intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Giải pháp phát triển Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam thành tập đoàn tài chính

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:89

208
lượt xem
50
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Có thể nói, hình thành và phát triển các Tập đoàn Tài chính - Ngân hàng là xu hướng phát triển rất mạnh từ nhiều thập kỷ qua trên thế giới. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam không thể tách rời xu thế chung đó. Tại Việt Nam, từ khi hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp, hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng đã được chuyển sang các Tổ chức Tín dụng (TCTD) theo hướng chuyên môn hóa, đa dạng hóa. Nhờ đó, các TCTD trưởng thành khá nhanh chóng, nhất...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Giải pháp phát triển Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam thành tập đoàn tài chính

  1. LUẬN VĂN: Giải pháp phát triển Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam thành tập đoàn tài chính
  2. MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Có thể nói, hình thành và phát triển các Tập đoàn Tài chính - Ngân hàng là xu hướng phát triển rất mạnh từ nhiều thập kỷ qua trên thế giới. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam không thể tách rời xu thế chung đó. Tại Việt Nam, từ khi hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp, hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng đã được chuyển sang các Tổ chức Tín dụng (TCTD) theo hướng chuyên môn hóa, đa dạng hóa. Nhờ đó, các TCTD trưởng thành khá nhanh chóng, nhất là các Ngân hàng Thương mại (NHTM) Nhà nước và NHTM cổ phần. Phần lớn các NHTM đã chú trọng tăng vốn, đổi mới trang thiết bị, nâng cao năng lực quản trị điều hành và chất lượng nguồn nhân lực nhằm mở rộng qui mô và loại hình dịch vụ, từng bước tăng cường năng lực cạnh tranh. Nhờ đó, thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam đã và đang ngày càng mở cửa sâu, rộng với khu vực và quốc tế theo các cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Tuy nhiên, so với các NHTM nước ngoài, hệ thống NHTM Việt Nam còn yếu kém về nhiều mặt như nguồn vốn, kinh nghiệm quản lý, kinh doanh, công nghệ, kỹ thuật, chất lượng và loại hình dịch vụ, cũng như khả năng chống đỡ rủi ro. Điều này đòi hỏi mỗi NHTM phải có định hướng và giải pháp thích hợp để phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh, làm chủ được thị trường tài chính trong nước và vươn ra thị trường nước ngoài.Trong đó, việc hình thành những ngân hàng lớn, hoạt động đa năng, có khả năng thích ứng trước những thay đổi nhanh chóng trong thế giới hiện đại đã và đang trở thành một nhu cầu bức xúc và một xu thế tất yếu. Là một người đang công tác trong lĩnh vực tài chính, với mong muốn NHTM Việt Nam nói chung và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) nói riêng ngày càng phát triển và lớn mạnh thành những tập đoàn tài chính-ngân hàng có tầm cỡ quốc tế hòa mình vào dòng chảy của thế giới, tôi mạnh dạn nghiên cứu và thực hiện luận văn với đề tài: “Giải pháp phát triển Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam thành tập đoàn tài chính”.
  3. 2. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Đề tài nghiên cứu tổng quan những lý luận cơ bản về tập đoàn tài chính-ngân hàng và tham khảo kinh nghiệm một số mô hình tập đoàn tài chính-ngân hàng trên thế giới. Phân tích thực trạng hoạt động của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Đánh giá những cơ hội và thách thức của BIDV sau khi trở thành tập đoàn tài chính-ngân hàng và đưa ra các giải pháp góp phần hình thành tập đoàn tài chính-ngân hàng của BIDV. Các giải pháp đề xuất được cân nhắc và trình bày mang tính định hướng ở tầm quản lý vĩ mô và vi mô. 3. PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu thực trạng hoạt động của BIDV và những kinh nghiệm của một số tập đoàn tài chính-ngân hàng thế giới từ đó đưa ra các giải pháp thích hợp vận dụng vào tình hình thực tế của BIDV. Phương pháp nghiên cứu được vận dụng trong đề tài bao gồm phương pháp hệ thống so sánh, phân tích, khái quát cụ thể, thu thập và xử lý số liệu từ đó đề xuất các giải pháp nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra trong đề tài. 4. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI Luận văn dựa trên thực trạng tình hình hoạt động của BIDV. Từ đó đi sâu vào phân tích những cơ hội và thách thức và đưa ra các giải pháp để BIDV hình dung được hướng phát triển thành một tập đoàn tài chính-ngân hàng trong thời gian ngắn nhất. Do thời gian nghiên cứu và kiến thức còn hạn hẹp, học viên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của quý Thầy, Cô để học viên điều chỉnh, hoàn thiện luận văn và mở rộng kiến thức của mình trong công tác nghiên cứu sau này.
  4. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TẬP ĐOÀN TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG 1.1 Khái niệm về tập đoàn Tài chính - ngân hàng 1.1.1 Khái niệm Tập đoàn kinh tế Để đi đến khái niệm về Tập đoàn tài chính – ngân hàng, trên góc độ kinh tế Tập đoàn tài chính – ngân hàng là một tập đoàn kinh tế. Do vậy, trước hết luận văn nghiên cứu về khái niệm tập đoàn kinh tế (TĐKT). Trên thế giới, khái niệm TĐKT đã xuất hiện rất sớm cùng với quá trình tích tụ và tập trung tư bản từ nửa cuối thế kỷ XIX khi nền sản xuất hàng hóa thế giới phát triển mạnh mẽ nhờ sự tác động trực tiếp của cuộc cách mạng công nghiệp ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Để tồn tại, cạnh tranh và phát triển trong bối cảnh này, nhiều công ty, doanh nghiệp đã tự nguyện liên minh, liên kết lại với nhau để cùng khai thác, phân chia thị trường và tận dụng những tiềm năng riêng của từng công ty. Ngược lại cũng có những công ty bị chèn ép, thôn tính, mua lại. Quá trình này đã hình thành các liên minh, các tập đoàn được gọi là “cartel”, “Association”, “Conglomerate”, “Group”… Nói chung là có nhiều cách gọi khác nhau nhưng khi dịch ra tiếng Việt thông thường ta vẫn gọi chúng là tập đoàn với ý nghĩa chủ đạo là các liên minh, liên kết nhóm cùng thỏa thuận tuân thủ một số nguyên tắc điều chỉnh chung như phối hợp chiến lược, góp vốn, cung ứng sản phẩm, phân chia chiếm lĩnh thị trường; thống nhất phương thức, nguyên tắc kiểm soát nội bộ… Trong một tập đoàn thường có một công ty đóng vai trò trung tâm, nó có thể là một công ty mẹ theo đúng nghĩa (nắm giữ vốn tại các công ty con, công ty liên kết) hoặc một công ty “thương hiệu” trung tâm có khả năng chi phối, hỗ trợ các công ty trong cùng tập đoàn trong quá trình cạnh tranh và phát triển. Các loại hình TĐKT phổ biến trên thế giới hiện nay là tập đoàn công nghiệp, tập đoàn thương mại dịch vụ, tập đoàn tài chính- ngân hàng, tập đoàn tài chính công nghiệp…v.v. Mặc dù có nhiều loại hình khác nhau nhưng nhìn chung các tập đoàn kinh tế là một cấu trúc có tính lỏng về tổ chức và pháp lý nhưng có quan hệ chặt chẽ về chiến lược thị trường, chiến lược phát triển, về thương hiệu và luân chuyển vốn. Tập đoàn có thể được
  5. hình thành thông qua hoạt động thôn tính, sát nhập, hợp nhất, mua lại hoặc qua hoạt động liên minh, liên kết một cách tự nguyện. Chỉ các công ty trong tập đoàn có tư cách pháp nhân độc lập chứ Tập đoàn không có tư cách pháp nhân riêng. Nhìn chung các nước không có luật về tập đoàn kinh tế (ngoại trừ trường hợp tập đoàn tài chính-ngân hàng); việc hình thành các TĐKT là tự nguyện, không phải do một mệnh lệnh hành chính của Nhà nước công bố để thành lập. Sự ra đời của các TĐKT là quá trình phát triển tự nhiên do đòi hỏi của thực tiễn cạnh tranh, quá trình phát triển của lực lượng sản xuất và nhu cầu thị trường. Sự hình thành của tập đoàn dựa trên nguyên tắc tự nguyện miễn là hoạt động và tổ chức của mô hình này không trái với các nguyên tắc ứng xử chung của pháp luật và mang lại lợi ích cho tập đoàn nói riêng và cho xã hội nói chung. 1.1.2 Khái niệm Tập đoàn tài chính – ngân hàng Tập đoàn Tài chính – ngân hàng là loại hình tập đoàn kinh tế có cơ cấu tổ chức và hoạt động mang tính chuyên sâu, đặc thù. Tập đoàn tài chính - ngân hàng là một thực thể kinh tế gồm một số doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan đến hoạt động tài chính - ngân hàng; mỗi thành viên tập đoàn là những pháp nhân độc lập, trong đó có một doanh nghiệp làm nồng cốt. Giữa các doanh nghiệp đó có mối liên kết nhất định để cùng nhau thực hiện một liên kết kinh tế có quy mô lớn nhằm đạt được hiệu quả hoạt động tối đa. Như thế, tập đoàn tài chính - ngân hàng, về mặt pháp lý, là một liên hợp pháp nhân; Tổ chức tập đoàn gồm nhiều tầng lớp, với nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi. Điều này có nghĩa là không cưỡng ép và không thể cứ “gom” các doanh nghiệp lại là có thể thành lập tập đoàn kinh tế. Các thành viên trong tập đoàn tài chính - ngân hàng phải tạo điều kiện hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau, cạnh tranh lành mạnh, cùng nhau chia sẻ nguồn lực nhằm giảm các chi phí trong hoạt động, tăng cường sức mạnh và tận dụng tổng lực của tập đoàn để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong lĩnh vực hoạt động tài chính-tiền tệ đầy bất trắc. Mục tiêu của việc hình thành tập đoàn Tài chính – ngân hàng là mở rộng quy mô hoạt động và đổi mới công nghệ, giảm chi phí để có thể tồn tại trong cạnh tranh, từ đó đem lại lợi nhuận tối đa cho tập đoàn. 1.2 Cơ cấu tổ chức và mô hình cơ bản của tập đoàn tài chính - ngân hàng
  6. 1.2.1 Cơ cấu tổ chức tập đoàn tài chính - ngân hàng Cơ cấu tổ chức của tập đoàn tài chính - ngân hàng sẽ bao gồm: Công ty mẹ đóng vai trò hạt nhân và các công ty con. Công ty mẹ có thực lực kinh tế mạnh, khống chế và điều chỉnh vốn, tài sản, cơ cấu tổ chức, quản lý, nhân sự… ở công ty con. Mỗi công ty con được phép thành lập công ty khác hoặc tham gia góp vốn, tài sản của mình vào công ty mới sau khi được phép của công ty mẹ. Nguyên tắc c ơ bản mỗi thành viên tập đoàn vẫn là những pháp nhân độc lập với mục đích tạo ra lợi nhuận, mối quan hệ lẫn nhau mang nặng nội dung là quan hệ tài chính.
  7. 1.2.2 Mô hình cơ bản của tập đoàn tài chính - ngân hàng  Theo mức độ chuyên môn hóa Các tập đoàn Tài chính – ngân hàng trên thế giới được phân thành 2 nhóm chính: Nhóm tập đoàn chuyên ngành hẹp và nhóm tập đoàn đa ngành, kinh doanh tổng hợp. Các tập đoàn Tài chính – ngân hàng chuyên ngành hẹp có mức độ chuyên môn hóa sâu, gồm các công ty con hoạt động trong cùng lĩnh vực dịch vụ tài chính và liên kết chặt chẽ với nhau nhằm khai thác thế mạnh trong kinh doanh dịch vụ Tài chính – Ngân hàng. Đặc điểm của tập đoàn Tài chính – ngân hàng là lấy ngân hàng cỡ lớn làm hạt nhân của tập đoàn để liên kết và khống chế các doanh nghiệp xung quanh bằng mối quan hệ nắm giữ cổ phần, cho vay vốn và sắp xếp nhân sự. Mô hình phổ biến nhất của tập đoàn Tài chính – ngân hàng là tổ chức theo kiểu công ty mẹ– công ty con. Trong đó, công ty mẹ và công ty con đều có tư cách pháp nhân độc lập, có tài sản và bộ máy quản lý riêng. Giao dịch giữa ngân hàng mẹ và các công ty con hay giữa các công ty con trong cùng một tập đoàn là giao dịch bên ngoài, giao dịch thị trường. Đặc điểm của mô hình này là ngân hàng mẹ (holding company) sở hữu toàn bộ hoặc một tỷ lệ nhất định vốn cổ phần trong các công ty con, đề ra chiến lược và định hướng phát triển tổng thể của tập đoàn, đồng thời phân bổ nguồn lực của tập đoàn thông qua các hoạt động tài chính như phát hành, mua bán chứng khoán, cơ cấu lại tài sản của các công ty con. Ngoài ra, ngân hàng mẹ còn sử dụng vốn của mình để đầu tư, góp vốn cổ phần, liên doanh, liên kết để hình thành các công ty con hoặc công ty liên kết. Các công ty con là những pháp nhân độc lập, hoạt động tự chủ và tự chịu trách nhiệm. Hình thức pháp lý của công ty con khá đa dạng, có thể là công ty cổ phần do ngân hàng mẹ nắm giữ cổ phần chi phối; công ty TNHH 2 thành viên trở lên, trong đó ngân hàng mẹ giữ tỷ lệ vốn góp chi phối; công ty liên doanh với nước ngoài do ngân hàng mẹ nắm giữ tỷ lệ vốn góp chi phối; công ty TNHH một thành viên do ngân hàng mẹ là chủ sở hữu.  Theo tính chất và phạm vi hoạt động Tập đoàn tài chính - ngân hàng kinh doanh theo mô hình công ty mẹ – công ty con có hai loại: Mô hình công ty mẹ nắm vốn thuần túy và mô hình công ty mẹ vừa nắm vốn
  8. vừa trực tiếp kinh doanh. Trên thực tế, không có sự tách bạch rõ ràng, nhiều tập đoàn kinh doanh theo mô hình công ty mẹ – công ty con là hỗn hợp của hai loại hình trên. Tập đoàn Tài chính – ngân hàng theo mô hình công ty mẹ – công ty con cũng hoạt động theo mô hình hỗn hợp, trong đó ngân hàng mẹ vừa nắm vốn vừa trực tiếp kinh doanh một số công ty con, đồng thời chỉ nắm vốn thuần túy một số công ty con khác. Ngoài hoạt động kinh doanh ngân hàng, tập đoàn Tài chính – ngân hàng còn cung cấp dịch vụ tài chính phi ngân hàng (do các công ty con thực hiện), những dịch vụ này liên quan chặt chẽ với hoạt động ngân hàng và mang lại lợi ích chung cho tập đoàn.  Một số cấu trúc tổ chức tập đoàn tài chính – ngân hàng trên thế giới Hiện nay trên thế giới, tập đoàn tài chính – ngân hàng được xây dựng theo ba cấu trúc tổ chức chủ yếu sau đây: - Mô hình ngân hàng đa năng (universal banking) Đây là mô hình tập đoàn phổ biến nhất ở Châu Âu. Các cổ đông của ngân hàng trực tiếp quản lý mọi hoạt động kinh doanh ngân hàng, kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm, không có sự phân biệt về quản lý vốn giữa các lĩnh vực. Điều này gây ra khó khăn trong việc xác định rủi ro của mỗi lĩnh vực, bên cạnh đó rủi ro của lĩnh vực này có thể kéo theo rủi ro của cả những lĩnh vực khác. Ở Châu Âu, ngân hàng có thể chiếm lĩnh cả kinh doanh chứng khoán, nhưng không một nước công nghiệp chính nào cho phép một công ty đơn lẻ thực hiện cả 3 hoạt động kinh doanh: ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán. Sơ đồ 1.1: Ngân hàng đa năng Các cổ đông Ngân hàng Kinh doanh Kinh doanh Kinh doanh ngân hàng bảo hiểm chứng khoán - Mô hình công ty mẹ vừa nắm vốn vừa kinh doanh ngân hàng (parent – subsidiary relationship).
  9. Trong mô hình này, các công ty tài chính khác là công ty con của ngân hàng. Các cổ đông của ngân hàng quản lý trực tiếp ngân hàng nhưng không quản lý trực tiếp các công ty bảo hiểm hay công ty chứng khoán. Còn các lãnh đạo các ngân hàng quản lý trực tiếp hoạt động của công ty chứng khoán và công ty bảo hiểm. Đối với mô hình này, vốn của ngân hàng, công ty chứng khoán và công ty bảo hiểm được quản lý một cách độc lập nhưng rủi ro của các lĩnh vực vẫn có thể gây ra rủi ro dây chuyền.
  10. Sơ đồ 1.2: Mô hình công ty mẹ vừa nắm vốn vừa trực tiếp kinh doanh ngân hàng Các cổ đông Ngân hàng Công ty Công ty chứngMô hình công ty mẹ nắm vốn thuần túy (holding company) - khoán bảo hiểm Trong mô hình này một công ty mẹ đứng trên chịu trách nhiệm quản lý các công ty con trên từng lĩnh vực. Các cổ đông của công ty mẹ không trực tiếp quản lý những hoạt động của các công ty con. Với ưu thế rủi ro của lĩnh vực này không ảnh hưởng đến lĩnh vực khác, mô hình này đặc biệt phổ biến ở những tập đoàn tài chính quốc tế, ở Mỹ và cũng đã được cho phép ở Nhật Bản. Sơ đồ 1.3: Mô hình công ty mẹ nắm vốn thuần tuý Các cổ đông Công ty mẹ Công ty Công ty Ngân hàng chứng khoán bảo hiểm 1.3 Các đặc trưng của tập đoàn tài chính - ngân hàng Ngoài ra, để nhận dạng một tập đoàn, cần thông qua những đặc trưng chung của tập đoàn và đặc trưng riêng của các công ty con hay công ty thành viên trong tập đoàn. 1.3.1 Đặc trưng chung của tập đoàn Tập đoàn là một cấu trúc có tính lỏng về tổ chức nhưng có quan hệ rất chặt chẽ về chiến lược thị trường và chiến lược luân chuyển vốn. Đa số các tập đoàn không có tư cách pháp nhân, không có “trụ sở chính”, không có “cơ quan hành chính” thường trực chung của tập đoàn, tuy nhiên cũng có các tập đoàn có tư cách pháp nhân là do được hình thành theo quyết định của chính phủ. Nhưng đã là tập đoàn thì nhất thiết phải có một số thiết chế
  11. quản trị chung của tập đoàn như hội đồng chiến lược, ủy ban kiểm toán, ủy ban bầu cử, hội đồng quản trị. Các thành viên trong những hội đồng hay ủy ban nêu trên hoạt động theo tôn chỉ và mục đích chung đã được các bên thống nhất từ trước và đa số theo cơ chế kiêm nhiệm. Trong đó, chủ tịch tập đoàn thường là người có ảnh hưởng và uy tín lớn nhất thuộc công ty xuất phát hay công ty chính của tập đoàn. Thông thường, chủ tịch và các thành viên trong hội đồng và ủy ban hưởng lương chính từ các công ty con hay công ty thành viên và được hưởng một khoản phụ cấp trách nhiệm do các công ty con hay công ty thành viên đóng góp lên tập đoàn theo quy định chung. Do vậy, khái niệm tập đoàn thường kèm theo “công ty xuất phát” hay “công ty gốc”, “công ty đứng đầu”, “công ty sáng lập”,v.v. .Vị thế của công ty này trước hết biểu hiện ở biểu tượng (logo) của tập đoàn và ở khả năng chi phối hướng phát triển của các công ty con hay công ty thành viên trong tập đoàn. Lợi ích chung của các công ty trong tập đoàn là được hành động theo chiến lược chung, theo “bản đồ” phân bố thị trường hay các quan hệ gắn bó về vốn, thương hiệu, văn hóa, ngoại giao, ... Cơ chế điều hành chung của các tập đoàn chủ yếu dựa trên quan hệ về lợi ích kinh tế minh bạch và uy tín cũng như các cam kết trong quy chế chung của tập đoàn mà không dựa trên mệnh lệnh hành chính. Các pháp nhân trong tập đoàn có chung quyền được bảo vệ để có thể tránh khỏi những nguy cơ bị thôn tính hay chèn ép trên thị trường từ những công ty ngoài tập đoàn. 1.3.2 Đặc trưng riêng của các công ty trong tập đoàn Đặc trưng quan trọng nhất là mỗi công ty trong tập đoàn phải là một pháp nhân độc lập: Các công ty thành viên hoặc công ty con có sở hữu tài sản riêng, có trụ sở riêng, thị trường riêng, thậm chí ngành nghề riêng. Chính vì vậy, giữa các công ty trong tập đoàn có sự khác nhau về mức thu nhập, tình trạng rủi ro và quy mô tài chính. Nhìn chung, các tập đoàn kinh doanh được hình thành theo nguyên tắc tự nguyện thông qua đàm phán để mua, bán, liên doanh, sáp nhập, cam kết, v.v. Trong đó, một công ty khởi xướng và đóng vai trò sáng lập ra tập đoàn (thông qua hình thức tập trung tư bản từ nhiều công ty thành viên), hoặc từ một công ty lớn tách ra thành nhiều công ty con độc lập (thông qua hình thức tích tụ tư bản, trong đó công ty mẹ vẫn đóng vai trò chi phối). Như vậy, việc hình thành một tập đoàn kinh doanh không phải do “mệnh lệnh” hành chính của nhà nước mà do quyết định của nhà doanh nghiệp, được dư luận xã hội, thị trường và nhà nước thừa nhận. Nói
  12. đúng hơn, sự hình thành các tập đoàn là xuất phát từ nhu cầu của thị trường và vấn đề sống còn của doanh nghiệp theo nguyên tắc tự nguyện. 1.4 Các phương thức hình thành tập đoàn tài chính - ngân hàng Tùy theo những yếu tố như môi trường pháp lý, yếu tố lịch sử khác nhau, mục tiêu, quan điểm,… mà hình thành theo nhiều phương thức khác nhau, có thể như các phương thức: Công ty mẹ mua công ty khác để biến thành công ty con của mình. - Thành lập mới một số công ty con. - Sáp nhập công ty khác vào công ty mẹ hoặc công ty con. - 1.5 Điều kiện hình thành tập đoàn Tài chính – ngân hàng 1.5.1 Môi trường pháp lý Thứ nhất, tập đoàn tài chính – ngân hàng là một hình thức tổ chức quy mô lớn, hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng như kinh doanh tiền tệ, tín dụng, chứng khoán, bảo hiểm... Bên cạnh đó, các tập đoàn tài chính – ngân hàng có thể tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh khác của nền kinh tế. Do vậy, có thể khẳng định rằng các tập đoàn tài chính – ngân hàng có ảnh hưởng hết sức to lớn đối với nền kinh tế, đòi hỏi phải quản lý chặt chẽ theo khuôn khổ pháp lý quy định. Thứ hai, quá trình hình thành và phát triển các tập đoàn tài chính – ngân hàng có thể được thực hiện bằng nhiều con đường: thông qua hoạt động sáp nhập, thâu tóm doanh nghiệp, đầu tư thành lập mới doanh nghiệp… Do vậy cần phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp điều chỉnh các quá trình sáp nhập, thâu tóm doanh nghiệp... Thứ ba, trong tập đoàn có quan hệ sở hữu của công ty mẹ với các công ty con, cháu; hoặc giữa các công ty con và cháu sở hữu lẫn nhau. Do vậy, hệ thống luật pháp điều chỉnh các quan hệ này cũng cần được xây dựng và hoàn thiện theo sự phát triển của nền kinh tế - xã hội.
  13. 1.5.2 Mức độ phát triển của thị trường tài chính Một trong những nguyên nhân chính hình thành và phát triển các tập đoàn tài chính – ngân hàng là do sự cạnh tranh trong nền kinh tế nói chung, trên thị trường tài chính nói riêng. Thị trường tài chính càng phát triển, cạnh tranh trên thị trường càng tăng lên, càng cần thiết hình thành mối liên kết chặt chẽ hơn nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm chi phí và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Vì thế, một số tổ chức tài chính, ngân hàng đã liên kết để hình thành tập đoàn tài chính - ngân hàng nhằm tận dụng những lợi thế của nhau, nâng cao năng lực cạnh tranh và kinh doanh so với các đối thủ khác. Do vậy, khi thị trường tài chính quốc gia phát triển đến một trình độ nhất định sẽ dẫn đến sự ra đời và phát triển của các tập đoàn tài chính – ngân hàng trong nước. Hơn nữa, trong môi trường hội nhập, các tổ chức tài chính, ngân hàng trong nước không chỉ cạnh tranh lẫn nhau mà còn phải cạnh tranh với các tổ chức tài chính, ngân hàng nước ngoài. Nói cách khác, trong môi trường hội nhập, mức độ cạnh tranh trên thị trường tài chính càng trở nên khốc liệt làm cho nhu cầu hình thành các tập đoàn tài chính – ngân hàng càng tăng lên. Một mặt các tổ chức tài chính, ngân hàng trong nước liên kết với nhau để hình thành các tập đoàn tài chính – ngân hàng nội địa, cạnh tranh với các tập đoàn tài chính – ngân hàng nước ngoài. Mặt khác, còn có sự liên kết giữa các tổ chức tài chính, ngân hàng nước ngoài để hình thành các tập đoàn tài chính – ngân hàng toàn cầu. 1.5.3 Qui mô hoạt động và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng Một trong những con đường dẫn đến sự hình thành và phát triển các tập đoàn tài chính – ngân hàng là thông qua việc một tổ chức tài chính/ngân hàng tiến hành các hoạt động sáp nhập, thâu tóm các công ty bảo hiểm/ngân hàng, công ty chứng khoán, công ty đầu tư… Đồng thời, trong quá trình hình thành tập đoàn tài chính – ngân hàng, tổ chức tài chính ban đầu sẽ phát triển trở thành công ty mẹ của tập đoàn hoặc trở thành công ty mẹ đầu tư vốn của tập đoàn. Do vậy, tổ chức tài chính này cần phải có tiềm lực lớn, đặc biệt là tiềm lực tài chính, quy mô hoạt động và năng lực cạnh tranh. Tiềm lực của tổ chức tài chính/ngân hàng này cần đủ mạnh để có thể thực hiện các hoạt động thâu tóm, góp vốn vào các công ty thành viên. Tổ chức này dùng tiền vốn để
  14. mua lại vốn góp của các công ty khác, hoặc cùng góp vốn để hình thành một tổ chức mới kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán hoặc công ty đầu tư. Tổ chức tài chính ban đầu muốn hấp dẫn và thu hút các công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, công ty đầu tư trở thành thành viên của tập đoàn cần có quy mô hoạt động lớn, có chi nhánh rộng để liên kết và hỗ trợ hoạt động của các công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, công ty đầu tư. Các công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, công ty đầu tư tận dụng cơ sở kinh doanh của tổ chức này để kinh doanh sản phẩm bảo hiểm, chứng khoán. Khi đó, các công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, công ty đầu tư sẽ tận dụng năng lực cạnh tranh của tổ chức này để nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty thành viên. 1.5.4 Các điều kiện khác Tập đoàn tài chính – ngân hàng là một tổ hợp của nhiều công ty thành viên, trong đó thường dựa vào một NHTM hoặc một công ty bảo hiểm làm nòng cốt, do vậy, công ty mẹ cần có nguồn nhân lực và công nghệ cao. Để đảm bảo quản lý và điều hành hoạt động của toàn bộ tập đoàn, công ty mẹ cần có bộ phận nhân lực chịu trách nhiệm xây dựng và thực hiện các chiến lược kinh doanh chung của cả tập đoàn. Bên cạnh đó, công ty mẹ cần xây dựng đội ngũ nhân lực tham gia vào hoạt động quản lý, điều hành tại các công ty thành viên, nhất là các thành viên chủ chốt trong tập đoàn. Các công ty thành viên là các pháp nhân độc lập, công ty mẹ tham gia vào với tư cách là chủ đầu tư. Đối với các công ty thành viên chủ chốt, công ty mẹ cần có đội ngũ nhân lực trực tiếp tham gia vào HĐQT và Ban giám đốc của các công ty thành viên để trực tiếp điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành viên này. Các vị trí lãnh đạo chủ chốt của các công ty thành viên đều thuộc quyền quản lý của công ty mẹ, do vậy công ty mẹ phải xây dựng đội ngũ nhân lực đủ trình độ để có thể điều hành hoạt động của các công ty thành viên. Các công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, công ty đầu tư sẽ tận dụng cơ sở vật chất, kỹ thuật, trong đó có nguồn công nghệ của công ty mẹ để giảm chi phí đầu tư công nghệ, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Do vậy, công ty mẹ cần có công nghệ có thể đáp ứng yêu cầu kinh doanh đa dạng các loại dịch vụ ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm và đầu tư
  15. cho bản thân công ty mẹ và các công ty thành viên, đồng thời, đảm bảo tính thống nhất về công nghệ để liên kết hoạt động của các công ty thành viên vào một hệ thống. 1.6 Kinh nghiệm tổ chức hoạt động của một số tập đoàn tài chính – ngân hàng lớn trên thế giới 1.6.1 Tập đoàn Citigroup Citigroup là tập đoàn tài chính hàng đầu nước Mỹ và hiện cũng là ngân hàng lớn nhất thế giới tính tới 1/8/2006. Tổng tài sản của Citigroup năm 2005 là 1.494 tỷ USD so với 167 tỷ USD năm 1995. Tập đoàn Citigroup là sự hợp nhất của hai tổ chức riêng lẻ là: Citicorp và Travelers Insurance. Citicorp là một tập đoàn ngân hàng đa quốc gia, hoạt động ở gần 100 quốc gia. Travelers là một tổ chức hợp nhất bởi nhiều công ty khác nhau, từ tín dụng thương mại đến hỗ trợ tiêu dùng, môi giới và đến bảo hiểm. 1.6.1.1 Lịch sử hình thành Tập đoàn Citigroup ra đời gắn liền với quá trình hình thành Tập đoàn Citicorp. Citicorp là một trong những tập đoàn hàng đầu của Mỹ có trụ sở chính tại New York với công ty mẹ là Citibank. Vào những năm đầu của thế kỷ 19, ngân hàng đã mở những chi nhánh đầu tiên ở nước ngoài (tại London năm 1902 và tại Buenos Aires năm 1914), sau đó chuyển hướng mạnh sang hoạt động ngân hàng bán lẻ (phục vụ khách hàng cá nhân) và trở thành NHTM đầu tiên cho cá nhân người tiêu dùng vay tiền. Trong suốt những năm 1920- 1940, các hoạt động quốc tế của ngân hàng phát triển rất nhanh (mở tới 100 văn phòng đại diện và chi nhánh tại nước ngoài). Năm 1955, ngân hàng sáp nhập với First National (New York) để trở thành một tổ hợp lớn với tên gọi First National City Bank. Năm 1961, ngân hàng đã có sáng kiến sử dụng chứng chỉ tiền gửi (CDs), trả lãi suất cao hơn cho những khoản tiền gửi có kỳ hạn. Năm 1968, ngân hàng cải tổ để trở thành một công ty mẹ và hình thành một tập đoàn ngân hàng lấy tên là First National City Corp (năm 1974 đổi tên thành CitiCorp) với hoạt động trọng tâm vẫn là các dịch vụ tài chính và ngân hàng bán lẻ. Cuối năm 1968, Citibank đã thế chỗ Chase Manhatta trở thành ngân hàng lớn nhất ở New York với tài sản trị giá 19,4 tỷ đô la. Vào những năm 1970, Citibank trở thành nhà phát hành chính thẻ tín dụng Master và VISA và đã mua được Carte Blanche vào năm 1978, Diners Club vào năm 1981. Năm 1977, Citibank là ngân hàng đầu tiên giới thiệu sản phẩm Máy
  16. rút tiền tự động (ATMs) với quy mô hơn 500 máy trong nội thành New York và cuối năm 1980 vượt qua Bank America để trở thành ngân hàng lớn nhất Mỹ. Trong những năm 80, Citibank đã mua được cả một số tổ chức tài chính ở San Francisco, Chicago, Miami và Washington DC và đến năm 1998, thực hiện sáp nhập với hãng Travellers Group - một công ty kinh doanh thẻ nổi tiếng - để trở thành Tập đoàn ngân hàng – tài chính hàng đầu thế giới, chính là Tập đoàn Citigroup ngày nay. 1.6.1.2 Mô hình hoạt động và cơ cấu tổ chức Citigroup Inc. là một công ty mẹ cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng toàn cầu với các hoạt động dịch vụ rộng khắp cho người tiêu dùng và các công ty. Citigroup có hơn 200 triệu tài khoản khách hàng và kinh doanh trên hơn 100 quốc gia. Citigroup là một công ty mẹ kinh doanh lĩnh vực ngân hàng, được ra đời theo Luật Công ty, kinh doanh lĩnh vực ngân hàng năm 1956 và chịu sự giám sát của Ban Thống đốc Hệ thống Dự trữ Liên bang (FRB). Một số các chi nhánh của công ty chịu sự giám sát của các chính quyền bang tương ứng. Tính đến thời điểm cuối năm 2006, công ty có khoảng 140.000 nhân viên chính thức và 8.000 nhân viên bán thời gian ở nước Mỹ và khoảng 159.000 nhân viên chính thức ở nước ngoài. Tháng 5/2001, Tập đoàn tài chính Citigroup của Mỹ đã mua Tập đoàn ngân hàng lớn nhất Mêhicô Banacci với giá khổng lồ là 12,5 tỷ USD. Đây là cuộc mua bán lớn nhất trong lịch sử tại thị trường các nước mới nổi như Mêhicô. Việc sáp nhập Ngân hàng Banamex thuộc Tập đoàn Banamex (của Banacci - Mêhicô vào Ngân hàng Citibank của Mỹ tại Mêhicô không chỉ là giải pháp mở rộng phạm vi kinh doanh của Tập đoàn Citigroup mà còn củng cố vị thế trên thị trường tài chính của chính “ngân hàng bị bán” là Banamex sau khi bị mất thế cạnh tranh. Mặt khác, cuộc sáp nhập này theo tính toán của Chủ tịch Tập đoàn Citigroup - ông Sandy Weill thì hàng năm Tập đoàn sẽ giảm được ít nhất 200 triệu USD cho chi phí chuyển giao công nghệ và nhất là chi phí huy động vốn thấp hơn.
  17. Sơ đồ 1.4: Khái quát mô hình hoạt động của CitiGroup CitiGroup (Trụ sở chính) Gobal Consumer Group Gobal Wealth Management Coperate and Investment Group Banking (Nhóm ngân hàng thương mại và tiêu dùng) (Nhóm kinh doanh ngân hàng (Nhóm ngân hàng đầu tư) đầu tư và quản lý tài sản) Citigroup có 3 nhóm hoạt động kinh doanh chính: nhóm NHTM, nhóm quản lý tài sản và đầu tư, nhóm các hoạt động ngân hàng đầu tư, trong đó, nhóm tiêu dùng toàn cầu thường chiếm tỷ trọng chi phối. Nếu phân theo khu vực hoạt động kinh doanh của tập đoàn thì hoạt động ở Mỹ, tức là nơi có Trụ sở chính, chiếm tỷ trọng chủ yếu và lớn nhất. Cơ cấu tổ chức của tập đoàn Citigroup (xem phụ lục ) 1.6.1.3 Mô hình quản trị Citigroup là tập đoàn có mô hình quản trị tiêu biểu của các công ty đại chúng, tức là cơ cấu điều hành gồm một HĐQT duy nhất của toàn tập đoàn và các uỷ ban độc lập. HĐQT có nhiệm vụ quản trị một cách hiệu quả, đem lại lợi ích cho các cổ đông và hài hoà lợi ích giữa khách hàng, người lao động, nhà cung cấp và địa điểm ở các khu vực có chi nhánh của tập đoàn. HĐQT được toàn quyền thực hiện hoạt động mà họ tin là có thể đem lại lợi ích cho công ty. HĐQT gồm từ 13 tới 19 thành viên, trong đó, ít nhất hai phần ba số thành viên trong HĐQT là thành viên độc lập. Các thành viên của HĐQT phải trải qua quá trình lựa chọn gồm 3 bước. Các ứng viên của HĐQT được lựa chọn bởi Uỷ ban quản trị và bổ nhiệm. Sau đó đưa lên cho HĐQT duyệt tính phù hợp với các tiêu chuẩn của Hội đồng quản trị. Và cuối cùng các thành viên đó được bầu trong số các ứng viên tại cuộc gập hàng năm của các cổ đông trong nhiệm kỳ 1 năm. Đồng thời Uỷ ban quản trị bổ nhiệm một người trong số các thành viên của HĐQT làm Chủ tịch HĐQT. Ngoài ra, HĐQT còn có thể có một Chủ tịch danh dự, người này được tham dự các buổi họp HĐQT nhưng không có quyền bỏ phiếu.
  18. Bên cạnh HĐQT, trong cơ cấu quản trị tập đoàn của CityGroup, các uỷ ban độc lập cũng đóng một vai trò rất lớn. Các uỷ ban chính gồm có Ban điều hành (Excutive commitee), Ban kiểm toán và quản trị rủi ro, Ban Quản trị và bổ nhiệm (Nomination and Governance Commitee), Ban Truyền thông đại chúng (Public Affairs Commitee), Ban Nhân sự và hưu trí (The Personnel and compensation commitee) v.v… Ngoại trừ Ban điều hành, các thành viên của các uỷ ban còn lại phải thoả mãn luật quản trị của Sở giao dịch chứng khoán NewYork (NYSE) về số thành viên độc lập. Hàng năm, các uỷ ban này thực hiện chức năng giám sát và trợ giúp của mình đối với HĐQT của tập đoàn như Uỷ ban Nhân sự và hưu trí có nhiệm vụ giám sát kết quả hoạt động của Giám đốc điều hành và Chủ tịch HĐQT và có các báo cáo hàng năm lên hội đồng quản trị; hay Uỷ ban Quản trị và bổ nhiệm có chức năng tuyển chọn và giới thiệu ứng cử viên vào HĐQT.... 1.6.1.4 Cơ chế tài chính Công ty Citigroup Inc và Công ty quản lý quỹ Citigroup Funding Inc sẽ cung cấp các khoản tài trợ vốn dưới dạng nợ hay vốn đầu tư cho các công ty con kinh doanh trong 3 lĩnh vực chủ yếu: môi giới chứng khoán (Citigroup Global Markets Holdings Inc), các hoạt động ngân hàng, và các hoạt động phi ngân hàng. Citigroup Inc và Citigroup Funding Inc sẽ thu hút các dòng tiền từ bên ngoài vào thông qua tiếp cận với thị trường vốn. Với Citigroup Inc., nguồn tài trợ thu hút từ bên ngoài bao gồm: các khoản nợ phải thanh toán trước, các khoản nợ phụ, cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu ưu đãi đặc biệt và cổ phiếu thường. Có thể thấy rằng, các hoạt động kinh doanh ngân hàng không chỉ được sự hỗ trợ vốn trong nội bộ tập đoàn mà còn có thể nhận được sự hỗ trợ vốn từ bên ngoài được cung cấp qua các kênh: các tài khoản khách hàng, các chứng khoán nợ, các khoản vay FHLB, và các khoản vay ngân hàng khác. Nguồn vốn cho các hoạt động phi ngân hàng cũng bao gồm các khoản hỗ trợ từ bên trong tập đoàn và hỗ trợ từ bên ngoài thông qua việc chứng khoán hóa các khoản nợ. Đối với CitiGroup Global Markets Holdings Inc., nguồn vốn cho hoạt động mua bán và môi giới chứng khoán của công ty này một phần cũng từ sự hỗ trợ vốn trong nội bộ tập đoàn, phần còn lại sẽ được huy động từ bên ngoài qua kênh thị trường chứng khoán. Là một chi nhánh kinh doanh môi giới Mỹ hàng đầu của Citigroup, Công ty Citigroup Global Markets (CGMI) đăng ký kinh doanh như là một nhà kinh doanh môi giới trên 50 bang, khu vực Colombia, Puerto
  19. Rico, Đài Loan và Guam. CGMI cũng là một nhà kinh doanh trái phiều kho bạc Mỹ hàng đầu và là một thành viên của các sở giao dịch tương lai Mỹ. CGMI chịu sự điều tiết của nhiều luật, bao gồm các yêu cầu về vốn tối thiểu được đặt ra bởi các tổ chức như: SEC, CFTC, Hiệp hội giao dịch tương lai quốc gia (NFA), Hiệp hội kinh doanh chứng khoán quốc gia (NASD), NYSE và các tổ chức tự điều tiết mà trong đó, CGMI là một thành viên và các nhà quản lý chứng khoán của 50 bang, khu vực Columbia, Puerto Rico và Guam. Đối với từng lĩnh vực hoạt động chuyên biệt, cơ chế tài chính của Tập đoàn Citigroup còn có những quy định khá cụ thể và chi tiết. - Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng: Sự tham gia cổ phần của Citibank và các ngân hàng khác đã đưa Citigroup trở thành một công ty mẹ kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực ngân hàng, hoạt động theo Luật. Công ty mẹ kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng thường được giới hạn kinh doanh trong phạm vi lĩnh vực ngân hàng, quản lý hoặc kiểm soát các ngân hàng, các hoạt động khác có liên quan. Do tất cả các công ty con đều được đảm bảo an toàn vốn và được quản lý tốt theo các điều luật ngân hàng Mỹ, được đánh giá ở mức độ đạt yêu cầu trở lên về tài trợ vốn cho cộng đồng theo quy định tại Điều luật Tái đầu tư cộng đồng (CRA) được quốc hội Mỹ thông qua năm 1977, nên Citigroup được công nhận là một công ty mẹ. Theo đó, công ty mẹ được phép tham gia vào hoạt động tài chính trên phạm vi rộng lớn hơn ở Mỹ và ở nước ngoài. Những hoạt động này bao gồm: bảo lãnh phát hành và kinh doanh chứng khoán; môi giới và bảo lãnh bảo hiểm; đầu tư ngắn hạn vào các công ty phi tài chính trong trường hợp công ty không quản lý được các hoạt động thường ngày của công ty phi tài chính hoặc trong trường hợp công ty phi tài chính không có liên kết thị trường theo chiều ngang với công ty con (là các ngân hàng trực thuộc ngân hàng mẹ). Cơ quan điều tiết, giám sát: là một ngân hàng mẹ, Citigroup được điều tiết và giám sát bởi Ngân hàng Dự trữ Liên Bang (FRB). Các ngân hàng con được công nhận trên phạm vi quốc gia (chẳng hạn như Citibank) thì chịu sự điều tiết và giám sát bởi Cơ quan giám sát tiền tệ (OCC); các Hiệp hội tiết kiệm liên bang chịu sự quản lý của Cơ quan Giám sát tiết kiệm; các tổ chức nhận tiền gửi ở các bang chịu sự quản lý của Công ty bảo hiểm tiền gửi liên bang (FDIC). Các chi nhánh ngân hàng ở nước ngoài của Citibank chịu sự điều tiết và giám sát của FRB và OCC.
  20. Chi trả cổ tức: Các ngân hàng mẹ của Tập đoàn Citigroup và các ngân hàng con bị giới hạn bởi khả năng chi trả cổ tức. Ngoài những giới hạn nhất định về cổ tức mà các ngân hàng con có thể trả cho các ngân hàng mẹ của chúng, các nhà điều tiết liên bang có thể cấm một cổ tức trong trường hợp nó có khả năng là một khoản chi trả ngân hàng không lành mạnh hoặc không an toàn. Chính sách của FRB là: các ngân hàng mẹ trả cổ tức đối với cổ phiếu phổ thông đối với phần thu nhập vượt ra ngoài thu nhập của năm trước, và chỉ trong trường hợp việc giữ lại thu nhập tiềm năng nhất quán với điều kiện tài chính và nhu cầu dự kiến trong tương lai của tổ chức này. Hơn nữa, công ty mẹ không nên duy trì các mức lợi tức làm suy giảm khả năng trở thành nguồn sức mạnh cho các chi nhánh ngân hàng của công ty. 1.6.2 Tập đoàn HSBC Holding 1.6.2.1 Lịch sử hình thành HSBC Holdings là một Tập đoàn tài chính ngân hàng hàng đầu của Anh. HSBC có trụ sở chính tại Anh và có phạm vi hoạt động rộng lớn trên 5 khu vực là Châu Âu, Hồng Kông, các nước thuộc khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, bao gồm cả khu vực Trung Đông và Châu Phi; Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Các công ty thành viên chính của HSBC Holdings là: HSBC Bank plc, HSBC North America Holdings Inc.; HSBC Finance (Netherlands); HSBC Investment Bank Holdings plc; HSBC Insurance Holdings Limited; HSBC Latin America Holdings (Anh) Limited và Grupo Financiero HSBC, S.A de C.V. Dưới các công ty con là các công ty cháu. Các công ty con hay cháu có thể sở hữu hoàn toàn theo tỷ lệ vốn liên kết. Sau 8 năm thành lập, HSBC Holdings hiện nay là một trong những tập đoàn cung cấp các dịch vụ tài chính – ngân hàng hàng đầu thế giới với tổng tài sản là 1.276.778 triệu USD với vốn chủ sở hữu là 67.259 triệu USD, chiếm 72% GDP. Tập đoàn này cũng sở hữu 9.500 văn phòng, 260.000 nhân viên tại 76 quốc gia và vùng lãnh thổ. Với một hệ thống mạng lưới quốc tế được kết nối với nhau bằng hệ thống công nghệ hiện đại, khả năng lớn mạnh của thương mại điện tử, HSBC cung cấp một hệ thống dịch vụ tài chính cho bốn nhóm khách hàng chính: (i) ngân hàng bán lẻ phục vụ khách hàng cá nhân đại trà; (ii) NHTM phục vụ khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ; (iii)
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2