intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Một số giải pháp hoàn thiện và tăng cường bảo đảm tiền vay tại Sở Giao Dịch I- Ngân Hàng Công Thương Việt Nam

Chia sẻ: Ly Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:85

85
lượt xem
29
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong những năm qua, cùng với thành tựu đổi mới của đất nước, hệ thống Ngân Hàng Việt Nam đã có những đổi mới sâu sắc, đóng góp tích cực vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng đã có rất nhiều các vụ đổ bể tín dụng nghiêm trọng xảy ra như các vụ án TAMEXCO, EPCO - Minh Phụng....Mà nguyên nhân sâu sa của các vụ đổ bể tín dụng này là do một số Ngân Hàng Thương Mại đã không...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Một số giải pháp hoàn thiện và tăng cường bảo đảm tiền vay tại Sở Giao Dịch I- Ngân Hàng Công Thương Việt Nam

  1. LUẬN VĂN: Một số giải pháp hoàn thiện và tăng cường bảo đảm tiền vay tại Sở Giao Dịch I- Ngân Hàng Công Thương Việt Nam
  2. Lời Mở đầu Trong những năm qua, cùng với thành tựu đổi mới của đất nước, hệ thống Ngân Hàng Việt Nam đã có những đổi mới sâu sắc, đóng góp tích cực vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng đã có rất nhiều các vụ đổ bể tín dụng nghiêm trọng xảy ra như các vụ án TAMEXCO, EPCO - Minh Phụng....Mà nguyên nhân sâu sa của các vụ đổ bể tín dụng này là do một số Ngân Hàng Thương Mại đã không thực hiện được đầy đủ cơ chế bảo đảm tiền vay, dẫn tới tình trạng đánh giá sai lệch giá trị tài sản bảo đảm. Bên cạnh đó, một số Ngân Hàng còn nhiều sơ hở trong quản lý tài sản bảo đảm, dẫn đến nhiều tài sản bảo đảm thực tế chỉ tồn tại trên giấy tờ của Ngân Hàng lập ra, còn tài sản thì vẫn do khách hàng nắm giữ và sử dụng không được pháp luật cho phép, thậm chí tổ chức tín dụng còn chấp nhận cả những tài sản không đủ điều kiện quy định. Sau những tổn thất đó, các Ngân Hàng lại ra sức thắt chặt các điều kiện quy định về cho vay của mình với mục địch nhằm ngăn chặn tối đa các tổn thất có thể xảy ra. Việc thắt chặt hoạt động cho vay đó của Ngân Hàng bằng việc quy định chặt chẽ hơn, yêu cầu cao hơn đối với hoạt động cho vay có bảo đảm và nghĩ rằng: như vậy thì khoản cho vay sẽ được bảo đảm hơn, sẽ có sự lựa chọn khách hàng kỹ càng hơn...và trên cả là tạo ra được hành lang an toàn cho hoạt động của mình, thu hồi lại được số vốn bỏ ra và thu lãi. Nhưng có chắc rằng việc thắt chặt quy định về cho vay có bảo đảm sẽ đạt được sự an toàn như mong muốn hay không? Thực tế thì thấy rằng, các Ngân Hàng đã tạo ra một hàng rào cản có hiệu quả trong việc lọc các khoản vay có hiệu quả, nhưng đồng thời họ cũng gặp rất nhiều khó khăn và trước tiên là đánh mất đi rất nhiều khách hàng có tiềm năng, điều đó cũng đồng nghĩa với việc mất đi một khoản lợi nhuận mà lẽ ra là có được. Hơn nữa, việc thắt chặt như vậy cũng không phải là biện pháp bảo đảm an toàn mà chỉ làm cho Ngân Hàng xa dời đi vai trò quan trọng và truyền thống của Ngân Hàng từ xưa là chuyển vốn từ nơi thiếu vốn sang nơi thừa vốn. Sở Giao Dịch I - Ngân Hàng Công Thương Việt Nam cũng không nằm ngoài suy nghĩ đó. Sở Giao Dịch I - Ngân Hàng Công Thương Việt Nam đã khép cửa lại với một số lượng lớn khách hàng và có yêu cầu rất cao đối với một lượng lớn khách
  3. hàng nữa, mà những khách hàng này lại là nguồn có thể thu lợi nhuận cao cho Ngân Hàng và họ cũng là những tổ chức có thể đảm bảo an toàn. Qua thời gian thực tập tại Sở Giao Dịch I - Ngân Hàng Công Thương Việt Nam, em nhận thấy Sở Giao Dịch I - Ngân Hàng Công Thương Việt Nam đã chỉ áp dụng hình thức cho vay baỏ đảm không bằng tài sản cho thành phần kinh tế quốc doanh, còn thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thì bắt buộc phải bảo đảm bằng tài sản. Một khoản cho vay an toàn không chỉ đơn giản như vậy, không phải chỉ dựa trên các yêu cầu về bảo đảm, về việc cho vay một số đối tượng khách hàng, mà đó là sự đánh giá khách hàng trên nhiều phương diện. Vì vậy, em chọn đề tài: "Một số giải pháp hoàn thiện và tăng cường bảo đảm tiền vay tại Sở Giao Dịch I- Ngân Hàng Công Thương Việt Nam". Luận văn của em chia làm ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về bảo đảm tiền vay. Chương 2: Thực trạng nghiệp vụ bảo đảm tiền vay tại SGDI - NHCTVN. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện và tăng cường bảo đảm tiền vay tại SGDI- NHCTVN.
  4. Chương 1 Những vấn đề lý luận cơ bản về bảo đảm tiền vay 1. Các hoạt động chủ yếu của NHTM 1.1. Khái niệm về NHTM NHTM là một loại hình tổ chức tài chính, kinh doanh thương mại trên lĩnh vực tiền tệ, hoạt động kinh doanh của NHTM có quan hệ sâu rộng trong đời sống kinh tế và ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân. Lịch sử của ngành NH ghi nhận rằng sự ra đời, tồn tại và phát triển của ngành NH được quyết định bởi quá trình phát triển của các quan hệ hàng hoá- tiền tệ. Và khi nền kinh tế phát triển đó cũng là điều kiện đòi hỏi sự phát triển của NHTM để trở thành động lực, là nhân tố thúc đẩy nền kinh tế phát triển. NH là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế- xã hội đều gửi tiền tại NH. NH đóng vai trò là người thủ quỹ cho toàn xã hội. NH là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất. Hơn nữa NH còn là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. " Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán". 1.2. Các hoạt động chủ yếu của NHTM Trong nền kinh tế thị trường luôn diễn ra rất nhiều các hoạt động, trong đó có người tạm thời thừa vốn, có tiền tích luỹ... gọi chung là người có khả năng cung cấp tín dụng, còn một bên là những người đang thiếu vốn, có cơ hội đầu tư... gọi chung là người có nhu cầu tín dụng, NHTM chính là “cầu nối” họ với nhau thông qua hoạt động huy động và cung cấp tín dụng. Hơn thế nữa, khi nền kinh tế càng phát triển thì NHTM chính là trung gian thanh toán và tạo ra phương tiện thanh toán cho nền kinh tế. Nhờ các hoạt động đó của mình mà NH đóng một vai trò vô
  5. cùng to lớn trong nền kinh tế, trong sự thịnh vượng và ổn định của nền kinh tế. Đó cũng là những gì tạo nên đặc trưng cho ngành NH. Theo thời gian, những hoạt động cơ bản đó ngày càng được nâng cấp hơn cả về chất lượng và số lượng, và đa dạng hoá các loại hình hoạt động để ngày một đáp ứng tốt hơn nhu cầu của mọi khách hàng trong nền kinh tế và phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. (1) Hoạt động nhận tiền gửi Theo luật các tổ chức tín dụng Việt Nam quy định thì "Tiền gửi là số tiền của khách hàng gửi tại tổ chức tín dụng dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được hưởng lãi và phải được hoàn trả cho người gửi tiền" Hoạt động cấp tín dụng là nguồn thu lợi chủ yếu để NHTM tiếp tục phát triển và đứng vững. Vì vậy, đây được coi là hoạt động đầu tiên đối với bất kỳ một NH và các NH luôn tìm mọi cách để có thể huy động được càng nhiều nên hoạt động này ngày càng đa dạng và có thêm nhiều hình thức mới. Các khoản tiền gửi này không thuộc quyền sở hữu của NHTM, nhưng họ được quyền sử dụng đối với chúng. Tuy là nguồn chủ yếu, chiếm tỷ trọng đáng kể trong nguồn vốn, song lại luôn biến động cho nên khi sử dụng các NHTM bắt buộc phaỉ duy trì một phần đáng kể làm dự trữ đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả cho khách hàng. Tiền gửi chủ yếu bao gồm tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm -Tiền gửi thanh toán: là loại tiền gửi được khách hàng ký thác vào NH để NH giữ hộ và thực hiện các khoản chi trả hộ. Nói một cách khác đây là tiền chờ thanh toán chứ không phải là tiền để dành. Vì thế mà, đối với khách hàng, đây là một tài sản họ ký thác, uỷ nhiệm cho NH bảo quản và thực hiện các nghiệp vụ liên quan theo yêu cầu của mình. Khách hàng khi gửi tiền sẽ không mất đi quyền sở hữu cũng như quyền sử dụng số tiền đó, họ có quyền lấy ra hoặc chuyển nhượng, chi trả cho bất kỳ ai. Còn đối với NH, thì đây là khoản nợ mà NH luôn phải trả bất kỳ lúc nào. Chính vì vậy mà hoạt động này có lãi suất thấp. Tuy nhiên do sự không ăn khớp giữa sự thanh toán của khách hàng cho nên có những lúc trên tài khoản tạo nên một khoản tồn và NH có thể sử dụng để hoạt động kinh doanh nhưng không
  6. được lớn lắm vì phải dự trữ một lượng lớn cho việc đáp ứng nhu cầu thanh toán bất kỳ của khách hàng. -Tiền gửi có kỳ hạn: trên thực tế thì nhiều khoản chi trả của khách hàng sau một thời gian xác định mới phải thực hiện, mà tiền gửi thanh toán thì có nhiều bất lợi do lãi suất thấp và NH cũng không thể sử dụng được nhiều trên tài khoản khi có tiền nhàn rỗi. Và với tiền gửi có kỳ hạn, sự thanh toán (sự rút tiền ra) chỉ khi đến hạn theo quy định, nên với hình thức này lãi suất cao và NH thì cũng sử dụng được nhiều hơn lượng tiền nhàn rỗi do tính ổn định trên tài khoản này. -Tiền gửi tiết kiệm: là khoản tiền để dành của mỗi cá nhân được gửi vào NH nhằm hưởng lãi suất theo định kỳ. Nó là một dạng tích luỹ đặc biệt của tích luỹ tiền tệ trong lĩnh vực tiêu dùng cá nhân. Gồm có tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn (giống như tiền gửi có kỳ hạn nhưng lãi suất cao hơn) và tiết kiệm không kỳ hạn (không sử dụng vào mục đích thanh toán và có thể rút ra bất kỳ lúc nào). (2) Hoạt động cung cấp tín dụng Tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia được sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả theo thời hạn đã thoả thuận. Giá trị hoàn lại thường lớn hơn giá trị ban đầu. Chính vì vậy mà NHTM thu được lợi nhuận sau khi thu lãi trừ đi các khoản phí đối với khoản tín dụng đó. Hầu hết khoản mục nguồn vốn nói chung và vốn huy động nói riêng khi về tay NHTM thì các NHTM đều phải trả một khoản lãi tính cho đến từng giờ, thậm chí là từng phút trên từng đồng vốn, đó chính là khoản phí mà NHTM phải trả khi huy động vốn. Chính vì vậy, với mục tiêu an toàn và lợi nhuận, bên cạnh việc phải duy trì lượng dự trữ đảm bảo an toàn cho NH và khách hàng thì NHTM phải cho vay hoặc đầu tư ngay số tài sản nợ có được vào những dịch vụ để sinh lời. Hoạt động cấp tín dụng sẽ là nguồn thu lợi chủ yếu để NHTM tiếp tục phát triển và đứng vững. Một hoạt động tín dụng “tốt” thì phải đáp ứng được nhu cầu tín dụng trên nhiều lĩnh vực, thoả mãn nhiều khách hàng với những mục đích khác nhau, sử dụng có hiệu quả vốn huy động và đảm bảo được mục tiêu an toàn và lợi nhuận của NH.
  7. Nói chung tín dụng là kém lỏng so với các khoản tài sản có khác bởi vì chúng không thể chuyển thành tiền mặt trước khi các khoản tín dụng đó mãn hạn. Tín dụng được chia theo nhiều hình thức khác nhau. -Theo thời gian có tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn: tín dụng ngắn hạn thời hạn từ 12 tháng trở xuống, trung hạn trên 1 năm tới 5 năm, dài hạn trên 5 năm. Việc xác định thời hạn cũng chỉ mang tính chất tương đối vì nhiều khoản tín dụng không xác định trước được chính xác thời hạn. Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn thường cao hơn tín dụng trung và dài hạn do tín dụng trung và dài hạn thường có rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt hơn và khan hiếm hơn. Phân loại theo hình thức này thường chịu ảnh hưởng của kỳ hạn, tính ổn định của nguồn vốn, khả năng quản lý thanh khoản, khả năng dự báo rủi ro... -Theo hình thức tài trợ tín dụng được chia thành cho vay, bảo lãnh, cho thuê... . Trong đó, cho vay là tài sản lớn nhất và thường được định lượng theo hai chỉ tiêu doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuối kỳ; Bảo lãnh được ghi vào tài sản ngoại bảng, đó là giá trị mà NH cam kết trả thay khách hàng của mình. Phần giá trị bảo lãnh NH phải chi trả được ghi vào tài sản nội bảng. -Tín dụng chia theo bảo đảm: thì tín dụng có bảo đảm bằng tài sản và không có bảo đảm bằng tài sản. Về nguyên tắc mọi khoản tín dụng của NHTM đều phải có bảo đảm. Tuy nhiên, các khoản tài trợ có bảo đảm bằng tài sản trên quan điểm của NH là các khoản tài trợ có nguồn thu nợ thứ hai. Các khoản tài trợ không gắn với hợp đồng bảo đảm được xếp vào tín dụng không bảo đảm bằng tài sản. Việc chia này giúp NH theo dõi các hợp đồng về bảo đảm, đưa ra các biện pháp xử lý bảo đảm khi cần thiết. (3)Trung gian thanh toán Ngoài 2 hoạt động chủ yếu trên các NHTM còn là trung gian thanh toán. Phần lớn các khoản chi trả về hàng hoá và dịch vụ của xã hội đều được thực hiện qua NH với những hình thức thanh toán thích hợp, thủ tục đơn giản và kỹ thuật ngày càng tiên tiến. Nhờ tập trung công việc thanh toán của xã hội vào NH, nên việc giao lưu hàng hoá, dịch vụ trở nên thuận tiện, nhanh chóng, an toàn và tiết kiệm hơn. Không
  8. những vậy, do thực hiện chức năng trung gian thanh toán, NHTM có điều kiện huy động tiền gửi của xã hội, trước hết là của các doanh nghiệp tới mức tối đa, tạo nguồn vốn cho vay và đâù tư, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của NH. Trung gian thanh toán gồm rất nhiều loại dịch vụ NH khác nhau, chủ yếu là các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt. -Dịch vụ chuyển khoản từ tài khoản này sang tài khoản khác cùng ở một NH hay ở 2 NH khác nhau, thông qua các công cụ như séc, lệnh chi, thẻ chi trả. -Dịch vụ thu hộ và chi hộ cho khách hàng có tài khoản tiền gửi thanh toán tại NH. Việc chi hộ NH chỉ tiến hành khi có lệnh của chủ tài khoản. -Dịch vụ trả lương cho các doanh nghiệp có nhu cầu. Đến tháng doanh nghiệp chỉ cẩn gửi bảng lương qua NH, theo đó NH sẽ ghi nợ vào tài khoản doanh nghiệp đó và tiến hành chi lương cho những người có tên trong danh sách tiền lương. -Dịch vụ chuyển tiền từ địa phương này sang địa phương khác. -Dịch vụ khấu trừ tự động cũng là dịch vụ với khách hàng là cá nhân. Theo đó nếu khách hàng cho phép, NH sẽ tự động ghi nợ tài khoản của khách hàng để thanh toán các hoá đơn đòi tiền do các đơn vị dịch vụ gửi đến như: trả tiền điện, nước, điện thoại, thuê nhà... Đây là những khoản chi trả thường xuyên trong tháng, nếu không có dịch vụ này khách hàng sẽ tốn nhiều thời gian và phiền toái khi đi thanh toán chúng. 2.Các hình thức cho vay của NHTM Hoạt động chủ yếu của NHTM là tài trợ cho khách hàng trên cơ sở tín nhiệm. Hình thức truyền thống là cho vay ngắn hạn có đảm bảo bằng tài sản, giúp khách hàng mua hàng hoá, nguyên, nhiên,vật liệu, sau đó mở rộng thành nhiều hình thức khác nhau như cho vay thế chấp bằng bất động sản, bằng các chứng khoán, bằng giấy tờ lưu kho hoặc không cần thế chấp. NHTM cho vay dựa trên nguyên tắc cho vay -Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng: đây không những là nguyên tắc của NH khi cho vay vốn mà nó còn được coi như là
  9. phương châm của NH trong hoạt động kinh doanh. Khi NH cho vay vốn thì mục đích sử dụng đã được nêu trong đơn xin vay vốn và được NH thẩm định kỹ càng trước khi cho vay. Và qua đó NH cũng có thể biết được lượng vốn đầu tư trong từng lĩnh vực để đánh giá sự khả thi cho lượng vốn đầu tư; và nếu phát hiện khách hàng vi phạm nguyên tắc này, NH có quyền thu hồi nợ trước hạn, nếu không có tiền thì chuyển nợ qúa hạn. -Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng: đây là nguyên tắc mà bất kỳ một người cho vay nào cũng áp dụng với người đi vay của mình. Một người cho vay, khi chuyển tiền cho người đi vay sử dụng họ phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn. Để thực hiện tốt nguyên tắc này, trước nhất NH phải xác định kỳ hạn nợ phù hợp đối với từng khoản vay. Khi đến kỳ hạn nợ người đi vay phải lập giấy trả nợ cho NH, còn không NH sẽ tự động trích tài khoản tiền gửi của người đi vay để thu hồi nợ. Trường hợp tài khoản tiền gửi không đủ số dư thì số nợ đó sẽ được NH chuyển thành nợ quá hạn. Sau một thời gian nếu khách hàng vẫn không trả được nợ, NH sẽ tiến hành phát mại tài sản đảm bảo. Các hình thức cho vay của NHTM Có rất nhiều cách để phân loại cho vay. Dựa theo từng tiêu thức lại có các hình thức cho vay khác nhau. Theo mục đích ta có các hình thức cho vay sau - Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ. - Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ. - Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu... .
  10. - Cho vay cá nhân: là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền, và các khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng. Theo thời hạn cho vay ta có các hình thức cho vay sau - Cho vay ngắn hạn: cho vay có thời hạn dưới 1 năm sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. - Cho vay trung hạn: có thời hạn từ 1 đến 5 năm, sử dụng chủ yếu đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh... . - Cho vay dài hạn: thời hạn từ 5 năm trở lên, tối đa có thể lên đến 20-30 năm và đặc biệt có thể là 40 năm, được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà cửa, thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới. Theo mức độ tín nhiệm với khách hàng ta có các hình thức cho vay sau - Cho vay không bảo đảm: là hình thức cho vay mà không đòi hỏi phải có sự đảm bảo cho khoản vay bằng tài sản của người đi vay hay người bảo lãnh, chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Tuỳ vào uy tín mà mức độ cho vay là khác nhau. - Cho vay có bảo đảm: là hình thức cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của người thứ 3... 3. Các hình thức đảm bảo tiền vay của NHTM 3.1. Quan niệm về đảm bảo tiền vay
  11. Bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay. Cho vay có bảo đảm bằng tài sản là việc cho vay vốn của tổ chức tín dụng mà theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay của khách hàng vay hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Các NH và các định chế tài chính khác coi đảm bảo tiền vay là nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất (các lưu chuyển tiền tệ) không thể thanh toán được nợ. Trong thực tế, có rất nhiều lý do để khoản thu nợ thứ nhất không thể thực hiện được, nếu không có một nguồn bổ sung tất yếu NH sẽ gặp rủi ro tín dụng. Vì vậy, để bảo vệ lợi ích của mình, các NH thường yêu cầu người đi vay phải có bảo đảm cần thiết, ngoại trừ những khách hàng hoạt động tốt và có quan hệ tín dụng thường xuyên. Thực chất, đó là những biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng, là cơ sở pháp lý cũng như cơ sở kinh tế cho việc thu hồi các khoản tiền vay. Nhưng liệu cứ có bảo đảm cho khoản vay, cứ có tài sản đối ứng với món vay nghĩa là khoản vay đó là tốt? Trên thực tế cho thấy, một khoản vay nếu chỉ cần có bảo đảm tiền vay thì đó vẫn chưa phải là khoản vay an toàn. Vốn vay vẫn có thể bị chiếm dụng nếu tài sản sử dụng làm vật bảo đảm không có tính khả mại, hoặc về một lý do nào đó về mặt pháp lý, vốn vay vẫn bị chôn vào tài sản. Vì vậy, bảo đảm tiền vay phải được hiểu theo một nghĩa rộng hơn không chỉ là sự đảm bảo cho khoản vay, mà còn thể hiện uy tín, tiềm lực tài chính, tính khả thi của dự án.... Cũng chính vì thế mà nếu đảm bảo bằng tài sản thì tài sản đảm bảo phải có gía trị thị trường lớn hơn khoản vay, bởi vì đó không chỉ là khoản thu nợ thứ hai, mà còn là động cơ thúc dục người đi vay trả nợ hòng nhận lại tài sản, ngược lại họ sẽ dễ có động cơ không trả nợ. Hơn nữa, nghĩa vụ trả nợ phải bao gồm vốn gốc và lãi, ngoài ra còn các khoản phí nữa, tài sản sẽ đảm bảo được tối đa nghĩa vụ đó; Tài sản phải có sẵn thị trường tiêu thụ, vì mức độ thanh khoản thấp sẽ khiến NH không đảm bảo được khoản cho vay của mình khi phải thu hồi bằng tài sản; Có đầy đủ cơ sở pháp lý để người cho
  12. vay có quyền ưu tiên về xử lý tài sản, đặc trưng này đảm bảo cho NH được quyền ưu tiên xử lý tài sản nhằm thu nợ khi người đi vay không thanh toán đúng hạn. 3.2. Các hình thức đảm bảo tiền vay 3.2.1. Vai trò của cho vay có bảo đảm Cho vay là hoạt động mang tính chất sống còn đối với hầu hết các định chế tài chính. Đây không chỉ là nguồn sử dụng vốn lớn nhất, mà còn là nguồn thu nhập lớn nhất trong tất cả các tài sản có sinh lời. Hơn nữa, NH là người đi vay để rồi cho vay, vì vậy họ phải làm sao để khoản vay của mình sinh lời và đảm bảo trả cho người cho vay đồng thời thu lợi. Nhưng hoạt động cho vay của NH luôn đối mặt với những rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Trong nền kinh tế thị trường, khi cạnh tranh là yếu tố hiển nhiên thì rủi ro cũng vậy, rất nhiều rủi ro có thể xảy ra đối với hoạt động kinh doanh của khách hàng như gặp phải sự chậm chễ trong tiến độ hoạt động sản xuất kinh doanh hay thu hồi các khoản thu từ đối tác, hay khi Chính phủ có những sự thay đổi trong luật đối với các doanh nghiệp.... thì khả năng trả lãi vay và gốc vay cho NH sẽ khó khăn vì thu nhập của khách hàng không còn như dự tính. Và khi mà khách hàng gặp rủi ro thì NH cũng gặp rủi ro theo, NH cũng rơi vào tình trạng khó khăn và thậm chí còn khó khăn hơn doanh nghiệp, vì NH là người vừa đi vay, vừa cho vay, khoản vay không thu được trong khi vẫn phải trả lãi cho khoản huy động và thậm chí trả gốc nếu người gửi rút tiền ra. Ngoài ra, nếu tình hình thuận lợi đối với doanh nghiệp thì liệu NH có chắc thu được khoản vay của mình đủ và đúng hay không? Chưa chắc về điều này khi khách hàng có vấn đề về đạo đức. Vì khi cho vay, ban đầu NH cũng là người chủ động, NH được quyền quyết định cho vay hay không và được đưa ra điều kiện về khoản vay, nhưng khi vốn vào tay khách hàng thì dù có theo dõi sát đến mấy NH cũng không thể kiểm soát được khách hàng một cách toàn diện, và lúc đó quyền chủ động thuộc về khách hàng; Mà với tư cách người đi vay, NH là người bị động, người gửi tiền không những được hưởng lãi, hưởng dịch vụ từ NH mà họ có thể rút tiền ra bất kỳ khi nào theo loại tiền gửi của mình; Chính vì thế mà NH sẽ càng khó khăn. Và khi NH không thu được đúng và đủ, chất lượng tín dụng giảm xuống,.... đồng nghĩa với giảm lợi nhuận và giảm uy tín trên thị trường.
  13. Đây cũng chính là những lý do NH cho vay có bảo đảm đối với khách hàng. NH không thể không cho vay vì cho vay là cơ sở tồn tại của NH, nhưng cũng không thể mạo hiểm với khoản vay khi một đi không trở lại, và cũng không thể từ chối các khoản vay từ khách hàng trừ khi nó mang lại quá nhiều rủi ro mà không thể kham nổi. Việc thực hiện bảo đảm tiền vay sẽ giải quyêt phần lớn những rắc rối đó cho NH, mà còn có tác dụng tốt đối với cả khách hàng và nền kinh tế. Đối với NH bảo đảm tiền vay sẽ là khoản thu thứ hai nếu khách hàng không trả nợ, NH có đủ điều kiện pháp lý để xử lý thu hồi khoản vay từ khoản đảm bảo, là người được ưu tiên khi xử lý tài sản đảm bảo so với các chủ nợ khác. NH vì mục tiêu lợi nhuận và sự tồn tại, phát triển trong cạnh tranh của mình bên cạnh khách hàng có uy tín, tiềm lực tài chính, đủ điều kiện vay không bảo đảm thì lại không thể từ chối khách hàng không đủ điều kiện, việc đảm bảo sẽ cho phép NH cho vay mà đảm bảo được khoản vay của mình sẽ có khoản thu hồi khi khách hàng không trả nợ, đây là việc nắm giữ đằng chuôi, tạo thế chủ động cho NH. Hơn nữa, trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng, nếu có xảy ra sai sót thì tài sản đảm bảo cũng sẽ là hàng rào bảo vệ NH khi xảy ra điều đó. Hoàn trả tín dụng là điều kiện quan trọng nhất thực hiện mục tiêu kinh doanh của NH. Để thu hồi được nợ NH phải xem xét một cách thận trọng đến uy tín và năng lực của khách hàng, từ đó áp dụng các phương pháp cho vay thích hợp. Tuỳ từng khách hàng, uy tín, khả năng tài chính, mức độ của dự án... khi NH thẩm định khách hàng mà họ sẽ được cho vay với mức khác nhau để đảm bảo cho NH. Đối vơí khách hàng nhu cầu về vốn là nhu cầu luôn tồn tại và xuất hiện đối với bất kỳ doanh nghiệp nào. Còn người tiêu dùng khi cần một khoản tiền lớn cho dự định thì NH là nơi mà họ nghĩ đến và tin tưởng muốn cùng chia sẻ. NH sẽ đáp ứng cho bất kỳ khách hàng nào, bất kỳ khoản vốn trong bất kỳ thời gian nào, ngay lập tức, kịp thời. Việc bảo đảm tiền vay sẽ giúp khách hàng có trách nhiệm hơn trong việc sử dụng khoản vay của mình để có thể hoàn trả cho NH. Vì thế mà khoản vay sẽ được đảm bảo đúng mục đích, sử dụng có hiệu quả, khách hàng sẽ có trách nhiệm trong việc cân đối thu chi trong cuộc sống và hoạt động sản xuất kinh doanh của mình để có kế hoạch trả nợ cho NH. Mặt khác khi cho vay NH sẽ thẩm
  14. định khách hàng, điều này giúp khách hàng có được kế hoạch sử dụng vốn có hiệu quả hơn và phát hiện ra những bất cập trong kinh doanh. Đối với nền kinh tế vốn sẽ đảm bảo chuyển đúng địa chỉ, sử dụng đúng mục đích, thúc đẩy kinh tế phát triển. 3.2.2.Các hình thức cho vay có bảo đảm (1) Bảo đảm tiền vay bằng tài sản Cầm cố tài sản là việc bên đi vay giao tài sản là động sản thuộc sở hữu của mình cho bên cho vay để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ; nếu tài sản cầm cố có đăng ký quyền sở hữu thì các bên có thể thoả thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản cầm cố hoặc bên thứ ba giữ. Khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ trả nợ, nếu khách hàng không thực hiện thì tài sản cầm cố được xử lý theo thoả thuận hoặc bán đấu giá để trả nợ. Bên nhận cầm cố được ưu tiên thanh toán từ tiền bán tài sản cầm cố sau khi trừ chi phí bảo quản và bán đấu giá. Hình thức này khá an toàn so với cách khác. Hơn nữa, tài sản cầm cố cũng dễ dàng thẩm định hơn hình thức khác. Thế chấp tài sản là việc bên đi vay dùng tài sản là bất động sản thuộc sở hữu của mình hoặc giá trị quyền sử dụng đất hợp pháp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên cho vay. Đối với cho vay bảo đảm theo hình thức này thì khi thẩm định cán bộ tín dụng phải đặc biệt nhạy cảm với những đặc điểm như: thời gian sử dụng, tình trạng hiện tại ở tài sản của khách hàng, giá trị thị trường và nguy cơ mất giá theo thời gian.... Nếu tài sản quá lạc hậu hay không có thị trường khả thi trong tương lai thì việc tìm người mua là khó khăn nếu khoản vay không được hoàn trả. Tài sản cũng được xử lý khi khách hàng không trả nợ và việc xử lý khó khăn hơn nhiều so với tài sản cầm cố. Bảo lãnh là việc bên thứ ba cam kết với bên cho vay (người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên đi vay (người được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ. Người bảo lãnh có thể là cá nhân hay pháp nhân, một hay nhiều người. Bảo lãnh của bên thứ ba có thể bảo đảm bằng tài sản của người bảo lãnh hay bằng uy tín của người bảo lãnh. Người bảo lãnh là người chịu trách nhiệm trước NH khi khoản vay
  15. có vấn đề về việc hoàn trả theo thoả thuận. Vì vậy, khi cho vay bằng hình thức này thì NH phải thẩm định cả người bảo lãnh trước khi cho vay bên cạnh việc thẩm định người vay vốn và mối quan hệ giữa người bảo lãnh và người được bảo lãnh. Bảo đảm bằng tài sản của người bảo lãnh là việc bên thứ ba (gọi là bên bảo lãnh) cam kết dùng với tổ chức tín dụng cho vay về việc dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho khách hàng vay, nếu đến hạn trả nợ mà khách hàng vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ. Việc bảo đảm bằng tài sản này có thể thực hiện bằng cầm cố hoặc thế chấp và khi xử lý cũng tương tự như vậy. Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay là việc khách hàng vay dùng tài sản hình thành từ vốn vay (là tài sản mà giá trị tài sản được taọ nên bởi một phần hay toàn bộ khoản vay của tổ chức tín dụng) để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chính khoản vay đó đối với tổ chức tín dụng. Do vậy, trong thời gian từ lúc ký hợp đồng cho đến khi hình thành tài sản tài trợ bằng vốn vay, hình thức bảo đảm đối với khoản tiền vay là uy tín của khách hàng. Chỉ khi, tài sản được hình thành, những tài sản này mới bắt đầu trở thành các hình thức bảo đảm tiền vay bằng tài sản. (2) Bảo đảm tiền vay trong trường hợp không có bảo đảm bằng tài sản Trong trường hợp này, NH được cho vay không có bảo đảm theo chỉ định của Chính phủ; tổ chức tín dụng nhà nước được cho vay không có bảo đảm theo chỉ định của Chính phủ; NH cho cá nhận, hộ gia đình nghèo vay có bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị xã hội; còn đối tượng khác NH được chủ động lựa chọn khách hàng vay để cho vay không có bảo đảm bằng tài sản . Hình thức cho vay này chủ yếu dựa trên uy tín, khả năng tài chính, mối quan hệ NH và khách hàng để mà NH lựa chon cho vay. Các NH thường e dè với hình thức này. 4. Nội dung nghiệp vụ bảo đảm tiền vay 4.1. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản 4.1.1. Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay
  16. * Cầm cố là vịêc bên đi vay giao tài sản là động sản thuộc sở hữu của mình cho bên cho vay để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ; nếu tài sản cầm cố có đăng ký quyền sở hữu thì các bên có thể thoả thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản hoặc giao cho bên thứ ba giữ. Theo hình thức này người nhận tài trợ của NH phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho NH trong thời gian cam kết (thường là thời gian nhận tài trợ). Cầm cố thích hợp với những tài sản NH có thể kiểm soát và bảo quản tương đối chắc chắn, đồng thời việc NH nắm giữ không ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của người nhận tài trợ. Các tài sản này gọn nhẹ, dễ quản lý, không chịu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường tự nhiên. NH yêu cầu cầm cố khi xét thấy việc khách hàng nắm giữ tài sản bảo đảm là không an toàn cho NH. Thường đó là các tài sản mà khách hàng dễ bán, dễ chuyển nhượng. Tài sản cầm cố bao gồm -Tài sản thực (vật có thực) như máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu, hàng tiêu dùng, kim khí, đá quý. -Tiền (tiền mặt, tiền gửi và ngoại tệ) và giấy tờ có trị giá được bằng tiền (trái phiếu, cổ phiếu - riêng đối với cổ phiếu của chính tổ chức tín dụng phát hành thì tổ chức tín dụng đó không được nhận làm tài sản cầm cố, tín phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, sổ tiết kiệm, thương phiếu, các giấy tờ khác trị giá được bằng tiền). -Các quyền tài sản phát sinh như (quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm, quyền đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên theo quy định của pháp luật, các quyền tài sản khác phát sinh từ hợp đồng hoặc từ các căn cứ pháp lý khác). -Tàu biển theo quy định của Bộ luật Hàng Hải Việt Nam, tàu bay theo quy định của luật Hàng không dân dụng Việt Nam trong trường hợp được cầm cố. -Các tài sản khác theo quy định của pháp luật.
  17. Lợi tức và các quyền phát sinh từ tài sản cầm cố cũng thuộc tài sản cầm cố, nếu các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định; trường hợp tài sản cầm cố được bảo hiểm thì tiền bảo hiểm cũng thuộc tài sản cầm cố. Khi tài trợ dựa trên bảo đảm bằng cầm cố, NH kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ, an toàn của vật câm cố như quyền sở hữu của khách hàng, khả năng chi trả của người cam kết đối với vật cầm cố * Thế chấp là việc bên đi vay dùng tài sản là bất động sản thuộc sở hữu của mình hoặc giá trị quyền sử dụng đất hợp pháp để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ đối với bên cho vay. Theo quy định của luật dân sự và luật đất đai có hai loại thế chấp bất động sản và giá trị quyền sử dụng đất. Với hình thức này theo đó người nhận tài trợ phải chuyển các giấy tờ chứng nhận sở hữu (hoặc sử dụng) các tài sản đảm bảo sang cho NH nắm giữ trong thơì gian cam kết. Trong thực tế, trừ các NH, các công ty tài chính có thể nắm giữ nhiều chứng khoán, còn doanh nghiệp tài sản chủ yếu là hàng hoá và tài sản cố định. Trong đó, nhiều tài sản khi trở thành đảm bảo cho các khoản tài trợ của NH vẫn phải tham gia vào quá trình hoạt động, những tài sản này khách hàng không thể cầm cố. Hơn nữa, các tài sản loại này thường cồng kềnh, phân tán nên việc bán hoặc chuyển nhượng cũng không đơn giản. Và giá trị của tài sản loại này thường lớn nên doanh nghiệp có thể vay NH với quy mô lớn. Vì vậy đảm bảo bằng thế chấp rất phổ biến, đặc biệt đối với doanh nghiệp và người tiêu dùng, hình thức này cho phép người nhận tài trợ được sử dụng tài sản đảm bảo phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Đó là một thuận lợi, song trong quá trình sử dụng sẽ làm biến dạng tài sản, khả năng kiểm soát tài sản bị hạn chế gây thiệt hại cho NH. Các loại tài sản thế chấp -Bất động sản là tài sản không di dời được như nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất, kể cả các tài sản gắn liền với nhà ở, công trình xây dựng và các tài sản khác gắn liền với đất. -Quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
  18. -Trường hợp thế chấp toàn bộ tài sản có vật phụ, thì vật phụ đó cũng thuộc tài sản thế chấp. Trong trường hợp thế chấp một phần bất động sản có vật phụ, thì vật phụ chỉ thuộc tài sản thế chấp, nếu các bên có thoả thuận. -Tàu biển theo quy định của bộ luật Hàng Hải Việt Nam, máy bay theo quy định của luật Hàng không dân dụng Việt Nam trong trường hợp được thế chấp. -Các tài sản khác theo quy định của pháp luật. -Hoa lợi, lợi tức và các quyền phát sinh từ tài sản thế chấp cũng thuộc tài sản thế chấp, nếu các bên thoả thuận hoặc pháp luật có quy định; trường hợp tài sản thế chấp được bảo hiểm thì khoản tiền bảo hiểm cũng thuộc tài sản thế chấp. * Nội dung cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay Quy trình cho vay có bảo đảm bằng cầm cố, thế chấp Giám Xử lý định về Định gía tài sản pháp lý tài sản CCTC để tài sản thu nợ cầm cố, Quyết định tỷ lệ cho Đến vay so với hạn tài sản Tái Xử lý định tài sản Giả giá sau tái i tài định Định giá tài sản cầm cố, thế chấp Tài sản CCTC phải được xác định giá trị tại thời điểm ký kết hợp đồng bảo đảm; giá trị tài sản xác định được tại thời điểm này chỉ để làm cơ sở xác định mức cho vay của tổ chức tín dụng, không áp dụng khi xử lý tài sản để thu hồi nợ. Việc xác định giá trị tài sản bảo đảm tiền vay phải được lập thành văn bản riêng kèm theo hợp đồng bảo đảm. Đối với tài sản bảo đảm tiền vay phải là quyền sử dụng đất, thì việc xác định giá trị tài sản bảo đảm tiền vay do các bên thoả thuận, hoặc thuê tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn xác định trên cơ sở giá thị trường tại thời điểm xác định, có tham
  19. khảo đến các loại giá như giá quy định của nhà nước, giá mua, giá trị còn lại trên sổ sách kế toán và các yếu tố khác về giá. Về nguyên tắc việc định giá tài sản cầm cố, thế chấp phải theo giá thị trường. Nếu định gía tài sản thế chấp cao hơn giá thị trường có thể sẽ dẫn đến khi phát mại tài sản thế chấp (hoặc chuyển quyền sở hữu cho NH) trong trường hợp khách hàng không trả được nợ là không đủ bù đắp cho khoản nợ gốc, lãi và các chi phí khác. Nếu định giá thấp hơn giá trị thị trường sẽ ảnh hưởng đến việc đáp ứng nhu cầu vốn cho khách hàng và làm suy yếu tính cạnh tranh trong việc thu hút khách hàng. Mức cho vay tối đa so với giá trị tài sản CCTC Tài sản CCTC là nguồn thu nợ thứ hai vì vậy thông thường giá trị tài sản CCTC khi thanh lý dưới hình thức chuyển nhượng để thu nợ phải lớn hơn số tiền cho vay cộng lãi và các chi phí khác có liên quan (nếu hai bên có thoả thuận). Mức cho vay so với giá trị tài sản bảo đảm tiền vay do tổ chức tín dụng quyết định mức cho vay trong giới hạn tài sản bảo đảm tiền vay và phạm vi bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đã được xác định. Hợp đồng CCTC tài sản Hợp đồng CCTC phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng tín dụng. Hợp đồng CCTC có thể là hợp đồng kinh tế và cũng có thể là hợp đồng dân sự; điều này phụ thuộc vào bản chất pháp lý của hợp đồng tín dụng. Hợp đồng có thể có chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền trong trường hợp các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định phải thực hiện. Việc thế chấp quyền sử dụng đất được thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai. Việc kiểm tra tính hợp pháp và điều kiện của tài sản đảm bảo tiền vay do tổ chức tín dụng thực hiện. Hợp đồng CCTC tài sản của khách hàng bao gồm các yếu tố cơ bản về khách hàng như tên, địa chỉ, ngày sinh; các yếu tố về khoản vay, nghĩa vụ bảo đảm và tài sản đảm bảo như mô tả tài sản, giá trị tài sản, bên giữ tài sản, quyền và nghĩa vụ các bên, thoả thuận xử lý tài sản khi hợp đồng thực hiện đúng và không đúng, các thoả thuận khác.
  20. Sau khi hợp đồng đã ký kết, các bên tham gia hợp đồng hoặc người được uỷ quyền có thể đăng ký với các cơ quan đăng ký giao dịch đảm bảo. 4.1.2. Bảo đảm bằng tài sản của bên thứ 3 * Cho vay có bảo đảm bằng tài sản của bên thứ 3 là việc bên thứ ba cam kết với bên cho vay sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên đi vay, nếu khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ. Bảo lãnh có bảo đảm bằng tài sản, hay cho vay có bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba là bên thứ ba phải có tài sản để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Đối với hình thức bảo đảm này thì NH có thể coi người bảo lãnh như là con nợ của mình, con nợ của chính khoản vay. Việc bảo lãnh bằng tài sản có thể kèm theo biện pháp CCTC như bảo đảm bằng CCTC tài sản của chính khách hàng vay vốn để thực hiện nghĩa vụ, và điều này do tổ chức tín dụng và bên bảo lãnh thoả thuận. Đây là hình thức bảo đảm kép, nhằm đề phòng khi người bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ thì NH có thể xử lý tài sản kèm theo bảo lãnh. Khi cho vay có bảo đảm bằng CCTC đã có rất nhiều rủi ro cho NH, nhưng bảo đảm bằng tài sản của người thứ ba còn đem lại nhiều rủi ro hơn. Theo như quy định của Luật dân sự, trong CCTC, nếu bên CCTC chấm dứt (cá nhân chết hoặc cá nhân chấm dứt hoạt động) thì việc CCTC vẫn có hiệu lực đối với bên chủ nợ. Trái lại, trong bảo lãnh nếu bên bảo lãnh chấm dứt thì chấm dứt việc bảo lãnh. Vì vậy khi chấp nhận một bảo lãnh NH phải tiến hành thẩm định bên bảo lãnh một cách chặt chẽ. *Nội dụng bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba Điều kiện đối với người bảo lãnh: Có năng lực pháp luật dân sự đối với bên bảo lãnh là pháp nhân, có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự đối với bên bảo lãnh là cá nhân; Có khả năng về vốn, tài sản để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Xác định giá trị tài sản mà bên thứ ba CCTC: Việc định giá tài sản đảm bảo theo hình thức này cũng tương tự như CCTC bằng tài sản của chính khách hàng vay vốn, vấn đề chủ đạo trong hình thức này chủ yếu là về người bảo đảm.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2