intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Nâng cao vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước - cụ thể là các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế quốc dân

Chia sẻ: Nuyen Phong | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:44

142
lượt xem
30
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng ta đã xác định phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm đó đã được thể hiện rất rõ qua nhiều kỳ đại hội của Đảng cộng sản Việt Nam. Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX tiếp tục "khẳng định" thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Nâng cao vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước - cụ thể là các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế quốc dân

  1. LUẬN VĂN: Nâng cao vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước - cụ thể là các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế quốc dân
  2. Lời mở đầu Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng ta đã xác định phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm đó đã được thể hiện rất rõ qua nhiều kỳ đại hội của Đảng cộng sản Việt Nam. Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX tiếp tục "khẳng định" thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một nền kinh tế vận hành theo định hướng kinh tế nhà nước thực hiện tốt vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế hợp tác xã trở thành nền tảng định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước và thành phần kinh tế nhà nước là hai phạm trù khác nhau. Khi nói tới kinh tế nhà nước là nối đến những của cải tài sản thuộc sở hữu nhà nước, còn khi nói tới thành phần kinh tế nhà nước là muốn nói đến quan hệ sản xuất tiêu biểu cho chế độ đương thời. Trong điều kiện hiện nay thì đó là hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Thành phần kinh tế nhà nước, thực chất là hệ thống các doanh nghiệp nhà nước với quy mô, cấu trúc sức mạnh riêng. Trong hơn mười năm qua, Đảng và nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp tích cực nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước. Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động phức tạp và nền kinh tế, còn nhiều khó khăn gay gắt, doanh nghiệp Nhà nước đã vượt qua nhiều thử thách, đứng vững, không ngừng phát triển, góp phần quan trọng vào thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo định hướng XHCN. Nhưng bên cạnh đó, DNNN cũng còn những mặt hạn chế yếu kém, có mặt rất nghiêm trọng như: quy mô còn nhỏ, cơ cấu còn nhiều bất hợp lý chưa tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt, nhìn chung trình độ công nghệ còn lạc hậu, quản lý còn yếu kém, kết quả sản xuất kinh doanh chưa tương xứng với các nguồn lực: tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động cũng như chưa tương xứng với sự hỗ trợ của nhà nước.
  3. Những hạn chế yếu kém của doanh nghiệp Nhà nước có những nguyên nhân khách quan. Nhưng chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan; chưa có sự thống nhất trong nhận thức về vai trò vị trí của kinh tế nhà nước và DNNN, về cơ chế chính sách còn chưa đồng bộ, còn nhiều điểm chưa phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Công tác cải cách hành chính chậm, công tác quản lý, công tác đào tạo cán bộ và đội ngũ người lao động trong các DNNN vẫn còn nhiều bất cập, lãng phí... Từ thực tại trên đòi hỏi không ngừng đổi mới, nâng cao vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước - cụ thể là các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế quốc dân, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
  4. Phần nội dung I. Cơ sở lý luận của vấn đề nâng cao vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. I.1. Các thành phần kinh tế - Tính tất yếu khách quan tồn tại nhiều thành phần kinh tế Trong tác phẩm " Bàn về thuế lương thực", Lê Nin đã viết " Danh từ quá độ có nghĩa là gì ? vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảng của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội không ? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có". Luận điểm trên của Lê Nin cho thấy rằng: trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tất yếu phải tồn tại nhiều thành phần kinh tế. *Cơ sở lý luận Sự tồn tại của các thành phần kinh tế hay của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở nước ta, trước hết bắt nguồn từ quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sản xuất muốn phát triển thì nhất định phải có sự phù hợp đó. Nếu như tồn tại lực lượng sản xuất khác nhau về tư liệu sản xuất và do đó tồn tại nhiều quan hệ sản xuất khác nhau về tư liệu sản xuất và do đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Trong đó luôn có những quan hệ sở hữu, thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế thống nhất. ở nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, điểm xuất phát về lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội.... còn thấp và không đều giữa các xí nghiệp, giữa các ngành, vùng, trình độ lao động, năng suất cũng khác nhau. Do đó tất yếu tồn tại nhiều cách thức kết hợp lực lượng sản xuất với sức lao động, nhưng quy mô, trình độ sản xuất khác nhau, nhiều quan hệ sản xuất khác nhau, nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Sự tồn tại của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần còn được bắt nguồn từ yêu cầu của các quy luật kinh tế của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Để thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, trước hết phải khôi phục cơ sở tồn tại của nó. Đó là các hình thức sở
  5. hữu khác nhau về TLSX. Điều đó có nghĩa là phải khuyến khích, duy trì, phát triển các thành phần kinh tế *Cơ sở thực tiễn Khi tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế nước ta có thêm những thành phần kinh tế mới như kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Các thành phần kinh tế cũ và mới tồn tại đan xen nhau, tạo nên đặc điểm của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Thực tiễn lịch sử cho thấy, hầu như không một nước nào có một nền kinh tế thuần nhất, tức chỉ tồn tại duy nhất một kiểu quan hệ sản xuất về tư liệu sản xuất và do đó có một thành phần kinh tế. ở nước ta trong thời gian qua việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế đã đem lại những kết quả đáng kể nó góp phần khai thác được mọi tiềm năng của từng thành phần kinh tế. Đó là những tiềm năng về vốn, kỹ thuật, sức lao động, kinh nghiệm tổ chức, quản lý.... Ngoài ra nó còn góp phần tận dụng được sức mạnh kinh tế quốc tế, khắc phục tình trạng biệt lập của nền kinh tế nước ta với nền kinh tế thế giới bằng cách thông qua đầu tư nước ta với nền kinh tế thế giới bằng cách thông qua đầu tư và hợp tác quốc tế. Đó là một trong những yếu tố quan trọng để nước ta có thể tiếp cận được kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của thế giới. Tóm lại, trong thời kỳ quá độ, nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều thành phần là tất yếu khách quan xét cả mặt lý luận và thực tiễn chính vì vậy. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã chỉ ra phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở củng cố và giữ vững vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước với sự điều tiết và quản lý của Nhà nước là đường lối chiến lược lâu dài ở nước ta. Đại hội Đảng lần IX tháng 4 - 2001, đã khẳng định thêm nữa tư tưởng trên. Hiện nay nền kinh tế nước ta gồm 6 thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế ta bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế có mối liên hệ chặt chẽ qua lại lẫn nhau, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
  6. I.2. Khái niệm về thành phần kinh tế Nhà nước I.2.1. Kinh tế Nhà nước - Thành phần kinh tế Nhà nước Kinh tế Nhà nước là thuật ngữ bao hàm nội dung khá rộng, được xác định theo ý nghĩa khác nhau tuỳ góc độ nghiên cứu theo cách hiểu chung nhất thì kinh tế Nhà nước là phần tài sản do nhà nước làm chủ sở hữu. Hay nói cách khác, kinh tế Nhà nước là bộ phận của nền kinh tế quốc dân thuộc sở hữu Nhà nước. Với cách hiểu đó, ở nhiều nước cũng như ở Việt Nam ta bao gồm: Tài nguyên khoáng sản và phần đất đai thuộc sở hữu nhà nước; Ngân hàng nhà nước, kho bạc nhà nước, ngân sách nhà nước, Tài chính nhà nước, hệ thống dự trữ quốc gia bảo hiểm quốc gia. Các dịch vụ công cộng do Nhà nước đảm nhiệm. Các doanh nghiệp Nhà nước. Ngày nay cũng có quan điểm cho rằng kinh tế nhà nước còn bao gồm cả nguồn nhân lực, hệ thống các chính sách, công cụ, quản lý nhà nước. Kinh tế nhà nước hình thành và phát triển từ khi Nhà nước xuất hiện. Trong quá trình phát triển lịch sử, khu vực kinh tế này ngày càng được củng cố và phát triển nhằm thực hiện chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên quy mô chức năng vai trò của kinh tế nhà nước có sự khác nhau ở từng quốc gia và từng thời điểm nhất định. Kinh tế nhà nước và thành phần kinh tế nhà nước là hai phạm trù khác nhau. Khi nói tới kinh tế nhà nước là nói tới những của cải, tài sản thuộc sở hữu Nhà nước; còn nói tới thành phần kinh tế nhà nước là muốn nói tới quan hệ sản xuất tiêu biểu cho chế độ Lê Nin đã viết: " Vô luận thế nào chúng ta cũng không được quên cái mà chúng ta thường nhìn thấy: quan hệ xã hội chủ nghĩa của công nhân trong các công xưởng quốc doanh, nơi mà công nhân cố gắng phân phối đúng đắn các sản phẩm công nghiệp cho nông dân,chuyển vận các thứ ấy đến tận nơi bằng các phương tiện giao thông. Đó chính là chủ nghĩa xã hội"1 từ đó, thành phần kinh tế nhà nước chỉ bao hàm các nguồn lực do Nhà nước sở hữu, đưa vào và biến thành tài sản được dùng trong quá trình sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân. Cũng giống như các thành phần kinh tế khác chúng chỉ phản ánh quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất ở các 1 I.V Lênin toàn tập. NXB Tiến Bộ Matxcơva - 1978 trang 188 - Tập 43
  7. chủ thể sản xuất chứ không phải toàn bộ nguồn lực của chúng. Như vậy, thành phần kinh tế nhà nước về thực chất là không phải toàn bộ nguồn nhân lực của chúng. Như vậy, thành phần kinh tế nhà nước về thực chất là phản ánh quy mô, cấu trúc sức mạnh của hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế nhà nước rộng và mạnh hơn bộ phận doanh nghiệp nhà nước. Phân biệt được hai phạm trù này và nhận thức đầy đủ hơn về vai trò kinh tế nhà nước là một bước phát triển về nhận thức thực tiễn nền kinh tế nước ta trong quá trình đổi mới. I.2.2. Quan niệm mới về doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Như ta đã biết, thành phần kinh tế nhà nước thực chất là phản ánh quy mô, cấu trúc, sức mạnh của hệ thống doanh nghiệp Nhà nước đã đạt được những kết quả khả quan. Tuy nhiên cho đến nay, trong sự phát triển phong phú và đa dạng của kinh tế thị trường, xung quanh khái niệm DNNN, xác định phạm vi DNNN vẫn còn những ý kiến khác nhau. Hiểu được quan niệm mới về DNNN sẽ góp phần vào nhận thức thực tiễn, đưa ra những giải pháp để ngày càng nâng cao vai trò chủ đạo của hệ thống DNNN. Tại điều 1, luận Doanh nghiệp Nhà nước (ký ngày - 20 - 4 - 1995) quy định: "DNNN là một tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh hoặc hoật động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao. DNNN có tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm và toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý ". Tuy nhiên có đến nay khái niệm DNNN do luật doanh nghiệp Nhà nước hiện hành quy định đã tỏ ra không phù hợp với nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường và từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Sự không phù hợp đó thể hiện ở những điểm sau. Một trong những khuyết tật của DNNN là không xác định chủ sở hữu đích thực. Dù luật DNNN đã xác định chủ sở hữu DNNN là thủ trưởng các tổ, cá nhân được Chính phủ uỷ quyền, nhưng trên thực tế không có một cơ chế nào cho phép xác định chủ sở hữu đích thực của các DNNN. Thực tế đó dẫn đến tình trạng DNNN. Hiện nay dưới thủ tướng Chính phủ có nhiều chủ, ai cũng có quyền điều hành, nhưng chẳng ai
  8. có quyền lực để giải quyết những khó khăn, vướng mắc, trắc chở của doanh nghiệp. Hậu quả là doanh nghiệp kém năng động, khả năng cạnh tranh yếu. Luật DNNN quy định DNNN làm tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý. Điều này mặc nhiên dẫn tới được hiểu rằng DNNN là tổ chức đơn (sở hữu Nhà nước). Nó cũng đồng nghĩa với việc Nhà nước phải đầu tư 100% để thành lập DNNN. Đây thực sự là ngánh nặng cho ngân sách Nhà nước. * Quan điểm mới về DNNN trong kinh tế thị trường Tiêu trí để xác định DNNN không chỉ dựa vào mức độ khống chế chi phối chủ Nhà nước đối với doanh nghiệp. Vì vậy DNNN không chỉ bao gồm loại doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước mà còn bao gồm các doanh nghiệp do Nhà nước chi phối, quản lý và kiểm soát. Quan niệm như thế là vừa phù hợp với thông lệ quốc tế vừa đáp ứng được xu thế đẩy mạnh cổ phần hoá, đa dạng hoá sở hữu hiện nay. Mặt khác, lâu dài DNNN có 100% vốn Nhà nước sẽ thu hẹp dần. Những DNNN sẽ tham gia liên kết với các thành phần kinh tế khác sẽ tăng lên và trở thành phổ biến. Đây là xu hướng khách quan, quy luật phát triển của kinh tế thị trường. Vì vậy khái niệm DNNN phải được hiểu như sau: DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư 100% vốn hoặc giữ cổ phần chi phối hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình trong số tài sản của doanh nghiệp. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của nền kinh tế nước ta và xu hướng phát triển của kinh tế thế giới, về lâu dài, khái niệm này cũng cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện. I.3. Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước và tính tất yếu khách quan nâng cao vai trò chủ đạo đó trong nền kinh tế thị trường. I.3.1. Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước Qua hơn 40 năm hình thành và phát triển, thành phần kinh tế Nhà nước (DNNN) đã chi phối được các ngành lĩnh vực then chốt là sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế, góp phần chủ yếu để kinh tế Nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định
  9. và phát triển kinh tế -xã hội tăng thế và lực của đất nước. Kinh tế Nhà nước mà chủ yếu là các DNNN giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân thể hiện chủ yếu trên các mặt: đi đầu và nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả, nhờ đó mà thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế quốc dân. Bằng nhiều hình thức hỗ trợ các thành phần kinh tế khác nhau cùng phát triển theo định hướng XHCN tăng cường sức mạnh vật chất tinh thần làm chỗ dựa để Nhà nước thực hiện có hiệu lực chức năng điều tiết, quản lỹ vĩ mô nền kinh tế theo định hướng XHCN, cùng với kinh tế tập thể (mà lòng cốt là các hợp tác xã) dẫn trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân và chế độ xã hội mới. Tuy nhiên hiện nay, DNNN vẫn chưa phát huy đầy đủ tính ưu việt và sự chỉ đạo của nó đối với nền kinh tế quốc dân. Cùng với việc đổi mới các nền kinh tế ngoài quốc doanh, việc cải tạo đổi mới DNNN phải hết sức coi trọng đầu tư và thường xuyên tổng kết để rút ra những bài học kinh nghiệm, bổ sung những chi thức "cập nhất" nhằm thực hiện cho kỳ được vai trò chủ đạo và mục tiêu định hướng XHCN của thành phần kinh tế này. I.3.2. Tính tất yếu khách quan nâng cao vai trò chủ đạo thành phần kinh tế Nhà nước (DNNN) trong nền kinh tế thị trường Đại hội Đảng lần IX tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có định hướng xã hội. Mô hình kinh tế thị trường khá ưu việt về nhiều mặt đặc biệt trong việc giải phóng sức sản xuất xã hội, phát huy tiền năng sức sáng tạo của các cá nhân, không ngừng nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật tăng năng suất lao động, sản xuất hàng hoá với khối lượng lớn, chất lượng ngày càng tốt, giá thành ngày càng hạ. Tuy nhiên bên cạnh những mặt mạnh những ưu thế vốn có, nền kinh tế thị trường bộc lộ những khuyết tật cố hữu như tính tự phát, mù quáng vì lợi nhuận, phân hoá giàu nghèo, tàn phá các nguồn tài nguyên thiên nhiên, huỷ hoại môi trường. Làm phát sinh các tệ nạn xã hội... Chính sự phát triển của nền kinh tế thị trường là do các tổ chức cá nhân hành động về lợi ích riêng của mình dẫn đến việc đi không đúng hướng của kế hoạch Nhà nước, mục tiêu phát triển kinh tế vĩ mô của nền kinh tế.
  10. Trước tình hình đó, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có thể vì lợi nhuận, mục đích riêng của thành phần kinh tế mình mà phát triển lệch lạc ảnh hưởng tới kinh tế - xã hội của đất nước ta, tới con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đã lựa chọn. Do đó vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước và vấn đề này càng nâng cao vai trò chủ đạo của nó đang là một vấn để cấp bách tất yếu trong thời kỳ hiện nay. Mặt khác để thành phần kinh tế Nhà nước (DNNN) đã phát huy vai trò chủ đạo trong hơn 15 năm đổi mới Nhà nước đã thực hiện đổi mới sắp xếp lại các doanh nghiệp để tăng cường sức mạnh nội lực của nó. Đó cũng tất yếu khách quan. Hiện nay, DNNN nước ta đang đứng trước thực trạng yếu kém về nhiều mặt: số doanh nghiệp Nhà nước thực sự có hiện quả chỉ có 40%, số DNNN bị lỗ liên tục chiếm khoảng 20% còn 40% DNNN không có hiệu quả khi lỗ khi lãi; số nợ DNNN phải trả quá lớn thường xuyên vượt mức vốn hiện có của doanh nghiệp (116% - 1997; 113% - 1998; 130% - 1999)2; hệ thống DNNN vốn qua manh mún chồng chéo quy mô nhỏ: số doanh nghiệp vốn dưới 5 tỷ chiếm 65,45%, trình độ công nghệ lao động thấp. Từ thực trạng trên đây để tiếp tục tồn tại và phát triển có hiệu quả, nâng cao vai trò chủ đạo, DNNN không có con đường nào khác là phải đổi mới một cách triệt để và toàn diện. Tuy nhiên, đổi mới DNNN không đơn thuần tích nhật doanh nghiệp hoặc tăng giảm số lượng các doanh nghiệp mà là đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế quản lý doanh nghiệp Nhà nước kết hợp với điều chỉnh cơ cấu hợp với trong quan hệ ngành, vùng, lãnh thổ và các thành phần kinh tế. Vì vậy đối với DNNN phải nhằm tăng cường hệ thống doanh nghiệp Nhà nước làm cho DNNN thực sự lớn mạnh về quy mô, hiệu quả và phát huy được vai trò nòng cốt góp phần dẫn dắt các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo định hướng XHCN là trách nhiệm lịch sử của DNNN ở nước ta. 2 Tạp chí Tài chính tháng 7 /2001
  11. II- Thực trạng thành phần kinh tế nhà nước và quá trình nâng cao vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước ở nước ta hiện nay II.1. Thực trạng phát triển doanh nghiệp nhà nước (thành phần kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Trong hơn 10 năm qua, Đảng và nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp tích cực nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi phức tạp và nền kinh tế còn nhiều khó khăn gay gắt, DNNN đã vượt nhiều thử thách, đứng vững và không ngừng phát triển, góp phần quan trọng vào thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo đinh hướng XHCN. Mặc dầu đạt được những kết quả nhất định nhưng hiện nay DNNN đang đứng trức thực trạng yếu kém về nhiều mặt, sức cạnh tranh còn quá yếu kém, quy mô quá nhỏ, thiếu vốn nghiêm trọng, lãi suất kinh doanh bình quân thấp hơn lãi vay ngân hàng, hiệu quả sút kém. * Hiệu quả hoạt động kinh doanh Những năm 1991 - 1995, tốc độ tăng trưởng bình quân của DNNN là 11,7% gấp 1,5 lần tốc độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế. Năm 1997 tốc độ tăng trưởng của DNNN là 9,67% (nền kinh tế: 8,15%). Tuy nhiên đến năm 1998 tì ngược lại thấp hơn. tốc độ tăng trưởng của DNNN là 5,48% trong đó tốc độ tăng trưởng nền kinh tế nói chung là 5,80%. Mức đóng góp cho ngân sách còn thấp so với nguồn lực bỏ ra, mức nộp của từng doanh nghiệp chênh lệch lớn, thậm chí có nhiều DNNN mức nộp ngân sách thấp nhiều so với mức được ngân sách hỗ trợ. Ta lấy DNNN của Hà Nội làm ví dụ. Năm 1997 so với năm 1995 doanh thu của DNNN tăng 12,56% nhưng tổng lãi thực hiện bằng 78% của năm 1995, tổng nộp ngân sách bằng 92,76% của năm 1995, trong 3 năm (1995 - 1997) mức vốn ngân sách cấp cho doanh nghiệp địa phương tăng 43,64% nhưng mức đóng góp của DNNN có lỗ kỹ kế đến 01/01/2000 chiếm 30,8% số doanh nghiệp (5.079 tỷ đồng). Ngoài ra, nếu hạch toán đủ chi phí như chi phí khấu hao tài
  12. sản cố định, nợ khó đòi, vật tư thành phần ứ đọng, kém, mất phẩm chất.. thì số lỗ thật còn cao hơn. Số các doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ tập trung ở các doanh nghiệp địa phương như: Nan Định 46%, Thái Bình 35%, Hà Nam 33%, Hải Phòng 21%.... * Cơ cấu tổ chức bộ máy sản xuất kinh doanh Hiện tại, cơ cấu bộ máy tổ chức sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp cũng như toàn bộ hệ thống DNNN còn rất lỏng lẻo. Trong từng doanh nghiệp thì bộ máy cồng kềnh, vận hành nặng nề kém hiệu quả. Bất hợp lý trong khâu tổ chức dựa trên phí tổn sản xuất cao. Một số doanh nghiệp có khả năng tổ chức lại tốt hơn nhưng lại vấp phải vấn đề giải quyết lao động dư. Bản thân giữa các doanh nghiệp thành viên trong một tổng công ty cũng không đủ sự kết dính cần thiết. Mối quan hệ giữa các doanh nghiệp lớn với các doanh nghiệp nhỏ như cũng trong tình trạng này. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước cùng hoạt động trong tình trang chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, cấp quản lý và trên cùng địa bàn tạo ra sự cạnh tranh thếu lành mạnh trong chính khu vực DNNN với nhau hầu hết tỉnh nào cũng có 3-5 công ty tư vấn khảo sát thiết kế chuyên ngành xây dựng công nghiệp thuỷ lợi, giao thông, lâm nghiệp. * Vốn kinh doanh Tuy chiếm tới hơn 80% tổng nguồn vốn của nền kinh tế song sẽ là khập khiễng nếu đem quy mô lớn bình quân của DNNN so với mức vốn của một doanh nghiệp quốc tế có khả năng cạnh tranh trung bình. Nếu so sánh quy mô của DNNN và doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì thấy DNNN có lợi thế, song phép tính này sẽ chẳng có ý nghĩa gì khi coi vốn như một chỉ tiêu tiêu đề cho khả năng cạnh tranh trong hội nhập kinh tế thế giới. Tính đến cuối 1999, tổng số DNNN là 5.450 với 1.733 doanh nghiệp trung ương, 3717 doanh nghiệp địa phương, trong đó có gần 100 tổng công ty (17 tổng công ty 91và gần 80 tổng công ty 90) tổng số vốn Nhà nước tại doanh nghiệp mới là 112.000 tỷ đồng. Năm 1998 vẫn còn 72,5% số DNNN có vốn dưới 5 tỷ đồng, trong đó có gần 26% số DNNN có số vốn trên 10 tỷ đồng, qua đó đủ thấy số vốn của DNNN nước ta nhỏ đến mức nào.
  13. Số vốn của DNNN Việt Nam lại càng trở nên nhỏ bé và mỏng manh hơn khi đối chiếu giữa vốn chủ sở hữu về tình hình công nợ của doanh nghiệp. Vốn đủ ít công nợ lại nhiều, số nợ phải trả của DNNN thường cao hơn rất nhiều số vốn của doanh nghiệp. Liệu có bình thường không khi vốn thực có không bù đắp nổi số vốn gấp 6 lần vốn thực có, tổng công ty gốm sứ thuỷ tinh: 3,5 lần,tổng công ty dệt may 2,5 lần... tính riêng ở các DNNN thuộc bộ giao thông vận tải, tổng công nợ phải thu toàn ngành lên tới 6.067 tỷ đồng (xấp xỉ bằng nguồn vốn chủ sở hữu) trong đó nợ khó đòi là 92,8 tỷ đồng, riêng các đơn vị khối xây dựng cơ bản số phải thu chiếm tới 2.932 tỷ đồng, chủ yếu là nợ khối lượng các dự án đã hoàn thành nhưng chịu được các chủ đầu tư thanh toán. Tổng nợ phải trả là 12.155 tỷ đồng (gần gấp đôi vốn chủ sở hữu). Xin đơn cử vài trường hợp cụ thể: Tổng công ty Hàng Hải nợ đến hạ và quá hạn là 94,3 tỷ đồng, công ty Traximexco 19,4 tỷ đồng, Cục Đường Bộ 7,7 tỷ đồng..... Mặt khác tình trạng thiếu vốn của các DNNN là phổ biến và nghiêm trọng. Có tới hơn 60% số DNNN không đủ vốn pháp định theo quy định tại Nghị định số 50/CP. Vốn thực tế hoạt động chỉ đạt 80% riêng vốn lưu động chỉ có 50% được huy đọng vào kinh doanh, còn lại nằm ở tài sản, vật tư mất mát, kém phẩm chất, công nợ không thu hồi được, lỗ chưa được bù đắp. Trong tổng công ty Nhà nước tuy được ưu tiên các điều kiện vật chất nguồn lực, để phát triển nhưng tình trạng cũng không sáng sủa hơn. Năm 1998 vốn Nhà nước bình quân của Tổng công ty 91 là 3661 tỷ đồng. Nhưng trong 17 tổng công ty 91 có tới 14 tổng công ty (82%) có mức vốn nhà nước dưới mức vốn bình quân, trong đó có 6 tổng công ty (35%) có mức vốn dưới 100 tỷ đồng. Đối với tổng công ty 90 tình hình vốn còn đáng buồn hơn. Hơn 20%số tổng công ty 90 vốn nhà nước chỉ có dưới 100 tỷ đồng, trong đó có 13 tổng công ty, vốn ngân sách cấp cho chỉ được dưới 40 tỷ đồng * Trình độ máy móc thiết bị, công nghệ Nhìn một cách khái quát, tài sản cố định của DNNN hiện nay quá lạc hậu về kỹ thuật, manh mún và không đồng bộ. Theo báo cáo của Bộ khoa học công nghệ và môi trường thì công nghệ nước ta lạc hậu so với thế giới từ 10 - 20 năm. Mức độ hao mòn hữu hình từ 30 - 50% hiệu suất sử dụng thấp chỉ 25 - 30%, kết quả yếu kéo theo là
  14. mức tiêu hao nhiên liệu cho đơn vị sản phẩm rất cao, ngược lại, chất lượng sản phẩm thấp, năng suất lao động không ổn định, mẫu mã đơn điệu. * Năng lực đội ngũ cán bộ Ai cũng thừa nhận đây klà nhân tố có tính cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam song chỉ dưới dạng tiềm năng. Việc 67% giám đốc doanh nghiệp không đọc được báo cáo tài chính sự thiếu hụt lao động có kỹ thuật tay nghề cao cho các công nghiệp, khu chế xuất thời gian qua đã chứng tỏ chúng ta cũng chưa có khả năng cạnh tranh về nhân lực, khâu yếu là đào tạo lao động lại là yếu tố quyết định tiền năng dồi dào về nguồn nhân lực thành hiện thực. Tình hình DNNN đang đứng trước thực trạng yếu kém về nhiều mặt, hiệu quả sút kém là do những nguyên nhân sau: Một là, vai trò tích cực của động lực đổi mới theo nguyên tố dỡ bỏ cản trở, xoá bao cấp, khuyến khích tự hạch toán lỗ lãi.... đã cạn dần trong sự tiếp sức cho động lực mới ở DNNN vẫn chưa hình thành đồng bộ, cơ chế quảnlý tài chính còn quá cứng nhắc, sửa đổi chấp vá một cách bị động, thiếu quan điểm hệ thống. Quyền và trách nhiệm đại diện sở hữu chưa được xác lập cụ thể. Chính sách đối với kết quả tự tích lỹ của DNNN quá bất hợp lý đã hạn chế khả năng tự mở rộng quy mô phát triển của DNNN vai trò của giám đốc có ý nghĩa quyết định sự thành bại của doanh nghiệp nhưng cơ chế tuyển chọn chậm được đổi mới. Nếu không vi phạm kỷ luật thì dù doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả vẫn phải chờ khi giám đốc về hưu mới thay thế người khác được. Mặt khác cơ chế hướng dẫn, giám sát, kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan nhà nước đối với DNNN vẫn còn nhiều mặt chưa hợp lý. Hoặc là buông lỏng dẫn đến tình trạng tuỳ tiện, làm thất thoát tài sản Nhà nước. Hoặc là can thiệp tiếp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp gây ra quan liêu và trách nhiệm không rõ ràng. Hai là: Nhà nước cần tập trung vốn cho yêu cầu phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội, còn DNNN cần rất nhiều vốn cho yêu cầu đổi mới công nghệ và mở rộng sản xuất nhưng các kênh huy động vốn đều trắc trở. - Nguồn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước còn quá hạn hẹp. Nguồn tín dụng thương mại qua nhiều năm chỉ cho vay ngắn hạn gần đây mới bắt đầu mở rộng tỷ
  15. lệ tín dụng hạn, chưa có khả năng cho vay dài hạn. Do đó không ít DNNN đứng trước tình thế có hạn chế bớt rủi ro nhưng không đổi mới triệt để công nghệ quá lạc hậu và bị đối sức trong cạnh tranh, hoặc liều lĩnh vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn dẫn đến nguy cơ vỡ nợ. - Phương thức liên doanh tuy giải quyết thêm được việc làm nhưng do thiếu vốn và thiếu kinh nghiệm trong quá trình hình thành dự án và tham gia quản lý nên trong thực tế rất ít DNNN chia được lợi nhuận từ nguồn này sang nguồn khác bổ sung quỹ phát triển sản xuất. - Cổ phần hoá là phương thức huy động vốn xã hội vì tạo động lực cho DNNN hoạt động có hiệu quả nhưng hiểu khái quá chậm. II.2. Kết quả và những mặt hạn chế của quá trình nâng cao vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước (thành phần kinh tế nhà nước) sau hơn mười năm đổi mới. Từ đầu thập kỷ 90, Nhà nước đã có nhiều chủ trương quan trọng đẩy mạnh công cuộc đổi mới cơ chế quản lý và tổ chức - sắp xếp lại hệ thống DNNN nhằm thích ứng với thời kỳ mới mà nội dung cốt lõi là triển khai chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Việc đổi mới, tổ chức sắp xếp lại DNNN nhằm khơi dậy nội lực của các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh và khả năng định hướng của thành phần kinh tế khác cùng phát triển lên CNXH. Từ 1990 hiện nay, công cuộc đổi mới có nhiều nội dung đem lại nhiều điều kiện cho hoạt động của DNNN nhưng bên cạnh đó vẫn còn những nhược điểm. II.2.1. Những đổi mới có liên quan tới tư cách pháp nhân của DNNN: Những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước về DNNN đã ban hành ở thời kỳ này như sau: Sau cuộc tổng kiểm kê đánh giá tài sản DNNN ngày 1- 1 -1990 đã tiến hành chỉnh đốn, sắp xếp và đăng ký lại DNNN vào các năm 1992 - 1993 theo nghị định 388/HĐBT ngày 20 - 11- 1991
  16. - Đã ban hành các văn bản giải thể những DNNN và sắp xếp lại lao động, áp dụng chính sách trợ cấp đối với lực lượng lao động dôi dư và ban đầu ban hành luật phá sản doanh nghiệp. - Đã tổ chức lại 250 liên hiệp xí nghiệp quốc doanh và công ty để hình thành các tổng công ty Nhà nước theo các quyết định 90/TTg và 91/TTg. - Đã banhành luật doanh nghiệp quốc doanh, và các văn bản dưới luật về điều lệ mẫu Tổng công ty Nhà nước, và các văn bản pháp quy khác về tổ chức, hoạt động của DNNN. Sau khi ban hành luật doanh nghiệp Nhà nước, đây là một bước tiến quan trọng trong việc thực thi Nhà nước pháp quyền, thực sự tiến tới bình đẳng trước pháp luật giữa các thành phần kinh tế, khởi đầu việc thành lập hoạt động, tổ chức lại giải thể và phá sản theo đúng trình tự pháp luật. Từ khi có nghị định 388/HĐBT đã cơ bản chấm dứt tình trạng tự phát tuỳ tiện thành lập và giải thể DNNN và khi ban hành luật phá sản cũng có nghĩa là bắt đầu công nhận và thực thi các nghĩa vụ pháp luật dân sự đối với quan hệ kinh tế của DNNN khi nó phá sản theo trình tự pháp luật. Kết quả là đã giảm khoảng 50% số lượng DNNN, loại bỏ được các doanh nghiệp quá yếu kém, thiếu điều kiện tối thiểu để tồn tại, và hoạt động như một pháp nhân kinh tế đủ tư cách, mà điều quan trọng đã làm cho các DNNN còn lại, được đăng ký kinh doanh, có quy mô vốn liếng khá lớn, có thị trường tiêu thụ ổn định hơn sơ với trước. Đặc biệt chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại DNNN được sử lý tương đối ổn thoả một phần do nguồn tài chính của ngân sách nhà nước bảo đảm khá tốt, mặt khác đã áp dụng phương thức sắp xếp bằng cách nhập nhiều hơn là giải thể nên gánh nặng trợ cấp lao động giảm. II.2.2. Những đổi mới về mô hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh theo hướng thúc đẩy tập trung hoá, tích tụ hoá trong các DNNN Trong giai đoạn sau Đại hội VI một lần nữa có chủ trương tổ chức lại loại DNNN lớn trong các ngành. Điều lệ mới về liên hiệp xí nghiệp quốc doanh chủ trương áp dụng đồng thời hai hình thức được goị tắt là " liên hiệp mềm" và "liên hiệp cứng"
  17. loại "mềm" được hình thành theo nguyên tắc tự nguyện của doanh nghiệp và toàn bộ loại cắt phần lĩnh vực xuất phát sự quan điểm cho rằng liên hiệp lại sẽ có hiệu quả hơn. Loại "cứng" được tổ chức ở một số ngành kinh tế kỹ thuật cao về trình độ tập trung hoá (điện lực, hàng không).... có đỏi hỏi điều hành tập trung từ một trung tâm. Đến đầu năm 1994 khi việc xắp xếpvà củng cố các DNNN theo từng đơn vị cơ sở đã cơ bản kết thúc, đạt yêu cầu đặt ra trong thời kỳ đó chính phủ chủ trương củng cố, tổ chức lại các hình thức tổ chức liên hiệp tổng công ty theo hướng hình thành và tập đoàn kinh doanh mạnh thuộc sở hữu " Nhà nước". Những nội dung chính sách chủ yếu về tổng công ty Nhà nước là tăng thực lực, khả năng tích tụ, khả năng cạnh tranh của DNNN trên các lĩnh vực quan trọng. - Tổng công ty trong các ngành quan trọng nhất, điều kiện chín muồi nhất do chính phủ quyết định thành lập chỉ định các doanh nghiệp thành viên và nhân sự, hoạt động trên phạm vi cả nước (Tổng công ty 91). + Tổng công ty thành lập ở cấp bộ, địa phương gồm các thành viên tự nguyên gia nhập, thường hoạt động theo các khu vực (Tổng côngt y 90) hiện nay tồn tại những hạn chế kìm hãm sự phát triển của các tổng công ty như: số lượng các tổng công ty quá nhiều, chưa có sự liên kết kinh tế gắn bó lợi ích, hỗ trợ về thị trường.... giữa tổng công ty với các đơn vị thành viên, giữa các đơn vị thành viên khác nhau: II.2.3. Các chính sách đa dạng hoá sở hữu DNNN Sau đại hội VI của Đảng, quá trình đổi mới DNNN có thêm một nội dung mới. Đó là trong việc sắp xếp tổ chức lại DNNN có thêm yêu cầu, đa dạng hoá sở hữu đối với hệ thống doanh nghiệp này. Theo chủ trương hiện hành, các hình thức đa dạng hoá sở hữu sau đâu đã được ban hành, ở các mức độ khác nhau đã được thể chế hoá với bước đầu được thực thi. Hình thức cao nhất là bán toàn bộ DNNN cho cấ nhân và tập thể, chuyển thành công ty cổ phần trong đó Nhà nước không tham gia mua cồ phần, hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn sở hữu tư nhân hoặc thành công ty tư nhân, hình thức tiếp theo là các DNNN được đánh giá lại tài sản hiện có và sử dụng đất đai để cùng góp vốn thành lập xí nghiệp liên doanh với chủ sở hữu nước ngoài theo luật đầu
  18. tư nước ngoài. Hình thức được đánh giá là quan trọng nhất đã và đang thực hiện là cổ phần hoá một bộ phận DNNN. Hình thức hiện cổ phần hoá bao gồm: Bán một phần giá trị doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước tại DNNN, Nhà nước giữ lại cổ phần có thể đạt mức cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt theo luật định, tuỳ theo nhu cầu công ty cổ phần sau này, bán cổ phần một đơn vị thành viên. Xét một cách toàn diện thì cổ phần hoá DNNN đã đem lại lợi ích rõ rệt cho người lao động, cổ đông, Nhà nước và xã hội. Thông qua việc cổ phần hoá, vốn Nhà nước không những được đảm bảo mà còn được tăng thêm. DNNN được hình thành từ cổ phần hoá có nhiều cơ hội huy động vốn trong xã hội để phụcvụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Trong 370 DNNN đã cổ phần hoá có số vốn Nhà nước là 854 tỷ đồng đã thu hút gần 1432 tỷ đồng ngoài xã hội, đồng thời Nhà nước thu được 714 tỷ đồng từ việc Nhà nước rút bớt phần vốn ở các DNNN này. Theo báo cáo của ban đổi mới DNNN thì 40 công ty cổ phần đã hoạt động từ 1 năm trở lên có chuyển biến tích cực trong hoạt động kinh doanh, với hiệu quả khả quan. Doanh thu tăng gấp 2 lần so với 46 tỷ đồng trước cổ phần hoá. Số lượng lao động chẳng những không giảm mà còn tăng 20%. Ví dụ công ty chế biến hàng xuất khẩu long an từ 900 đến 1200 lao động, công ty cơ điện lạnh từ 244 lao động đến 806 lao động. Thu nhập của người lao động tăng bình quân 20% /năm điển hình là công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển bộ giao thông vận tải có thu nhập lợi nhuận tằng từ 2- 3 lần, nộp Ngân sách tăng 2 - 25 lần, vốn điều lệ tăng 2,5 lần. Lãi cổ tức đã cao hơn lãi tiết kiệm, bình quân từ 1 - 2% tháng, có một số công ty đạt 2,5%. Tuy nhiên số DNNN được cổ phần hoá trong thời gian qua là quá ít so với kế hoạch đề ra. Năm 1998 đạt 55% năm 1999 đạt 63% năm 2000 đạt 36%. II.2.4. Ban hành và thực hiện hệ thống luật liên quan đến DNNN. Cùng với nhiều chính sách vĩ mô đã thay đổi, nhà nước cũng đã từng bước ban hành hệ thống luật liên quan đến DNNN. Trong đó có hai bộ luật được hình thành tương đối sớm là luật phá sản doanh nghiệp và luật doanh nghiệp Nhà nước (năm 1995).
  19. - Đối với luật phá sản, đây là bước đi mạnh dạn đồng thời đáp ứng tình hình thực tế đã và đang xuất hiện rõ lượng không ít DNNN lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán, nhưng nếu dựa vào các văn bản pháp quy trước đó thì không thể xử lý được. Luật doanh nghiệp Nhà nước, là một bước ngoặt về chất lượng quan trọng trong tiến trình xây dựng, củng cố và quản lý Nhà nước đối với hệ thống DNNN - hệ thống quan trọng vào bậc nhất trong giai đoạn hiện nay ở nước ta. Luật doanh nghiệp ra đời 4/1999 là tín hiệu mới cho các doanh nghiệp nói chung, DNNN nói riêng. Nó thay đổi cách tư duy xây dựng luật pháp của chúng ta từ trước tới nay, là chỉ chú trọng phần trước hoạt động của doanh nghiệp, còn quá trình hoạt động, sau hoạt động ra sao thì không cần để ý tới. II.2.5. Những đổi mới về chính sách kinh tế vĩ mô có liên quan đến các DNNN. Ngay cuối thập kỷ 80 đầu thập kỷ 90 đã có những cải cách chính sách kinh tế vĩ mô theo hướng kinh tế thị trường khắc phục một bước khá căn bản cơ chế cũ trong chính sách này. Đó là cuộc cải cách thuế giai đoạn 1989 -1990 chuyển hình thức "thu quốc doanh" qua áp dụng thuế doanh thu, chuyển hình thức trích nộp lợi nhuận qua áp dụng thuế lợi tức. Sự ra đơi của pháp lệnh của ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh về ngân sách thương mại, các tổ chức tín dụng... là đã mới rất cơ bản và đúng hướng cho các DNNN chuyển qua hoạt động heo cơ chế thị trường ở nấc thang cao hơn. Như vậy cho đến nay phần lớn chính sách kinh tế vĩ mô đã chuyển mạnh sang cơ chế điều tiết gián tiếp của Nhà nước. Song cần thấy những chính sách đó còn nhiều bất cập. Nổi bật là lĩnh vực ngân hàng và thị trường vốn trung, dài hạn còn nhiều tồn tại, nếu chậm sửa đổi sẽ là trở ngại cho tiến trình cải cách hiện nay. Nhiều chính sách, cơ chế kinh tế vĩ mô còn giữa những quy định phân biệt đối xử không cần thiết, có chỗ phi lý giữa DNNN và các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác.
  20. II.3. Những thách thức của DNNN trước xu thế hội nhập nền kinh tế thế giới. Văn kiện Đại hội Đảng IX đã chỉ rõ "thế giới đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu mà không một quốc gia nào có thể tự giải quyết nếu không có sự hợp tác đa phương... chủ động hội nhập nền kinh tế thế giới theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, bản sắc vănhoá dân tộc, bảo vệ môi trường". Thực vậy, sau hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới mở cửa và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã đạt được những cải thiện đáng kể trong quan hệ thương mại quốc tế nỏi riêng, hợp tác kinh tế quốc tế nói chung. Với việc mỹ tuyên bố xoá bỏ cấm vận đầu năm 1993, Việt Nam được kết nạp vào ASEAN năm 1995 đồng thời ký CEPT gia nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA) Việt nam trở thành thành viên của APEC năm 1997 và đặc biệt ngày 13/7/2000 vừa qua, tại Oasinhtơn, Hiệp định thương mại Việt Mỹ đã được ký kết bở bộ trưởng Thương Mại Việt Nam và Đại diện Thương mại của Tổng thống mỹ. Tổng kết thực tiễn cho thấy các nước có tốc độ phát triển cao trong nhiều năm và có sự tích luỹ hiệu quả về công nghệ thì đều có thị trường xuấ khẩu sang Mỹ khá lớn, chiếm tới trên 20% tổng kim ngạch xuất khẩu, của Việt Nam hiện mới là 4,3%.3 Việc Việt Nam đã kỹ hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và hưởng quy chế tối huệ quốc có ý nghĩa tiêu đề quan trọng việc thúc đẩy xuất khẩu và thu hút đầu tư hướng vào xuất khẩu. Liệu các DNNN Việt Nam, đặc biệt là các Tổng công ty có phá vỡ được tư tưởng hiện tại là chỉ nhằm ổn định sản xuất lấy mục tiêu đáp ứng nhu cầu sản phẩm thay thế nhập khẩu trước mắt để chuyển sang lấy cạnh tranh quốc tế làm chuẩn mực cho sự phát triển hướng vào xuất khẩu. Trong một nền kinh tế thế giới toàn cầu hoá thì việc một quốc gia có hội nhập vào nền kinh tế thế giới hay không và hội nhập đến mức độ nào sẽ cơ bản phụ thuộc vào khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp sở tại. Nhìn vào nền kinh tế Việt Nam có thể thấy rất rõ, dù chỉ chiếm chưa tới 20% tổng số 35.000 doanh nghiệp của cả nước, các DNNN vẫn nắm giữ hầu hết các nguồn lực cơ bản của xã hội và giữ vai trò 3 Tạp chí Tài chính tháng 8/2000 trang 27
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2