển để kèm cặp, hướng dẫn nghề, hình thức này thường áp dụng đối với dạy nghề ngắn hạn khi doanh nghiệp có áp dụng công nghệ mới, mở rộng qui mô sản xuất hoặc tại các cơ sở thủ công mỹ nghệ như sản xuất vật liệu xây dựng, chế tác đá, may mặc… Hình thức này rất linh hoạt và thường đảm bảo việc làm cho hầu hết lao động được tuyển dụng đào tạo, kèm cặp dạy nghề. Ngoài ra LĐKT còn được cung từ các địa phương khác và có thể từ nước ngoài. Do nhu cầu LĐKT của Thanh Hoá cùng với sự phát triển kinh tế và nhu cầu nhân lực tại địa phương, các yếu tố hấp dẫn về môi trường làm việc, tiền lương…Đây cũng là một nguồn cung có xu hướng tăng trong tương lai, nhất là đối với LĐKT chất lượng cao hoặc LĐKT ở những ngành tỉnh chưa đào tạo được. Nguồn cung này có tác dụng kích thích tính cạnh tranh, thúc đẩy nâng cao chất lượng đào tạo LĐKT và ra đời ngành đào tạo mới nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu nhân lực tại địa phương. 1.2.3.2. Các yếu tố tác động đến cầu lao động kỹ thuật Cầu về LĐKT là yếu tố chủ yếu, quyết định tác động đến phát triển LĐKT, là định hướng cung về LĐKT nhằm đáp ứng thị trưòng lao động. Dưới tác động của phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất hàng hoá ở tất cả các ngành kinh tế tạo ra cầu LĐKT tăng nhanh. Trong ngành nông nghiệp sự phát triển các trang trại trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, các vùng nguyên liệu cho các nhà máy chế biến lớn của tỉnh, việc áp dụng công nghệ mới vào sản xuất như công nghệ sinh học, cấy ghép phôi, công nghệ sản xuất
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG BÁN LẺ TẠI NHTMCP CÔNG THƯƠNG TỈNH TRÀ VINH
94 p | 470 | 172
-
Luận văn: Giải pháp phát triển kênh phân phối sản phẩm tại công ty TNHH thương mại MT
52 p | 719 | 131
-
Luận văn:Giải pháp phát triển dịch vụ thẻ ATM tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh KonTum
26 p | 314 | 92
-
Luận văn:Giải pháp phát triển nguồn nhân lực tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
26 p | 216 | 82
-
Luận văn: "Giải pháp phát triển đa dạng hoá sản phẩm ở Công ty CP Dược và TBVTYT Bộ GTVT TRAPHACO "
83 p | 233 | 80
-
Luận văn: Giải pháp phát triển sản phẩm dịch vụ tài chính ngân hàng tại ngân hàng Thương Mại Cổ phần Việt Nam - Huỳnh Thái Bảo
91 p | 254 | 79
-
Luận văn: Giải pháp phát triển hiệu quả thị trường tín dụng bất động sản Việt Nam đến năm 2015
0 p | 278 | 75
-
Luận văn: Giải pháp phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2015
74 p | 182 | 74
-
LUẬN VĂN: Giải pháp phát triển nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ tại Trung tâm giao dịch Hội sở Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam
71 p | 192 | 66
-
Luận văn: Giải pháp phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm
70 p | 262 | 63
-
Luận văn: Giải pháp phát triển hoạt động Thanh toán quốc tế tại hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
93 p | 235 | 59
-
luận văn: Giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh lữ hành nội địa của Xí nghiệp Đầu tư và phát triển du lịch Sông Hồng thuộc Công ty Du lịch và thương mại tổng hợp Thăng Long
80 p | 161 | 40
-
Luận văn: Giải pháp phát triển tài khoản tiền gửi cá nhân nhằm tăng cường huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Quảng Xương
46 p | 135 | 32
-
Luận văn:Giải pháp phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn huyện Ba Tơ tỉnh Quảng Ngãi
13 p | 141 | 32
-
Luận văn: Giải pháp phát triển kinh doanh Thương mạiđiện tử tại Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng Thương mại và Quảng cáo Đại Nguyễn - Đà Nẵng
88 p | 142 | 24
-
Luận văn:Giải pháp phát triển kinh tế tư nhân trong ngành công nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
13 p | 99 | 22
-
LUẬN VĂN: Giải pháp phát triển thị trường chứng khoán đã đáp ứng được nhu cầu cấp bách về nguồn vốn hiện nay
27 p | 115 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp phát triển nguồn nhân lực tại Cục Hải quan thành phố Đà Nẵng
143 p | 3 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn