intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Phân tích tài chính công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải

Chia sẻ: Ly Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:91

251
lượt xem
130
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong một nền kinh tế hội nhập như hiện nay ở Việt Nam, sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt giữa các thành phần kinh tế là một điều tất yếu. Nó vừa tạo động lực cho các doanh nghiệp phát triển, vừa là một trở ngại lớn nếu doanh nghiệp không bắt kịp với nhịp độ phát triển của nền kinh tế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Phân tích tài chính công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải

  1. LUẬN VĂN: Phân tích tài chính công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải
  2. PHẦN MỞ ĐẦU Trong một nền kinh tế hội nhập như hiện nay ở Việt Nam, sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt giữa các thành phần kinh tế là một điều tất yếu. Nó vừa tạo động lực cho các doanh nghiệp phát triển, vừa là một trở ngại lớn nếu doanh nghiệp không bắt kịp với nhịp độ phát triển của nền kinh tế. Do đó, để có thể tồn tại và phát triển được, mỗi doanh nghiệp cần phải nắm vững được tình hình tài chính, tình hình sản xuất - kinh doanh của mình để từ đó có những bước đi phù hợp với tiến trình hội nhập. Để làm được điều này, doanh nghiệp phải thường xuyên tiến hành phân tích tình hình tài chính, điều này sẽ giúp cho các doanh nghiệp và các cơ quan chủ quản cấp trên thấy rõ được thực trạng hoạt động tài chính, kết quả hoạt động sản xuất - kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp cũng như xác định được một cách đầy đủ, đúng đắn nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố thông tin, đánh giá được tiềm năng, hiệu quả sản xuất - kinh doanh nghiệp, rủi ro và triển vọng trong tương lai của doanh nghiệp. Từ đó, họ có thể đưa ra những giải pháp hữu hiệu, những quyết định chính xác nhằm nâng cao chất lượng công tác quản lý kinh tế, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Một thực tế có thể nhận thấy là tình hình tài chính của một doanh nghiệp không chỉ là sự quan tâm của chính bản thân doanh nghiệp mà nó còn là đối tượng quan tâm của rất nhiều chủ thể khác như các nhà đầu tư, các cổ đông tương lai của công ty cổ phần, người cho vay, Nhà nước, các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp, người lao động, các nhà nghiên cứu kinh tế... Vì thế, phân tích tình hình tài chính của một doanh nghiệp sẽ không phải chỉ là công việc của một mình các nhà quản trị doanh nghiệp mà nó sẽ là đối tượng để các chủ thể khác phân tích tùy thuộc vào mục đích của họ sử dụng thông tin phân tích để làm gì. Hiện nay, loại hình tổ chức công ty cổ phần đang dần dần chiếm ưu thế do những lợi thế mà nó mang lại. Từ năm 2001 đến nay, số doanh nghiệp Nhà nước đã được cổ phần hóa và trở thành các công ty cổ phần tăng khá nhanh cả về số lượng công ty lẫn năng lực vốn, lao động, tài sản và kết quả hoạt động. Hoạt động của các
  3. công ty này nhìn chung là có hiệu quả hơn so với trước khi cổ phần hóa tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề cần quan tâm. Nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp nói chung và trong các công ty cổ phần nói riêng đối với sự phát triển của nền kinh tế, kết hợp với những kiến thức lý luận được tiếp thu ở nhà trường, các tài liệu tham khảo thực tế, cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo – ThS. Lê Trung Thành, sự giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi trong việc cung cấp các thông tin cần thiết của các cô chú trong phòng kế toán công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải, em đã lựa chọn đề tài cho chuyên đề thực tập của mình là: “ Phân tích tài chính công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải.” Chuyên đề này ngoài phần mở đầu và kết luận, bao gồm các nội dung chính sau: Chương 1. Những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính trong công ty cổ phần. Chương 2. Phân tích tài chính công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải. Chương 3. Giải pháp tài chính nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất – kinh doanh tại công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải.
  4. Chương 1. Những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính trong công ty cổ phần. 1.1. Những vấn đề lý luận hoạt động tài chính trong các công ty cổ phần. 1.1.1. Khái niệm và những đặc điểm cơ bản của công ty cổ phần. 1.1.1.1. Khái niệm về công ty cổ phần: Công ty cổ phần là một loại hình doanh nghiệp lần đầu tiên được hình thành trên Thế giới là cách đây hơn 400 năm. Loại hình doanh nghiệp này được phôi thai từ đầu thế kỷ thứ XV ở châu Âu, đến thế kỷ thứ XVI, dưới sự tác động của chủ nghĩa trọng thương cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế đã hình thành nên các công ty hoạt động chủ yếu dựa trên vốn góp cổ phần. Và từ đó đến nay, hình thức công ty cổ phần ngày càng phát triển và đã chứng tỏ được những ưu thế của nó so với hình thức doanh nghiệp khác. Theo đó, công ty cổ phần là một doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn, cùng hưởng lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần góp vốn và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ khác của công ty trong phạm vi phần góp vốn của mình. 1.1.1.2. Những đặc điểm cơ bản của công ty cổ phần: Hình thức công ty cổ phần có những đặc điểm cơ bản sau:  Công ty cổ phần là một doanh nghiệp tổ chức kinh doanh, có tư cách pháp nhân, tồn tại riêng biệt và độc lập với chủ sở hữu của nó. Được thành lập theo pháp luật, được Nhà nước phê duyệt điều lệ hoạt động, có con dấu riêng, có quyền ký kết các hợp đồng kinh tế với các tổ chức và các cá nhân khác trong và ngoài nước, chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động sản xuất – kinh doanh của mình.  Công ty cổ phần được tự ấn định mục tiêu và xác định các phương tiện sử dụng để thực hiện các mục tiêu đó, được tự do phát triển mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh theo pháp luật quy định, được đa dạng hóa, được thay đổi các hoạt động kinh doanh, được đình chỉ hoạt động theo ý công ty mà không phải tham khảo bất cứ một thẩm quyền nào.  Tài sản (vốn) trong các công ty cổ phần được hình thành từ những nguồn mang đặc điểm riêng biệt, bao gồm:
  5.  Vốn điều lệ: là vốn do các cổ đông dùng tiền hoặc tài sản của mình góp vào công ty dưới hình thức mua cổ phiếu. Vốn góp cổ phần là vốn chủ sở hữu, công ty được toàn quyền sử dụng vốn góp này. Tỷ lệ góp vốn của các cổ đông là căn cứ để công ty chia lợi nhuận sau mỗi kỳ hạch toán kinh doanh. Các cổ đông của công ty cổ phần có trách nhiệm góp vốn vào công ty nhưng không được quyền rút vốn khỏi công ty trong thời gian công ty hoạt động để đảm bảo cho sự hoạt động của công ty. Tuy nhiên, các cổ đông có quyền bán lại cổ phiếu của mình cho người khác. Mọi hoạt động chuyển nhượng cổ phần này diễn ra với tư cách là cách là các giao dịch cá biệt nên không ảnh hưởng đến vốn điều lệ và hoạt động của công ty.  Vốn tự có: là lợi nhuận không chia hết cho các cổ đông mà được giữ lại để làm tăng vốn cho công ty. Đây chính là phần vốn mà công ty tự tạo ra trong quá trình sản xuất – kinh doanh.  Vốn vay: là nguồn mà công ty có được nhờ hình thức đi vay hoặc chiếm dụng vốn của các đơn vị khác, công ty chỉ được quyền sử dụng trong một thời gian nhất định, sau đó phải hoàn trả lại cho chủ nợ kèm theo một khoản nhất định cho chủ nợ, chẳng hạn như lãi suất cho khoản vay ngân hàng, trái tức cho người mua trái phiếu của công ty... Khoản vốn vay bao gồm: - Vốn vay tín dụng ngân hàng: là số vốn mà công ty đi vay của ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác. Đến thời hạn hoàn trả, công ty phải trả số tiền gốc đã vay kèm theo một khoản chi phí nữa là lãi phải trả cho cho chủ nợ. - Vay từ phát hành trái phiếu trên thị trường vốn: khoản vốn này thường là vốn trung và dài hạn, được huy động trên thị trường vốn, các cá nhân, đơn vị đều có thể là chủ nợ. - Vay từ tín dụng thương mại: đây là hình thức công ty mua chịu hàng của nhà cung cấp, khi đó, công ty được sử dụng vốn của người khác và chi phí cho việc này là một khoản tiền phải trả do chiếm dụng vốn của đơn vị cung cấp.  Cổ đông trong công ty cổ phần chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp. Trong trường hợp
  6. công ty không đủ tài sản để thanh toán các khoản nợ cho khách hàng thì cổ đông không chịu trách nhiệm về các khoản nợ này.  Chức năng kinh tế của các công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trương: sản xuất sản phẩm, hàng hóa , dịch vụ để bán trên thị trường, bằng cách sử dụng các phương tiện vật chất, tài chính và nhân sự nhằm mục đích thu lợi nhuận.  Cơ cấu lãnh đạo trong mỗi công ty cổ phần gồm ba bộ phận:  Đại hội cổ đông: là cơ quan có thẩm quyền quyết định cao nhất của công ty, đại biểu bao gồm tất cả các cổ đông.  Hội đồng quản trị: là cơ quan quản lý công ty, được đại hội cổ đông bầu ra nhằm thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu mà đại hội cổ đông đã biểu quyết.  Ban giám đốc: do hội đồng quản trị bổ nhiệm gồm giám đốc và các phó giám đốc để điều hành công việc hằng ngày, tuân thủ theo chỉ thị và ý chí của đại hội cổ đông và hội đồng quản trị.
  7. 1.1.2. Những lợi thế và những hạn chế của công ty cổ phần. 1.1.2.1. Lợi thế: Từ khi được hình thành và phát triển cho tới nay, công ty cổ phần là một trong những hình thức tổ chức sản xuất - kinh doanh được ưu chuộng trên thế giới. So với các hình thức công ty hợp doanh, công ty tư nhân và công ty TNHH thì hình thức công ty cổ phần có nhiều lợi thế hơn. Những lợi thế cơ bản của hình thức công ty cổ phần được thể hiện ở những điểm sau đây:  Trách nhiệm của các cổ đông trong công ty cổ phần chỉ nằm trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty (giống các thành viên góp vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn). Ưu điểm này làm cho hình thức công ty cổ phần rất hấp dẫn các nhà đầu tư vì việc đầu tư vào các công ty với trách nhiệm hữu hạn như vậy sẽ ít rủi ro hơn là đầu tư và công ty trách nhiệm vô hạn.  Vốn kinh doanh của công ty cổ phần được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, do đó đa dạng về phương thức huy động vốn. Một trong những phương thức mà các công ty cổ phần thường sử dụng để tìm kiếm nguồn vốn cho mình đó là phát hành cổ phiếu ra thị trường (lợi thế hơn so với công ty TNHH và công ty hợp doanh). Nhờ ưu điểm này mà công ty cổ phần ít bị hạn chế về vốn kinh doanh, do đó có thể thực hiện được các dự án kinh doanh đòi hỏi nhiều vốn đầu tư.  Cổ phiếu trong các công ty cổ phần, đặc biệt là các công ty lớn có tỷ suất lợi nhuận cao có thể dễ dàng chuyển nhượng quyền sở hữu qua việc mua bán cổ phiếu trên thị trường mà không cần thay đổi tổ chức công ty. Cổ phiếu của các công ty đã niêm yết trên thị trường chứng khoán thường có thể dễ dàng được chuyển đổi thành tiền. sự dễ dàng chuyển đổi chủ sở hữu của các cổ phần này cho phép các công ty cổ phần tồn tại và phát triển lâu dài.  Một đặc điểm nổi bật nữa về ưu thế của hình thức tổ chức công ty cổ phần là sự tách biệt giữa chủ sở hữu với những người điều hành công ty. Do vậy họ thường phải lựa chọn những người điều hành có đủ năng lực và kinh nghiệm chuyên môn thay mình quản lý sản xuất – kinh doanh của công ty. 1.1.2.2. Hạn chế:
  8. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu thế có được của hình thức này, hình thức tổ chức công ty cổ phần cũng có những hạn chế nhất định, biểu hiện ở một số mặt như sau:  Chi phí cho việc thành lập và điều hành công ty thường tốn kém hơn so với các loại hình tổ chức công ty khác.  Hàng kỳ (thường là quý hoặc năm), các công ty cổ phần phải công khai và báo cáo với các cổ đông (theo nghị quyết và điều lệ của đại hội cổ đông) về tình hình sản xuất – kinh doanh và tình hình tài chính của mình. Do đó khả năng bảo mật kinh doanh và tài chính trong các công ty cổ phần thường bị hạn chế, nhiều khi gây bất lợi cho công ty trong quá trình cạnh tranh với các đơn vị khác.  Phần lớn các cổ đông thường không có kiến thức về kinh doanh và không hiểu biết lẫn nhau (thường 6 tháng hoặc 1 năm mới tổ chức họp đại hội đồng cổ đông một lần). Số lượng cổ đông lớn cũng dễ dẫn đến sự phân hóa kiểm soát và tranh chấp về quyền lợi giữa các nhóm cổ đông. 1.1.3. Nội dung của hoạt động tài chính trong các công ty cổ phần. 1.1.3.1. Hoạt động tài chính trong các công ty cổ phần. Hoạt động tài chính trong bất cứ hình thức tổ chức doanh nghiệp nào cũng đóng vai trò hết sức quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể nói, không một nền kinh tế nào hoạt động được mà không có tiền. Và để đồng tiền có được được quản lý và sử dụng một cách hiệu quả thì hoạt động tài chính trong doanh nghiệp phải được thực hiện một cách triệt để nhất. Chính vì thế, hoạt động tài chính doanh nghiệp trong công ty cổ phần nói riêng và trong các doanh nghiệp nói chung là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình sản xuất - kinh doanh và được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ. Hoạt động tài chính trong các doanh nghiệp bao gồm việc thu – chi và quản lý thu – chi tiền tệ phát sinh trong doanh nghiệp từ quá trình thực hiện kế hoạch sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính trong doanh nghiệp và kết quả
  9. kinh doanh có mối quan hệ hai chiều. Hoạt động tài chính của doanh nghiệp thực hiện được tốt hay xấu sẽ có tác động thúc đẩy hay cản trở mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, và ngược lại, hoạt động sản xuất - kinh doanh tốt hay xấu lại có tác động trở lại đối với hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Chẳng hạn, trong một kỳ kinh doanh nào đó, tài chính của doanh nghiệp không cung ứng đầy đủ vốn để doanh nghiệp thực hiện các hoạt động mua các yếu tố đầu vào thì quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp sẽ bị trì trệ, không diễn ra liên tục được, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ. Ngược lại, trong kỳ, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp không được tốt lắm do bán được ít hàng, điều này làm giảm doanh thu cũng như lợi nhuận, và do đó hoạt động tài chính của doanh nghiệp cũng sẽ không hoạt động được trơn tru nữa. 1.1.3.2. Nguyên tắc của hoạt động tài chính trong các công ty cổ phần. Để hoạt động tài chính của doanh nghiệp thực sự trở thành công cụ đắc lực, thúc đẩy hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp đạt kết quả cao thì hoạt động tài chính của doanh nghiệp trước hết phải dựa trên nguyên tắc cơ bản sau: sử dụng vốn có mục đích, tiết kiệm và có lợi nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn một cách hợp pháp. Vốn dùng để sản xuất - kinh doanh trong các công ty cổ phần phải được sử dụng theo đúng mục đích mà đại hội đồng cổ đông đã biểu quyết hoặc theo đúng điều lệ tổ chức công ty đã được Nhà nước phê duyệt, theo đúng nhiệm vụ và quyền hạn khi được phép thành lập công ty. Việc sử dụng vốn của công ty cổ phần phải tuân thủ theo các quy định tài chính, kỷ luật tín dụng và kỷ luật thanh toán của Nhà nước đã ban hành. Việc cấp phát và thu – chi trong quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp phải theo đúng chế độ thu – chi của Nhà nước, của đại hội đồng cổ đông và hội đồng quản trị. Không chi sai phạm vi quy định, không chiếm dụng vốn của ngân sách Nhà nước, của ngân hàng, của các đơn vị và cá nhân khác. Đồng thời, cũng không để các đơn vị khác chiếm dụng vốn của doanh nghiệp. Tức là phải sử dụng vốn một cách tiết kiệm
  10. và có lợi để từ đó không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn của mình, tăng lợi nhuận cho toàn công ty. 1.1.3.3. Mục tiêu của hoạt động tài chính trong các công ty cổ phần. Như trên ta đã biết, hoạt động tài chính là những quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với việc tổ chức, huy động, phân phối, sử dụng và quản lý vốn trong quá trình sản xuất - kinh doanh, nó là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình sản xuất - kinh doanh nghiệp. Do đó, mục tiêu của hoạt động tài chính trong các doanh nghiệp nói chung và trong công ty cổ phần nói riêng là hướng tới việc giải quyết tốt các mối quan hệ kinh tế thể hiện qua việc thanh toán với các đơn vị có liên quan như ngân hàng, các đơn vị kinh tế khác, các đối tượng có liên quan mật thiết với doanh nghiệp như các cổ đông, người lao động, các cơ quan chức năng Nhà nước... mối quan hệ này được cụ thể hóa bằng các chỉ tiêu đánh giá về mặt lượng, mặt chất và thời gian; hoạt động tài chính phải đảm bảo nguyên tắc hiệu quả, nguyên tắc này đòi hỏi phải tối đa hóa việc sử dụng các nguồn vốn nhưng vẫn đảm bảo quá trình sản xuất - kinh doanh được hoạt động bình thường và mang lại hiệu quả; hoạt động tài chính được thực hiện trên cơ sở tôn trọng pháp luật, tuân thủ và chấp hành các chế độ về tài chính tín dụng, nghĩa vụ với Nhà nước, kỷ luật với các tổ chức, đơn vị kinh tế có liên quan.  Mối quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với Nhà nước: Doanh nghiệp phải thực hiện đủ, đúng thời hạn các nghĩa vụ về các khoản phải nộp ngân sách Nhà nước như thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu (nếu có), thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu có), thuế thu nhập doanh nghiệp..., không để nợ nần dây dưa kéo dài, gây khó khăn cho các cơ quan chức năng của Nhà nước tính toán và thu các khoản nghĩa vụ đó.  Mối quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với các đơn vị khác: Doanh nghiệp phải thanh toán đầy đủ và đúng kỳ hạn các khoản nợ phát sinh khi thực hiện các hoạt động mua hàng hóa, nguyên vật liệu, các dịch vụ đầu vào, không chiếm dụng vốn của các đơn vị đó một cách bất hợp pháp. Mặt khác, khi cung
  11. cấp các hàng hóa, sản phẩm, dịch vụ do mình tạo ra, doanh nghiệp phải có nghĩa vụ ghi nhận đầy đủ các nghiệp vụ liên quan, vừa tạo sự minh bạch trong việc tính toán nghĩa vụ đối với Nhà nước của doanh nghiệp mình, vừa tạo thuận lợi cho các cơ quan chức năng của Nhà nước kiểm tra việc thực hiện nghĩa vụ của đơn vị đối tác. Và doanh nghiệp cũng không được để các đơn vị đó chiếm dụng vốn của mình một cách không hợp lý, điều này sẽ có ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp do vốn bị ứ đọng ở khâu bán hàng, quay vòng sản xuất chậm.  Mối quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với cán bộ công nhân viên: Tài chính doanh nghiệp có nghĩa vụ phải thanh toán đầy đủ tiền lương và các khoản khác thuộc về thu nhập của người lao động trong doanh nghiệp, không được sử dụng các khoản thu nhập nói trên vào các mục đích khác, gây ảnh hưởng đến đời sống của người lao động.  Mối quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với các cổ đông: Đây là mối quan hệ giữa những nhà quản lý doanh nghiệp với chủ sở hữu về tài sản. Mục tiêu của hoạt động tài chính trong giải quyết mối quan hệ này là tạo sự công bằng, hợp lý, công khai trong việc phân chia lợi nhuận theo quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi cổ đông đúng như Đại hội cổ đông đã biểu quyết. 1.1.3.4. Nội dung cơ bản hoạt động tài chính trong các công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường.  Xác định nhu cầu về vốn của doanh nghiệp: Sự hình thành, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp phụ thuộc phần lớn vào hoạt động tài chính mà doanh nghiệp thực hiện. Vai trò đó của hoạt động tài chính được thể hiện ngay từ khi thành lập doanh nghiệp, trong việc thiết lập các dự án đầu tư ban đầu, dự kiến hoạt động, gọi vốn đầu tư... Trong cơ chế thị trường, mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp đều chịu sự tác động về nhu cầu tài chính. Vì vậy, để đảm bảo cho quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành được liên tục, thường xuyên và đạt hiệu quả cao thì khâu đầu tiên là phải xác định được và đảm bảo thỏa mãn đầy đủ nhu cầu về vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Việc xác định nhu cầu về vốn kinh doanh
  12. của doanh nghiệp phải căn cứ vào chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp và nhiệm vụ sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ. Khi xác định được nhu cầu về vốn kinh doanh của doanh nghiệp rồi thì các nhà quản lý doanh nghiệp cũng có thể căn cứ vào đó để tìm ra các hướng làm giảm đến mức tối thiểu nhu cầu đó. Do đó xác định nhu cầu về vốn kinh doanh của doanh nghiệp là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động tài chính trong các công ty cổ phần.
  13.  Tìm kiếm và huy động nguồn vốn để thỏa mãn một cách tốt nhất nhu cầu về vốn kinh doanh đã xác định. Trong các công ty cổ phần, vốn kinh doanh được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau: vốn góp ban đầu của các cổ đông; vốn vay từ các nguồn ngắn hạn và dài hạn như phát hành trái phiếu công ty, vay tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại...; vốn bổ sung từ lợi nhuận đạt được của quá trình sản xuất - kinh doanh; vốn từ các quỹ được hình thành trong doanh nghiệp như quỹ đầu tư phát triển, quỹ khen thưởng phúc lợi, nguồn vốn xây dựng cơ bản... Căn cứ vào việc phân tích tình hình tài chính, đánh giá thực trạng hoạt động tài chính của doanh nghiệp mình, các nhà quản lý doanh nghiệp sẽ xác định rõ những nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến việc huy động mọi nguồn lực, tài lực, nguồn vốn đã có nhằm luôn luôn đáp ứng mọi nhu cầu về vốn cho mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, đảm bảo sử dụng có hiệu quả số vốn hiện có.  Sử dụng vốn hợp lý, đạt hiệu quả cao nhất trong sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Sau khi đã xác định được nhu cầu về nguồn vốn kinh doanh và huy động được các nguồn vốn cần thiết để đáp ứng nhu cầu đó, doanh nghiệp cần phải sử dụng nguồn vốn đó một cách hợp lý và đạt hiệu quá cao nhất trong sản xuất - kinh doanh nghiệp. Đó chính là một nội dung của hoạt động tài chính trong các công ty cổ phần. Mặt khác, việc sử dụng vốn hợp lý và đạt hiệu quả cao còn được biểu hiện ở chỗ: Phải biết kết hợp hài hòa giữa việc sử dụng tiết kiệm vốn hiện có, vừa đảm bảo cho quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp luôn luôn được tiến hành liên tục, không bị ngừng trệ trong quá trình sản xuất - kinh doanh vì thiếu vốn, thiếu tiền.
  14. 1.2. Phân tích tài chính trong công ty cổ phần. 1.2.1. Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp. Phân tích tài chính doanh nghiệp là một khâu cơ bản trong tài chính doanh nghiệp, có quan hệ chặt chẽ với các hoạt động khác của doanh nghiệp. Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và công cụ cho phép thu thập, xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp, giúp cho người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính, quyết định quản lý phù hợp. Mối quan tâm hàng đầu của các nhà phân tích tài chính là đánh giá rủi ro phá sản tác động tới doanh nghiệp mà biểu hiện của nó là khả năng thanh toán, đánh giá khả năng cân đối vốn, năng lực hoạt động cũng như khả năng sinh lãi của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, các nhà phân tích tài chính tiếp tục nghiên cứu và đưa ra những dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức doanh lợi nói riêng của doanh nghiệp trong tương lai. Nói cách khác, phân tích tài chính là cơ sở để dự đoán tài chính – một trong các hướng dự đoán của doanh nghiệp. Phân tích tài chính có thể được ứng dụng theo nhiều hướng khác nhau: với mục đích tác nghiệp (chuẩn bị các quyết định nội bộ), với mục đích nghiên cứu, thông tin hoặc theo vị trí của nhà phân tích (trong doanh nghiệp hoặc ngoài doanh nghiệp). 1.2.2. Vai trò và mục tiêu của phân tích tài chính trong các công ty cổ phần. 1.2.2.1.Vai trò của phân tích tài chính trong hệ thống quản lý của các công ty cổ phần. Phân tích tài chính có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác nhau đều bình đẳng trước pháp luật trong việc lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh. Do vậy sẽ có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp như : chủ doanh nghiệp, nhà tài trợ, nhà cung cấp, khách hàng... kể cả các cơ quan Nhà nước và người làm công, mỗi đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp
  15. trên các góc độ khác nhau. Các đối tượng quan tâm đến thông tin về công ty cổ phần có thể được chia thành hai nhóm: nhóm có quyền lợi trực tiếp và nhóm có quyền lợi gián tiếp:  Nhóm có quyền lợi trực tiếp:  Các cổ đông hiện tại và cổ đông tương lai: Trong công ty cổ phần, các cổ đông là người đã bỏ vốn đầu tư vào công ty và họ có thể phải gánh chịu rủi ro. Những rủi ro này liên quan tới việc giảm giá cổ phiếu trên thị trường, dẫn đến nguy cơ phá sản của doanh nghiệp . Chính vì vậy, quyết định của họ đưa ra luôn có sự cân nhắc giữa mức độ rủi ro và doanh lợi đạt được. Vì thế, mối quan tâm hàng đầu của các cổ đông là khả năng tăng trưởng, tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị chủ sở hữu trong công ty cổ phần. Trước hết họ quan tâm tới lĩnh vực đầu tư và nguồn tài trợ. Trên cơ sở phân tích các thông tin về tình hình hoạt động, về kết quả kinh doanh hàng năm, các nhà đầu tư sẽ đánh giá được khả năng sinh lợi và triển vọng phát triển của doanh nghiệp; từ đó đưa ra những quyết định phù hợp. Các nhà đầu tư sẽ chỉ chấp thuận đầu tư vào một dự án nếu ít nhất có một điều kiện là giá trị hiện tại ròng của nó dương. Khi đó lượng tiền của dự án tạo ra sẽ lớn hơn lượng tiền cần thiết để trả nợ và cung cấp một mức lãi suất yêu cầu cho nhà đầu tư. Số tiền vượt quá đó mang lại sự giàu có cho những người sở hữu doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chính sách phân phối cổ tức và cơ cấu nguồn tài trợ của công ty cổ phần cũng là vấn đề được các nhà đầu tư hết sức coi trọng vì nó trực tiếp tác động đến thu nhập của họ. Ta biết rằng thu nhập của cổ đông bao gồm phần cổ tức được chia hàng năm và phần giá trị tăng thêm của cổ phiếu trên thị trường. Một nguồn tài trợ với tỷ trọng nợ và vốn chủ sở hữu hợp lý sẽ tạo đòn bẩy tài chính tích cực vừa giúp doanh nghiệp tăng vốn đầu tư vừa làm tăng giá cổ phiếu và thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS). Hơn nữa các cổ đông chỉ chấp nhận đầu tư mở rộng quy mô doanh nghiệp khi quyền lợi của họ ít nhất không bị ảnh hưởng. Bởi vậy, các yếu tố như tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ có thể dùng để trả lợi tức cổ phần, mức chia lãi trên một cổ phiếu năm trước, sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá
  16. cổ phiếu của doanh nghiệp cũng như hiệu quả của việc tái đầu tư luôn được các nhà đầu tư xem xét trước tiên khi thực hiện phân tích tài chính.  Ngân hàng và các nhà cung cấp tín dụng: Vai trò của phân tích tình hình tài chính công ty cổ phần đối với các ngân hàng và các nhà cung cấp tín dụng là giúp các đối tượng này đánh giá được khả năng trả nợ của doanh nghiệp để từ đó đưa ra quyết định có cho vay hay hưởng các chính sách tín dụng hay không. Họ chú ý đặc biệt đến số lượng tiền và các tài sản khác có thể chuyển nhanh thành tiền, từ đó so sánh với số nợ ngắn hạn để biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng cũng rất quan tâm tới số vốn của chủ sở hữu, bởi vì số vốn này là khoản bảo hiểm cho họ trong trường hợp doanh nghiệp bị rủi ro. Như vậy, kỹ thuật phân tích có thể thay đổi theo bản chất và theo thời hạn của các khoản nợ, nhưng cho dù đó là cho vay dài hạn hay ngắn hạn thì người cho vay đều quan tâm đến cơ cấu tài chính biểu hiện mức độ mạo hiểm của doanh nghiệp đi vay.  Các nhà quản trị doanh nghiệp: Đối tượng này cần các thông tin để kiểm soát và chỉ đạo tình hình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Các thông tin do các báo cáo tài chính cung cấp thường không đáp ứng đủ cho nhu cầu thông tin của họ. Nhằm đáp ứng thông tin cho đối tượng này, các công ty cổ phần cũng như các doanh nghiệp khác thường phải tiến hành các hoạt động nghiên cứu tài chính trong nội bộ doanh nghiệp được gọi là phân tích tài chính nội bộ, khác với phân tích tài chính bên ngoài do nhà phân tích ngoài doanh nghiệp tiến hành. Mục đích của phân tích tài chính nội bộ là cung cấp thông tin phục vụ cho việc quản lý doanh nghiệp và giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp đánh giá tình hình tài chính đã qua, từ đó tiến hành cân đối tài chính, hợp lý hóa các chỉ tiêu về khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, trả nợ, rủi ro tài chính của doanh nghiệp. Bên cạnh đó định hướng các quyết định của ban giám đốc tài chính, quyết định đầu tư, tài trợ, phân tích lợi tức cổ phần. Các thông tin do quá trình phân tích tài chính nội bộ cung cấp chỉ được sử dụng trong nội bộ doanh nghiệp, theo yêu cầu
  17. quản lý của các nhà quản trị mà không được cung cấp cho các đối tượng sử dụng ở bên ngoài.  Cơ quan thuế: Tất cả các tổ chức kinh tế đều phải thực hiện các nghĩa vụ về thuế đối với Nhà nước. Do đó, để các cơ quan thuế có thể xác định được đúng số thuế mà doanh nghiệp phải nộp, việc nghiên cứu hoạt động tài chính có ý nghĩa quan trọng.  Nhóm có quyền lợi gián tiếp:  Các cơ quan quản lý Nhà nước khác ngoài cơ quan thuế: Đối với cơ quan quản lý Nhà nước, qua việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, sẽ đánh giá được năng lực lãnh đạo của Ban giám đốc, từ đó đưa ra các quyết định quản lý vĩ mô nền kinh tế cũng các quyết định đầu tư bổ sung vốn cho các công ty cổ phần mà Nhà nước có nắm giữ cổ phần.  Người lao động trong doanh nghiệp: Bên cạnh các nhà đầu tư, nhà quản lý và các chủ nợ của doanh nghiệp, người được hưởng lương trong các công ty cổ phần cũng rất quan tâm tới các thông tin tài chính của của doanh nghiệp. Điều này cũng dễ hiểu bởi kết quả hoạt động của doanh nghiệp có tác động trực tiếp tới tiền lương, khoản thu nhập chính của người lao động. Ngoài ra trong một số công ty cổ phần, người lao động được tham gia góp vốn mua một lượng cổ phần nhất định. Như vậy, họ cũng là những người chủ doanh nghiệp nên có quyền lợi và trách nhiệm gắn với doanh nghiệp.  Các đối thủ cạnh tranh: Trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay, các doanh nghiệp ngoài việc quan tâm đến tình hình tài chính của mình còn cần phải quan tâm đến khả năng sinh lợi, doanh thu cũng như các chỉ tiêu tài chính khác của các đối thủ cạnh tranh với doanh nghiệp mình trong điều kiện có thể để tìm biện pháp cạnh tranh hiệu quả nhất. Do đó, việc phân tích tình hình tài chính các công ty cổ phần cũng có vai trò đối với các đối thủ cạnh tranh của các công ty cổ phần.  Các nhà nghiên cứu, các sinh viên chuyên ngành kinh tế:
  18. Ngoài các đối tượng trên, việc phân tích tình hình tài chính trong các công ty cổ phần còn có vai trò khá quan trọng đối với các nhà nghiên cứu về kinh tế và các sinh viên, học viên trong ngành kinh tế. Các đối tượng này sử dụng các thông tin này để nghiên cứu, phân tích, phục vụ cho những mục đích cụ thể của họ. 1.2.2.2. Mục tiêu chủ yếu của phân tích tài chính trong các công ty cổ phần. Như chúng ta đã biết, mọi hoạt động kinh tế của doanh nghiệp đều nằm trong thể tác động liên hoàn với nhau. Bởi vậy, chỉ có thể phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp mới đánh giá đầy đủ và sâu sắc mọi hoạt động kinh tế trong trạng thái thực của chúng. Trên cơ sở đó, nêu lên một cách tổng hợp về trình độ hoàn thành các mục tiêu, biểu hiện bằng hệ thống chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật – tài chính của doanh nghiệp. Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, các doanh nghiệp đều bình đẳng trước pháp luật trong kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp đều có rất nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của mình như các nhà đầu tư, nhà cho vay, nhà cung cấp, nhà quản trị doanh nghiệp, các cổ đông, người lao động...Mỗi đối tượng này quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên những góc độ khác nhau. Song nhìn chung, họ đều quan tâm đến khả năng tạo ra dòng tiền mặt, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán và mức lợi nhuận tối đa. Bởi vậy phân tích tình hình tài chính và phân tích tình hình tài chính trong các công ty cổ phần nói riêng phải đạt được các mục tiêu sau:  Một là: Phân tích tình hình tài chính phải cung cấp đầy đủ, kịp thời, trung thực hệ thống các thông tin hữu ích cho các nhà đầu tư, các nhà cho vay và những người sử dụng thông tin tài chính khác để giúp họ có những quyết định đúng đắn khi ra các quyết định đầu tư, quyết định cho vay.  Hai là: Phân tích tình hình tài chính phải cung cấp đầy đủ những thông tin quan trọng nhất cho các chủ doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các nhà cho vay và những người sử dụng thông tin khác trong việc đánh giá khả năng và tính chắc chắn của dòng tiền mặt vào ra và tình hình sử dụng có hiệu quả nhất vốn kinh doanh, tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
  19.  Ba là: Phân tích tình hình tài chính phải cung cấp những thông tin về nguồn vốn chủ sở hữu, các khoản nợ, kết quả của quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh nghiệp, sự kiện và các tình huống làm biến đổi các nguồn vốn và các khoản nợ của doanh nghiệp. Trên đây là các mục tiêu chủ yếu của phân tích tài chính trong các công ty cổ phần. Các mục tiêu này có quan hệ mật thiết với nhau, chúng góp phần cung cấp những thông tin nền tảng đặc biệt quan trọng cho bộ phận quản trị ở các công ty cổ phần, giúp cho quản trị doanh nghiệp khắc phục được những thiếu sót, phát huy những mặt tích cực và dự đoán được tình hình phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Trên cơ sở đó, quản trị doanh nghiệp đề ra được những giải pháp hữu hiệu nhằm lựa chọn quyết định phương án tối ưu cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 1.2.3. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp. Phân tích tài chính có mục tiêu đưa ra những dự báo tài chính giúp cho việc ra quyết định về mặt tài chính và giúp cho việc dự kiến kết quả tương lai của doanh nghiệp nên thông tin sử dụng để phân tích tài chính không chỉ giới hạn trong phạm vi nội bộ doanh nghiệp mà còn sử dụng đến các thông tin bên ngoài doanh nghiệp. Tất cả những thông tin đó đều giúp cho các nhà phân tích có thể đưa ra được những nhận xét, kết luận tinh tế và thích đáng, để từ đó có thể có được những quyết định đúng đắn. 1.2.3.1. Thông tin của bản thân công ty cổ phần: Để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của doanh nghiệp thì những thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp được xem là nguồn thông tin quan trọng bậc nhất. Với những đặc trưng hệ thống, đồng nhất và phong phú, kế toán hoạt động như một nhà cung cấp quan trọng những thông tin đáng giá cho phân tích tài chính. Phân tích tình hình tài chính công ty cổ phần được thực hiện trên cơ sở những thông tin về chiến lược, sách lược kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ, những thông tin về tình hình và kết quả sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, tình hình tạo lập, phân phối và sử dụng vốn, tình hình và khả năng thanh toán... Những thông
  20. tin này được thể hiện qua những giải trình của các nhà quản lý, qua các báo cáo tài chính (Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, bảng thuyết minh báo cáo tài chính). 1.2.3.2. Thông tin ngoài doanh nghiệp. Những thông tin liên quan đến doanh nghiệp rất phong phú và đa dạng, khi phân tích tình hình tài chính, các nhà phân tích không chỉ sử dụng những thông tin và giới hạn ở việc nghiên cứu những báo cáo tài chính của một công ty cổ phần, mà phải tập hợp đầy đủ các thông tin bên ngoài liên quan đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, bao gồm các thông tin về tình hình kinh tế vĩ mô; thông tin về các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước; thông tin về ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp... Các thông tin này có tác động mạnh mẽ tới kết quả kinh doanh của công ty cổ phần, chúng có ảnh hưởng lớn đến chiến lược và sách lược kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.  Thông tin kinh tế vĩ mô: Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp cần phải được đặt trong bối cảnh chung của nền kinh tế trong nước, trong khu vực và Thế giới. Do đó, cần phải xem xét, kết hợp những thông tin về tình hình nền kinh tế trong quá trình phân tích, có như vậy mới có thể đánh giá được đầy đủ, toàn diện hơn tình hình tài chính của doanh nghiệp. Các thông tin vĩ mô cần được quan tâm bao gồm: tình hình chính trị, môi trường pháp lý, kinh tế có liên quan đến cơ hội kinh tế, cơ hội đầu tư, cơ hội về kỹ thuật – công nghệ, nhịp độ phát triển của các chu kỳ kinh tế, sự tăng trưởng hoặc suy thoái của nền kinh tế, độ lớn của thị trường, lãi suất ngân hàng, tỷ giá hối đoái, lạm phát....  Thông tin về các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước: Các chính sách kinh tế của Nhà nước có tác động mạnh mẽ đối với hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và tình hình tài chính nói riêng từ khi doanh nghiệp được thành lập và đi vào hoạt động. Chỉ cần một sự thay đổi nhỏ trong các chính sách quản lý, điều hành nền kinh tế của Nhà nước cũng đã tạo ra những biến đổi lớn trong hoạt động của doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải có
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2