intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn:Góp phần nghiên cứu xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan dùng để kiểm tra đánh giá môn Hoá học 12 ban KHTN trường THPT Yên Lạc II - Tỉnh Vĩnh Phúc

Chia sẻ: Rose_12 Rose_12 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:98

190
lượt xem
41
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

. Tính thời sự của đề tài Hiện nay chất lượng giáo dục đang trở thành mối quan tâm chung của toàn xã hội. Ngành giáo dục đang đặt ra một yêu cầu cấp thiết để nâng cao chất lượng của giáo dục hơn bao giờ hết trong tất cả những ngành học và bậc học. Chính vì thế toàn ngành phải có trách nhiệm để nâng cao chất lượng của giáo dục. Đối với chương trình THPT nói chung và bộ môn Hoá Học nói riêng hiện nay, với nội dung phong phú và sâu sắc nếu không dạy...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn:Góp phần nghiên cứu xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan dùng để kiểm tra đánh giá môn Hoá học 12 ban KHTN trường THPT Yên Lạc II - Tỉnh Vĩnh Phúc

  1. Luận văn tốt nghiệp Góp phần nghiên cứu xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan dùng để kiểm tra đánh giá môn Hoá học 12 ban KHTN trường THPT Yên Lạc II - Tỉnh Vĩnh Phúc
  2. A. PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài 1. Tính thời sự của đề tài Hiện nay chất lượng giáo dục đang trở thành mối quan tâm chung của toàn xã hội. Ngành giáo dục đang đặt ra một yêu cầu cấp thiết để nâng cao chất lượng của giáo dục hơn bao giờ hết trong tất cả những ngành học và bậc học. Chính vì thế toàn ngành phải có trách nhiệm để nâng cao chất lượng của giáo dục. Đối với chương trình THPT nói chung và bộ môn Hoá Học nói riêng hiện nay, với nội dung phong phú và sâu sắc nếu không dạy cho học sinh phương pháp tư duy khoa học, phương pháp học tập bộ môn mà chỉ trọng tâm truyền đạt tri thức, thì chẳng những không hoàn thành nhiệm vụ phát triển trí tuệ của học sinh mà còn ảnh hưởng nhiều tới quá trình hình thành nhân cách cho học sinh. Chính vì vậy đòi hỏi giáo viên phải thiết lập hệ thống các phương pháp tạo thành một mối liên hệ chặt chẽ để vận dụng giảng dạy bộ môn hoá học, đảm bảo tính khách quan, đảm bảo chất lượng cho quá trình dạy học đáp ứng nhu cầu giáo dục hiện nay Một trong những nội dung đổi mới việc kiểm tra đánh giá đo lường chất lượng nhận thức của học sinh, một vấn đề được coi là quan trọng trong quá trình dạy học. Lý luận dạy học đã khẳng định. Kiểm tra đánh giá trình độ nhận thức, kỹ năng, kỹ xảo của học sinh là một khâu đặc biệt quan trọng trong dạy học nói chung và trong quá trình nhận thức của từng học sinh nói riêng, nhằm đảm bảo được mối liên hệ ngược làm khép kín chu trình vận động của quá trình dạy học, là khép kín các thông tin, thông báo và các thông tin phản hồi. Từ những vấn đề đòi hỏi mới trên giáo viên phải biết lựa chọn phương pháp – phương tiện kiểm tra đánh giá sao cho phù hợp với
  3. trình độ nhận thức của học sinh, phù hợp với nội dung chương trình, phù hợp với nền giáo dục hiện đại Có thể nói việc kiểm tra đánh giá là bộ phận không thể thiếu của quá trình dạy học. Việc kiểm tra đánh giá trình độ nhận thức, kỹ năng, kỹ xảo, phát hiện những sai sót, những lỗ hổng về kiến thức … từ đó giúp giáo viên và học sinh tự điều chỉnh hoạt động dạy học và hoạt động học tập. Qua việc kiểm tra đánh giá học sinh có điều kiện tiến hành các hoạt động trí tuệ như: Ghi nhớ, tái hiện, chính xác hoá … đó là cách nhận định cách đánh giá công khai và kết quả học tập của mỗi học sinh Theo cách thức thực hiện hệ thống các câu hỏi của quá trình dạy học, lý luận giáo dục xem xét kiểm tra và đánh giá như là một nhóm phương pháp dạy học. Từ xưa tới nay kiểm tra đánh giá trình độ nhận thức của học sinh phổ thông và thông thường sử dụng 2 hình thức thi chủ yếu là: thi viết và thi vấn đáp Hai hình thức này chưa kiểm tra, đánh giá đầy đủ kiến thức đã học của học sinh một cách nhanh gọn, toàn diện và khách quan. Thi viết và thi vấn đáp, phạm vi đề ra còn hạn chế về kiến thức nhất là đối với thi học kỳ hoặc kỳ thi tốt nghiệp thì nội dung đề ra không thâu tóm không bao quát hết chương trình môn học và không đánh giá được toàn chương trình của học sinh. Mặt khác, hai hình thức thi này còn hạn chế về tính khách quan. Hơn nữa giáo viên thường huy động kiến thức của một bài hoặc một chương để ra đề thi, dễ dẫn đến học sinh học tủ, quay cóp học lệch Khắc phục tình trạng trên, phương châm của giáo dục hiện nay là thi kiểm tra đánh giá nhận thức của học sinh, phải tiến hành một cách nhanh gọn đồng thời phải tổng hợp được kiến thức của người học, rút ngắn được thời gian chấm bài. Vì vậy, đòi hỏi hình thức kiểm tra đánh giá phải hệ thống, phù hợp với nội dung chương trình môn học. Một trong những hình thức thi (kiểm tra, 2
  4. đánh giá) làm sao phải khắc phục được những yếu điểm trên đó là thi kiểm tra đánh giá bằng câu hỏi trắc nghiệm khách quan vì ưu điểm của phương pháp này đảm bảo tính khách quan giữa người dạy và người học, đảo bảo kiểm tra xuyên suốt lượng kiến thức đã học Đối với chương trình hoá học việc vận dụng câu hỏi trắc nghiệm khách quan vào kiểm tra đánh giá phần nào còn hạn chế và chưa được áp dụng nhiều vào từng lớp và từng khối trong chương trình phổ thông Chính vì lý do như vậy tôi chọn đề tài “Góp phần nghiên cứu xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan dùng để kiểm tra đánh giá môn Hoá học 12 ban KHTN trường THPT Yên Lạc II - Tỉnh Vĩnh Phúc” làm đề tài luận văn nghiên cứu của mình * Tính cấp thiết của đề tài Kết quả nghiên cứu có thể làm cơ sở cho những đề xuất về chính sách cho việc đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá vào quá trình đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá của bậc THPT nói chung và trong Hoá học lớp 12 nói riêng 2. Mục đích của đề tài - Xây dựng được ngân hàng câu hỏi TNKQ chuẩn cho bộ môn Hoá Học 12 ban KHTN trong trường THPT - Sử dụng ngân hàng câu hỏi TNKQ vào kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh - Làm rõ sự khác biệt về đổi mới kiểm tra đánh giá bằng ngân hàng câu hỏi TNKQ và phương pháp tự luận (viết và vấn đáp) 3. Giới hạn nghiên cứu của đề tài Ngân hàng câu hỏi TNKQ có khoảng 350 -400 câu được chuẩn hoá từ khoảng 600 câu cho kiến thức Hoá học lớp 12 ban KHTN - Chỉ nghiên cứu thử nghiệm sử dụng vào việc kiểm tra đánh giá cho khối lớp 12 trong trường THPT Yên Lạc 2. Tỉnh Vĩnh Phúc 3
  5. II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu * Câu hỏi nghiên cứu - Việc xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan cho bộ môn Hoá Học 12 ban cơ KHTN trong chương trình THPT sẽ nảy sinh những vấn đề gì? - Việc sử dụng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan vào đánh giá kết quả học tập của học sinh sẽ mang lại kết quả như thế nào? * Giả thuyết nghiên cứu - Việc xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan cho bộ môn Hoá Học 12 ban KHTN sẽ phải có đầy đủ kiến thức về đo lường và đánh giá trong giáo dục, thiết kế thử nghiệm và đánh giá các câu hỏi trắc nghiệm mới có thể có được ngân hàng khả dụng - Sử dụng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan vào đánh giá chất lượng của học sinh sẽ thu được kết quả tốt hơn khi sử dụng các phương pháp kiểm tra theo phương pháp truyền thống (Viết, vấn đáp, tự luận...) 2. Khách thể và đối tượng nghiên cứu Khách thể nghiên cứu: Học sinh lớp 12 trong trường THPT - Đối tượng nghiên cứu: Kiến thức Hoá học lớp 12 ban KHTN - 3. Phương pháp tiếp cận nghiên cứu: Sử dụng các phương pháp Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp chuyên - gia, phương pháp thực nghiệm sư phạm. Nhóm phương pháp lý thuyết: Phương pháp nghiên cứu lý thuyết, - phương pháp nghiên cứu nguồn tài liệu. Phương pháp thống kê toán học trong khoa học giáo dục và phần - mềm tính toán. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 4
  6. - Nghiên cứu cơ sở lý luận để lựa chọn xây dựng ngân hàng câu trắc nghiệm vào bộ ngân hàng câu hỏi trong việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh - Lựa chọn xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan cho bộ môn Hoá học 12 ban KHTN trong chương trình THPT - Đề xuất việc sử dụng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan trong kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh - Thử nghiệm với các câu hỏi nhằm xác định tính khả thi và hiệu quả của đề tài. 5
  7. B. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của đề tài Ở Châu Âu và Mỹ lĩnh vực khoa học đo lường trong giáo dục phát triển rất mạnh vào thời kì trước và sau chiến tranh thế giới thứ hai (Mặc dù khoa học đo lường trong giáo dục có thể xem như bắt đầu cách đây một thế kỉ) Để đánh dấu một bước phát triển rất mạnh lĩnh vực đo lường trong giáo dục có các dấu mốc quan trọng một loạt các trắc nghiệm và kĩ thuật ra đời như:Trắc nghiệm trí tuệ Stanford-Binet xuất bản năm 1916, bộ trắc nghiệm thành quả học tập tổng hợp đầu tiên Stanford Achievement Test ra đời vào 1923. Với việc đưa vào chấm trắc nghiệm bằng máy của IBM năm 1935, việc thành lập National Council on Measurement in Education (NCME) vào thập niên 1950 và ra đời Educational Testing Services (ETS) năm 1947, một ngành công nghiệp trắc nghiệm đã hình thành ở Mỹ. Từ đó đến nay khoa học về đo lường trong tâm lý và giáo dục đã phát triển liên tục. Quá trình phát triển của khoa học đo lường trong giáo dục không phải không có những phản hồi mà quá trình phát triển này phải chịu những phê bình chỉ trích một cách thường xuyên, nhưng sự phê bình chỉ trích này không đánh đổ được khoa học đo lường trong giáo dục, mà làm cho khoa học đo lường trong giáo dục có cơ sở điều chỉnh những cái còn thiếu sot và khuyết điểm, những cái chưa làm được để cho khoa học đo lường đánh giá trong giáo dục phát triển mạnh mẽ hơn Ngành công nghiệp trắc nghiệm ở Mỹ hiện nay ước tính mỗi năm số lượt trắc nghiệm tiêu chuẩn hoá cỡ 1/4 tỉ và trắc nghiệm do giáo viên soạn lên đến con số 5 tỉ. Ngành công nghiệp trắc nghiệm phát triển nhanh kéo theo một loạt ngành liên quan phát triển theo như: ngành công nghệ thông tin, lí thuyết đo lường trong tâm lí phát triển giáo dục. Từ đó việc nâng cao độ chính xác trắc nghiệm ra đời đó là công nghệ trắc nghiệm nhờ máy tính (Computer Adaptive Test – CAT) Một số nước trên thế giới dùng ngân hàng câu hỏi TNKQ để thi tuyển sinh đại học 6
  8. Ở Mỹ các trường đại học không tổ chức thi tuyển mà dựa vào kết quả của các kỳ thi do các công ty ngoài nhà nước tổ chức để xét tuyển. Có dịch vụ thi phục vụ công việc này, đó là SAT (Scholastic Assesment Test) do công ty ETS tổ chức, và ACT do Chương trình ACT (American College Testing Program) triển khai. SAT cho thi 2 môn, Anh ngữ và toán, còn ACT cho thi 4 môn, ngoài Anh ngữ và Toán còn thi thêm đọc hiểu và suy luận khoa học. Còn Nhật Bản, Trung tâm quốc gia về Tuyển sinh đại học" được thành lập năm 1977 tổ chức kỳ thi tuyển chung cho hấu hết các trường đại học công và tư của Nhật Bản hàng năm. Đề thi được soạn cho 31 môn cụ thể, mỗi thí sinh có thể lựa chọn thi 5 môn của 5 nhóm nào đó tuỳ theo quy định của trường đại học mà thí sinh dự định dự tuyển. Để tổ chức mỗi năm một kỳ thi, Trung tâm này chi tiêu hàng năm cỡ 100 triệu USD. Với Thái Lan kỳ thi tuyển sinh đại học liên kết được tổ chức cho hầu hết các trường đại học công và tư từ hơn 30 năm nay. Với kết quả kỳ thi, thí sinh có thể xin dự tuyển vào 5 ngành khác nhau của các trường đại học. Từ năm 1998 Thái Lan bắt đầu cải tiến kỳ thi liên kết bằng cách xét thêm điểm trung bình học ở trường phổ thông (với trọng số 10%) và cho thi mỗi năm 2 lần. Ở Trung Quốc từ năm 1989 tổ chức kỳ thi tốt nghiệp phổ thông trung học được giao cho các địa phương, còn kỳ thi tuyển đại học được tổ chức thống nhất trên cả lục địa Trung quốc vào đầu tháng 7 hàng năm và đề thi chủ yếu bằng ngân hàng câu hỏi TNKQ Còn ở nước ta khoa học về đo lường trong giáo dục ở trong tình trạng khá lạc hậu và phát triển rất chậm. Mãi đến năm 1974 một hoạt động đáng lưu ý là kỳ thi tú tài lần đầu tiên được tổ chức ở Miền Nam bằng phương pháp trắc nghiệm khách quan. Ở Miền Bắc nước ta trước đây khoa học này ít được lưu ý vì trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa cũ, kể cả Liên Xô, khoa học này rất kém phát triển. Vào những năm sau 1975 ở phía Bắc nước ta có một số người có nghiên cứu về khoa học đo lường trong tâm lý. Chỉ đến năm 1993 Bộ Giáo dục và Đào tạo mới mời một số chuyên gia nước ngoài vào nước ta phổ biến 7
  9. về khoa học này cũng như cử một số cán bộ ra nước ngoài học tập. Từ đó một số trường đại học có tổ chức các nhóm nghiên cứu áp dụng các phương pháp đo lường trong giáo dục để thiết kế các công cụ đánh giá, soạn thảo các phần mềm hỗ trợ, mua máy quét quang học chuyên dụng (OMR) để chấm thi. Một điểm mốc đáng ghi nhận là kỳ thi tuyển đại học thí điểm tại trường Đại học Đà Lạt vào tháng 7 năm 1996 bằng phương pháp trắc nghiệm khách quan mà sự thành công tốt đẹp của nó được Hội nghị rút kinh nghiệm của Bộ Giáo dục và Đào tạo vào tháng 9 năm đó khẳng định (Kỳ thi có 7200 thí sinh dự tuyển, 2 loại đề trắc nghiệm và tự luận được sử dụng để thí sinh tự chọn. Có khoảng 70% lượt thí sinh chọn đề trắc nghiệm, chấm thi bằng máy Opscan-7, trong khoảng 60 trường hợp vi phạm kỹ luật thi do quay cóp thì chỉ có 4 thí sinh từ nhóm làm trắc nghiệm). [12] Từ năm 1997 đến nay các hoạt động đổi mới phương pháp đo lường và đánh giá trong giáo dục ở các trường đại học lắng xuống. Cho đến mùa thi tuyển đại học năm 2002 Bộ Giáo dục và Đào tạo mới tổ chức kỳ thi tuyển đại học “3 chung”. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thành lập “Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng” vào ngày 18/7/2003 theo Nghị định số 85/2003/NĐ – CP để cải tiến việc thi cử và đánh giá chất lượng các trường đại học, và quyết định sẽ dùng phương pháp trắc nghiệm khách quan để làm đề thi tuyển đại học vào các mùa thi 2005, 2006, 2007, 2008 và tiếp theo nữa. Đây là cơ hội phát triển của khoa học về đo lường trong giáo dục ở nước ta trong thời gian đã qua và sắp tới. Ngoài ra các sở giáo dục trong cả nước cũng đã thành lập phòng khảo thí và kiểm định chất lượng. Mục đích của các phòng này lập ra để triển khai công tác quản lí đánh giá chất lượng và đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá cho các trường trong Sở. Nhưng đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm làm công tác kiểm tra đánh giá này hầu như không có hay có cũng không được đào tạo cơ bản. Nên kéo theo sự kiện mở lớp đào tạo thạc sỹ đo lường đánh giá trong giáo dục do Trung tâm đảo bảo chất lượng đào tạo và nghiên cứu phát triển giáo dục thuộc trường Đại học Quốc gia đảm nhiệm đào tạo. 8
  10. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TRA - ĐÁNH GIÁ 1. Cơ sở lí luận 1.1 Một số khái niệm trong đo lường đánh giá giáo dục Sau đây là một số khái niệm tiêu biểu 1.1.1. Đánh giá (Evaluation) trong giáo dục. - Định nghĩa của Jean Marie De Ketele: Đánh giá có nghĩa là + Thu thập thông tin đủ thích hợp, có giá trị và đáng tin cậy + Xem xét mức độ phù hợp giữa tập hợp thông tin này với một tập hợp các tiêu chí phù hợp với mục tiêu định ra ban đầu hay đã điều chỉnh trong quá trình thu thập thông tin + Nhằm ra một quyết định - Định nghĩa của Ralph tyler: Quá trình đánh giá chủ yếu là quá trình xác định mức độ thực hiện các mục tiêu trong các chương trình giáo dục - Định nghĩa của E.Beeby: Đánh giá giáo dục là sự thu thập lí giải một cách hệ thống những bằng chứng, như một phần của quá trình, dẫn tới sự phán xét về giá trị theo quan điểm hoạt động - Định nghĩa của Robert F.mager: Đánh giá là việc miêu tả tình hình của học sinh và giáo viên để dự đoán viêc phải tiếp tục làm để giúp học sinh tiến bộ Từ các định nghĩa trên chúng ta thấy khái niệm đánh giá trong giáo dục khi thì được các tác giả tiếp cận theo mục đích, yêu cầu, nội dung của một phạm vi hoạt động cụ thể, khi thì được tiếp cận ở một bình diện khái quát; khi thì được tiếp cận theo hướng nhấn mạnh của mục tiêu, khi thì được tiếp cận theo hướng nhấn mạnh về tính chất, về quy trình [11 ] Dựa trên những định nghĩa trên, Hoàng Đức Nhuận và Lê Đức Phúc trong cuốn “ Cơ sở lí luận của việc đánh giá chất lượng học tập của học sinh phổ thông đã đưa ra định nghĩa sau đây “Đánh giá trong giáo dục là quá 9
  11. trình thu thập và lí giải kịp thời, có hệ thống thông tin và hiện trạng, khả năng hay nguyên nhân của chất lượng và hiệu quả giáo dục căn cứ vào mục tiêu dạy học, mục tiêu đào tạo làm cơ sở cho những chủ trương, biện pháp và hành động tiếp theo” Từ định nghĩa khái quát trên về đánh giá trong giáo dục hai tác giả đã đưa ra định nghĩa về đánh giá kết qủa học tập của học sinh “Đánh giá kết quả học tập là quá trình thu thập và xử lí thông tin về trình độ, khả năng thực hiện mục tiêu học tập của học sinh, về tác động và nguyên nhân của tình hình đó nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên và nhà trường, cho bản thân học sinh để họ học tập ngày một tiến bộ hơn” [5] 1.1.2. Kiểm tra (testing) Kiểm tra: Xem xét thực chất thực tế [17] -Theo khoa học giáo dục: Kiểm tra là phương tiện và hình thức của đánh giá, Trong kiểm tra người ta xác định được trước các tiêu chí và không thay đổi chúng trong quá trình kiểm tra cũng như không quan tâm đến quyết định đề ra Như vậy, kiểm tra là quá trình hẹp hơn đánh giá, hay nói cách khác kiểm tra là một khâu của quá trình đánh giá [11] Trong quá trình dạy học, kiểm tra – đánh giá là một thành phần của quá trình dạy học, đảm nhận một chức năng lí luận dạy học cở bản, chủ yếu không thể thiếu được trong quá trình này. Kiểm tra có 3 chức năng bộ phận liên kết, thống nhất, thâm nhập vào nhau và bổ sung cho nhau đó là: đánh giá, phát hiện lệch lạc và điều chỉnh. [6] - Về mặt lí luận dạy học: kiểm tra có vai trò thông tin ngược trong dạy học, nó cho biết những thông tin, kết quả về quá trình dạy của thầy và quá trình của học trò để từ đó có những quyết định cho sự điều khiển tối ưu của cả thầy lẫn trò. Học sinh sẽ học tốt hơn nếu thường xuyên được kiểm tra và được đánh giá một cách nghiêm túc, công bằng với kĩ thuật tốt và hiệu nghiệm. [16] 10
  12. 1.1.3. Thi (Examanition) Thi: Làm bài theo đề đã ra nhằm kiểm tra kiến thức hoặc tay nghề để công nhận đạt trình độ, tiêu chuẩn nào đã có sẵn [17] Theo khoa học giáo dục: Thi cũng là kiểm tra nhưng có tầm quan trọng hơn được dùng khi kết thúc một giai đoạn đào tạo. Nếu trong kiểm tra Có tính chất “ tổng kết” (summative) có thể nổi trội hoặc không nổi trội so với tính chất “quá trình”(formative) thì trong thi tính chất tổng kết luôn luôn là tính chất nổi trội so với tính chất quá trình [11] 1.1.4. Đo: (Measurement). Đo: Xác định độ lớn của một đại lượng, một vật bằng những dụng cụ chuẩn xác [17] Trong khoa học giáo dục “đo” được hiểu là so sánh một cách hệ thống các kiến thức, kĩ năng và thái độ của một cá nhân hoặc tập thể người học đã đạt được với một hệ thống các kiến thức, kĩ năng và thái độ được dùng làm chuẩn. Khi sử dụng khái niệm “đo” trong đánh giá là muốn khẳng định tính định lượng, tính chính xác, tính đơn nhất của kết quả đánh giá [11] 1.1.5.Kết quả học tập (Study achievement): có thể được hiểu theo hai cách khác nhau tuỳ theo mục đích của việc đánh giá + Kết quả học tập được coi là mức độ thành công trong học tập của học sinh, được xem xét trong mối quan hệ với mục tiêu đã xác định, chuẩn kiến thức và kĩ năng cần đạt được mà công sức thời gian người học bỏ ra. Theo cách định nghĩa này thì kết quả học tập là mức độ thực hiện tiêu chí (Criterion) + Kết quả học tập cũng được coi là mức độ thành tích đã đạt được của một học sinh so với các bạn cùng học, theo cách định nghĩa này thì kết quả học tập là mức độ đạt chuẩn (norm) [11] 1.2 Mục tiêu dạy học, mục đích học tập * Mục tiêu dạy học là những gì học sinh cần đạt được sau khi học xong môn học, nó bao gồm: - Hệ thông kiến thức khoa học và cả phương pháp nhận thức chung. 11
  13. - Hệ thống các kĩ năng. - Khả năng vận dụng vào thực tế - Thái độ, tình cảm đối với khoa học và xã hội. * Mục đích học tập: Khi học xong một đơn vị “kiến thức” nào đó thì mục đích học tập của học sinh là: - Phải lĩnh hội được nội dung kiến thức đó nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức về thế giới tự nhiên và xã hội. - Học sinh được trang bị kiến thức để đáp ứng yêu cầu về thi tuyển, nghề nghiệp và cuộc sống. * Mục tiêu dạy học, mục đích học tập: chính là cơ sở cho việc xác định nội dung dạy học, phương pháp và phương tiện dạy học, do đó nó cũng là cơ sở để lựa chọn phương pháp và phương tiện kiểm tra – đánh giá kết quả học tập. [16] 1.3 Đánh giá kết quả học tập. Đánh giá kết quả học tập là: quá trình đo lường mức độ đạt được của học sinh về các mục tiêu và nhiệm vụ của quá trình dạy học, là mô tả một cách định tính và định lượng: tính đầy đủ, tính đúng đắn, tính chính xác, tính vững chắc của kiến thức, mối liên hệ của kiến thức với đời sống, các khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, mức độ thông hiểu, khả năng diễn đạt bằng lời nói, bằng văn viết, bằng chính ngôn ngữ chuyên môn của học sinh … và cả thái độ của học sinh trên cơ sở phân tích các thông tin phản hồi từ việc quan sát, kiểm tra, đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao, đối chiếu với những chỉ tiêu, yêu cầu dự kiến, mong muốn đạt được của môn học. Đánh giá kết quả học tập của học sinh là một quá trình phức tạp và công phu. Vì vậy, để việc đánh giá đạt kết quả tốt thì quy trình đánh giá gồm những công đoạn sau: - Phân tích mục tiêu học tập qua các kiến thức, kĩ năng trang bị cho người học 12
  14. - Đặt ra các yêu cầu về mức độ đạt được các kiến thức, kĩ năng trên dựa trên những dấu hiệu có thể đo lường hoặc quan sát được. - Tiến hành đo lường các dấu hiệu đó để đánh giá mức độ đạt được về các yêu cầu đặt ra, biểu thị bằng điểm số. - Phân tích, so sánh các thông tin nhận được với các yêu cầu đặt ra rồi đánh giá, xem xét kết quả học tập của học sinh, xem xét mức độ thành công của phương pháp giảng dạy của thầy… để từ đó cải tiến, khắc phục những nhược điểm Điều quan trọng trong đánh giá là quán triệt nguyên tắc vừa sức, bám sát yêu cầu của chương trình. Đánh giá kết quả học tập dựa trên tiêu trí dạy học sẽ nhận những thông tin phản hồi chính xác nhằm bổ sung, hoàn thiện quá trình dạy học. Như vậy, kết quả học tập là mức độ thực hiện các tiêu chí hay các chuẩn mực, theo mục đích học tập đã được xác định trong chương trình giáo dục [16+ 6] 1.4 Ý nghĩa của việc kiểm tra – đánh giá. Việc kiểm tra – đánh giá có hệ thống và thường xuyên cung cấp kịp thời những thông tin “ liên hệ ngược trong” giúp người học tự điều chỉnh hoạt động học. Nó giúp cho học sinh kịp thời nhận thức mức độ đạt được những kiến thức của mình, còn lỗ hổng kiến thức nào cần được bổ sung trước khi bước vào phần mới của chương trình học tập có cơ hội để nắm chắc những yêu cầu cụ thể đối với từng phần của chương trình. Ngoài ra thông qua kiểm tra – đánh giá học sinh có điều kiện tiến hành các hoạt động trí tuệ: ghi nhớ, tái hiện, chính xác hoá, khái quát hoá, hệ thống kiến thức. Nếu việc kiểm tra - đánh giá chú trọng phát huy trí thông minh, linh hoạt vận dụng kiến thức đã học để giải quyết những tình huống thực tế thì việc kiểm tra – đánh giá được tổ chức nghiêm túc, công bằng sẽ giúp học sinh nâng cao tinh thần trách nhiệm trong học tập, có ý trí vươn lên đạt kết quả cao hơn, củng cố lòng tin vào khả năng của mình, nâng cao ý thức tự giác, khắc phục tính chủ quan tự mãn. 13
  15. Việc kiểm tra – đánh giá học sinh cung cấp cho giáo viên những thông tin “ liên hệ ngược ngoài” giúp người dạy điều chỉnh kịp thời hoạt động dạy. Kiểm tra đánh giá kết hợp với việc theo dõi thường xuyên tạo điều kiện cho giáo viên nắm được một cách cụ thể và khá chính xác năng lực và trình độ mỗi học sinh trong lớp mình dạy để có thể có biện pháp phụ đạo bồi dưỡng riêng thích hợp qua đó của những cải tiến nội dung, phương pháp hình thức tổ chức dạy học mà mình theo đuổi. 2. Công cụ đo lường thành quả học tập 2.1 Các hình thức kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh ở trường trung học phổ thông [16] Kiểm tra vấn đáp - Mục đích kiểm tra vấn đáp (kiểm tra miệng): Kiểm tra miệng còn gọi là kiểm tra vấn đáp (thường được thực hiện lúc bắt đầu vào bài mới, cũng có thể đang trong giảng quá trình giảng bài mới): là hình thức của kiểm tra thường xuyên, được thực hiện qua các khâu ôn tập, củng cố bài cũ, tiếp thu bài mới, vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn. Kiểm tra miệng nhằm giúp cho GV kịp thời phát hiện lệch lạc của học sinh để điều chỉnh cách học của trò, đồng thời điều chỉnh cách dạy của thầy. - Thực hiện kiểm tra miệng: * Kiểm tra miệng trước hết phải là xác định được chính xác các kiến thức cần phải kiểm tra, củng cố, từ đó chuẩn bị các câu hỏi phù hợp cho từng loại học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu kém. * Câu hỏi đặt ra phải chính xác, rõ ràng để học sinh không trả lời lạc đề, câu hỏi phải kích thích tích cực tư duy của học sinh. * Giáo viên cần theo dõi, lắng nghe câu trả lời của học sinh, không ngắt lời học sinh, có thái độ tế nhị và nhạy cảm, hiểu biết cá tính của học sinh để tạo điều kiện cho học sinh trả lời một cách tốt nhất. * Sau khi học sinh trả lời, giáo viên phải uốn nắn, bổ sung kiến thức còn thiếu hay hiểu sai, chưa chính xác của học sinh, rèn luyện cho học sinh 14
  16. cách trả lời ngắn gọn, xúc tích, chống thái độ quá dễ dãi. Giáo viên phải có thái độ nghiêm khắc, đúng mực, khách quan. Kiểm tra viết Ở trường phổ thông hiện nay, kiểm tra viết là hình thức kiểm tra 15 phút, 1 tiết (45 phút) và kiểm tra học kì (45 phút trở lên) dưới hình thức tự luận. - Mục đích của bài kiểm tra viết. *Qua bài làm của học sinh, giáo viên có thể đánh giá được trình độ nắm kiến thức, kĩ năng, đánh giá được sự phát triển ngôn ngữ chuyên môn, cách diễn đạt một vấn đề của học sinh. *Kết quả bài kiểm tra viết giúp giáo viên đánh giá tình hình tiếp thu chung của toàn bộ học sinh trong lớp về một vấn đề, một nội dung nào đó. Ngoài ra nó còn giúp cả giáo viên và học sinh nhìn lại kết quả dạy học của những khoảng thời gian dạy học nhất định. Tuy nhiên, đối với một bài kiểm tra trong một khoảng thời gian nhất định giáo viên chỉ có thể kiểm tra học sinh một phần rất hạn chế của nội dung chương trình học do số lượng câu hỏi ít, công cụ đánh giá ít chính xác vì học sinh có thể quay cóp tài liệu, chép bài của nhau trong lúc kiểm tra. - Thực hiện bài kiểm tra viết môn học. * Với bài kiểm tra 15 phút, giáo viên có thể báo trước hoặc không báo trước, có thể kiểm tra đầu tiết hoặc cuối tiết, nhưng bài một tiết (45 phút), thì nên báo trước để học sinh chuẩn bị. Giáo viên cần chuẩn bị 2, 3 … đề có nội dung, khối lượng, mức độ khó của kiến thức, kĩ năng tương đương giữa các lớp. * Xác định mục tiêu cần kiểm tra – đánh giá: trước khi xác định mục tiêu kiểm tra – đánh giá chúng ta cần phải phân tích nội dung chương trình thành các nội dung dạy học cụ thể, rồi gán cho nó một trọng số tuỳ theo tầm quan trọng của mỗi nội dung. Trên mỗi nội dung phân tích và liệt kê các mục 15
  17. tiêu dạy học cụ thể hay các hành vi cần đo lường, để từ đó xác định số lượng câu hỏi tuỳ thuộc vào mức độ quan trọng của từng mục tiêu và từng nội dung dạy học. 2.2 Đề thi trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan. 2.2.1. Trắc nghiệm tự luận [8] Khái niệm: TNTL là phương pháp đánh giá kết quả học tập bằng việc sử dụng công cụ đo lường là các câu hỏi đóng hoặc mở, học sinh trả lời dưới dạng bài viết bằng chính ngôn ngữ của học sinh trong một khoảng thời gian đã định trước. TNTL cho phép học sinh một sự tự do tương đối nào đó để trả lời một câu hỏi trong bài kiểm tra. Để trả lời câu hỏi đòi hỏi học sinh phải nhớ lại kiến thức, phải biết sắp xếp và diễn đạt ý kiến của mình một cách chính xác rõ ràng. Bài TNTL trong một chừng mực nào đó được chấm điểm một cách chủ quan và điểm cho bởi những người chấm khác nhau có thể không thống nhất. Một bài tự luận thường có ít câu hỏi vì phải mất nhiều thời gian để viết câu trả lời. - Ưu điểm của trắc nghiệm tự luận * Câu hỏi TNTL đòi hỏi học sinh phải tự soạn câu trả lời và diễn tả bằng ngôn ngữ của chính mình vì vậy nó có thể đo được nhiều trình độ kiến thức, đặc biệt là ở trình độ phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá… Nó không những kiểm tra được kiến thức của học sinh mà còn kiểm tra được kĩ năng giải bài tập định tính cũng như định lượng. * Có thể kiểm tra – đánh giá các mục tiêu liên quan đến thái độ, sự hiểu biết những ý niệm, sở thích và khả năng diễn đạt tư tưởng. * Hình thành cho học sinh kĩ năng sắp xếp ý tưởng, suy diễn, khái quát hoá, phân tích, tống hợp… phát huy tính độc lập, tư duy sáng tạo. 16
  18. * Việc chuẩn bị câu hỏi dễ hơn ít tốn công hơn, so với câu hỏi trắc nghiệm khách quan. - Nhược điểm của trắc nghiệm tự luận * Bài kiểm tra theo kiểu tự luận thì số lượng câu hỏi ít, việc chấm điểm lại phụ thuộc vào tính chất chủ quan, trình độ người chấm do đó có độ tin cậy thấp. * Cũng do phụ thuộc vào tính chủ quan của người chấm nên nhiều khi cùng một bài kiểm tra, cùng một người chấm nhưng ở hai thời điểm khác nhau hoặc cùng một bài kiểm tra nhưng do hai người khác nhau chấm, kết quả sẽ khác nhau, do đó phương pháp này có độ giá trị thấp. * Vì số lượng câu hỏi ít nên không thể kiểm tra hết các nội dung trong chương trình, làm cho học sinh có chiều hướng học lệch, học tủ. 2.2.2. Trắc nghiệm khách quan [10] Khái niệm TNKQ là phương pháp kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh bằng hệ thống câu hỏi TNKQ gọi là “ khách quan” vì cách chấm điểm hoàn toàn khách quan không phụ thuộc vào người chấm. * Ưu điểm của trắc nghiệm khách quan - Do số lượng của câu hỏi nhiều nên phương pháp TNKQ có thể kiểm tra nhiều nội dung kiến thức bao trùm gần cả học phần, nhờ vậy buộc học sinh phải học thật kĩ tất cả các nội dung kiến thức trong học phần. - Phương pháp TNKQ buộc học sinh phải tự giác, chủ động, tích cực học tập. Điều này tránh được tình trạng học tủ, học lệch trong học sinh. - Thời gian làm bài từ 1 ÷ 3 phút một câu hỏi, hạn chế được tình trạng quay cóp và sử dụng tài liệu. - Làm bài TNKQ học sinh chủ yếu sử dụng thời gian để đọc đề, suy nghĩ, không tốn thời gian viết ra bài làm như TNTL do vậy có tác dụng rèn luyện kỹ năng nhanh nhẹn phát biểu tư duy cho học sinh. 17
  19. - Do số câu hỏi nhiều nên bài TNKQ thường gồm nhiều câu hỏi do đó có độ giá trị và độ tin cậy cao. - Có thể phân tích tính chất câu hỏi bằng phương pháp thủ công hoặc nhờ vào các phần mềm tin học do vậy có thể sửa chữa, bổ sung hoặc loại bỏ các câu hỏi để bài TNKQ làm cho chúng ngày càng có giá trị hơn. - Ngoài ra việc phân tích câu hỏi còn giúp giáo viên lưa chọn phương pháp dạy phù hợp, hướng dẫn học sinh có phương pháp học tập đúng đắn, ít tốn công sức, thời gian chấm bài và hoàn toàn khách quan, không có sự chênh lệch giữa các giáo viên cùng chấm - Kiểm tra bằng phương pháp TNKQ có độ may rủi ít hơn TNTL vì không có những trường hợp trúng tủ, từ đó loại bỏ dần những thói quen đoán mò, học lệch, học tủ, chủ quan.sử dụng tài liệu…của học sinh, nó đang là mối lo ngại của nhiều giáo viên hiện nay. - Điểm của bài kiểm tra TNKQ hầu như thật sự là điểm do học sinh tự làm bài, vì học sinh phải làm được 2, 3…câu trở lên thì mới được một điểm trong thang điểm 10. Do vậy xác suất quay cóp, hoặc chỉ đoán mò để được điểm rất thấp. * Nhược điểm của trắc nghiệm khách quan - TNKQ dùng để đánh giá các mức trí năng ở mức biết, hiểu thì thật sự có ưu điểm còn ở mức phân tích, tổng hợp, đánh giá và năng lực thực nghiệm thì bị hạn chế, ít hiệu quả vì nó không cho phép kiểm tra khả năng sáng tạo, chủ động, khả năng tổng hợp kiến thức cũng như phương pháp tư duy suy luận, giải thích, chứng minh của học sinh. Vì vậy đối với cấp học càng cao thì khả năng áp dụng hình thức TNKQ càng bị hạn chế. - Phương pháp TNKQ chỉ cho biết ‘kết quả” suy nghĩ của học sinh mà không cho biết quá trình tư duy, thái độ của học sinh đối với nội dung được kiểm tra, do đó không đảm bảo đươc chức năng phát hiện lệch lạc của kiểm tra để từ đó có sự điều chỉnh việc dạy và việc học. 18
  20. - Do sẵn có phương án trả lời câu hỏi, nên TNKQ khó đánh giá được khả năng quan sát, phán đoán tinh vi, khả năng giải quyết vấn đề khéo léo, khả năng tổ chức sắp xếp, diễn đạt ý tưởng, khả năng suy luận, óc tư duy độc lập, sáng tạo và sự phát triển ngôn ngữ chuyên môn của học sinh. - Việc soạn được câu hỏi đúng, chuẩn là công việc thực sự khó khăn, nó yêu cầu người soạn phải có chuyên môn khá tốt, có nhiều kinh nghiệm và phải có thời gian. Điều khó nhất là ngoài một câu trả lời đúng thì các phương án trả lời khác để chọn cũng phải có vẻ hợp lý. - Do số lượng câu hỏi nhiều bao trùm nội dung của cả chương trình học nên câu hỏi chỉ đề cập một vấn đề, một kiến thức, câu không khó do đó hạn chế việc phát triển tư duy cao ở học sinh khá giỏi. Có thể có một số câu hỏi mà những học sinh thông minh có thể có nhưng câu trả lời hay hơn đáp án đúng đã cho sẵn, nên những học sinh đó không cảm thấy thoả mãn. - Khó soạn được một bài TNKQ hoàn hảo và tốn kém trong việc soạn thảo, in ấn đề kiểm tra và học sinh cũng mất nhiều thời gian để đọc câu hỏi. Các loại câu hỏi trắc nghiệm khách quan Câu hỏi trắc nghiệm khách quan có thể chia làm các loại chính như sau: 2.2.2.1. Trắc nghiệm “đúng sai” Câu đúng sai là câu trắc nghiệm yêu cầu người thi phải phán đoán đúng hay sai đối với một câu trần thuật hoặc câu hỏi, cũng chính là để người thi tuỳ ý lựa chọn một trong hai đáp án đưa ra. * Ưu điểm của câu đúng sai + Ra đề dễ dàng. Đề thi vừa có thể là câu trần thuật vừa có thể là câu hỏi. Ý nghĩa của đề thi vừa có thể là khẳng định, cũng có thể là phủ định. + Người thi trả lời thuận tiện. + Có thể dùng máy để đánh giá, đọc bài thi trắc nghiệm, tiết kiệm được thời gian, sức lực, lại chính xác, khách quan. + Tất cả các môn học đều có thể sử dụng. 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2