LUẬN VĂN: Quá trình đổi mới hoạt động của các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam
lượt xem 14
download
Sự chuyển đổi từ một nền kinh tế hành chính tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo nên một bước ngoặt lớn trong tiến trình phát triển nền kinh tế đất nước. Kỷ nguyên đổi mới kinh tế đã hình thành nên nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Với sự đa dạng hoá các loại hình sản xuất kinh doanh, cùng với sự chuyển biến mạnh mẽ về chất càng làm nền kinh tế phát triển một...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Quá trình đổi mới hoạt động của các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam
- LUẬN VĂN: Quá trình đổi mới hoạt động của các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam
- Mở đầu Sự chuyển đổi từ một nền kinh tế hành chính tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo nên một bước ngoặt lớn trong tiến trình phát triển nền kinh tế đất nước. Kỷ nguyên đổi mới kinh tế đã hình thành nên nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Với sự đa dạng hoá các loại hình sản xuất kinh doanh, cùng với sự chuyển biến mạnh mẽ về chất càng làm nền kinh tế phát triển một cách sôi động. Cùng với sự nghiệp đổi mới Đất nước, sự nghiệp đổi mới ngân hàng cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể. Nhất là từ sau khi Pháp lệnh Ngân hàng ra đời, hoạt động ngân hàng khá toàn diện và tiến bộ ở tầm pháp lý cao hơn trước, bao quát được vấn đề cốt lõi về tổ chức và hoạt động ngân hàng. Xuất phát từ đòi hỏi bức thiết của nền kinh tế thị trường trong điều kiện mở cửa, việc phát triển các loại hình dịch vụ trong hoạt động ngân hàng của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam là yêu cầu không thể thiếu để hội nhập với nền kinh tế thế giới. Nhận thức được yêu cầu đó, đề tài lần này mà em chọn lựa cho tiểu luận bộ môn Lý thuyết tiền tệ là: "Quá trình đổi mới hoạt động của các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam".
- Chương I Một số lý thuyết cơ bản về hoạt động của Ngân hàng Thương mại. 1. Vài nét về quá trình hình thành và phát triển hoạt động của Ngân hàng thương mại: Ngân hàng ra đời và phát triển là kết quả của sự phát triển sản xuất, trao đổi hàng hoá, là kết quả của sự phân công lao động xã hội và nó luôn gắn liền với sự vận động của tiền tệ. Tiền thân của nghề ngân hàng chính là nghề kim hoàn có từ thế kỷ XIV. Đó là khi lưu thông tiền đúc bắt đầu phát triển mạnh và nghề kim hoàn ra đời với nhiêm vụ chính là cân và thử tiền. Cùng với sự phát triển của trao đổi lưu thông hàng hoá thì khối lượng tiền tệ trong lưu thông ngày một lớn, các thương gia, điền chủ tích luỹ được khối lượng tiền, vàng ngày một nhiều. Vậy là từ việc chỉ cân và thử tiền, người thợ kim hoàn bắt đầu đổi và bảo quản tiền tệ cũng như tài sản. Lúc này, họ có thêm một chức năng mới-cũng là nhiệm vụ đầu tiên của nghề ngân hàng - là "người thủ quỹ của xã hội". Thế nhưng, đối với họ, tất cả những dịch vụ đó chỉ đem một khoản phí rất thấp, cho nên, để tăng thêm thu nhập, họ kiêm luôn việc thanh toán hộ. Hoạt động này phát triển, nhà kim hoàn liên tục thực hiện thanh toán cho khách hàng, và trong quỹ của họ bao giờ cũng có một số dư nhất định vì ngoài những khoản xuất ra họ còn thu vào nữa, bởi vậy họ đã nghĩ đến việc đem số dư đó cho vay. Chính hành vi này đã đem đến cho nhà kim hoàn những khoản lợi nhuận rất lớn nên câu hỏi đầu tiên được đặt ra đối với họ lúc này là làm sao để mở rộng được dịch vụ cho vay? Dĩ nhiên là muốn có đầu ra phải có đầu vào mà đầu vào của hoạt động cho vay chính là nhận tiền gửi. Thế là từ việc thu phí cho hoạt động thanh toán hộ, họ đã đi từ miễn phí đến trả lãi cho các khoản tiền gửi. Nhờ vậy, những người thợ kim hoàn đã tập trung vào tay mình dược rất nhiều nguồn vốn trong xã hội. Và Ngân hàng thương mại bước đầu xuất hiện.
- Lúc đầu, các ngân hàng chỉ tổ chức lưu thông tiền đúc với số lượng có hạn nên không thể mở rộng dịch vụ cho vay. Vậy nên để làm dược việc này họ bắt đầu nghĩ ra tiền giấy. Buổi sơ khai, tiền giấy chỉ là những giấy chứng nhận mà khi cầm tờ giấy này, người sở hữu có thể đổi ra tiền đúc bất cứ lúc nào tại ngân hàng phát hành ra nó. Sau này, nó được gọi là tiền ngân hàng tư nhân vì mỗi ngân hàng phát hành một loại giấy chứng nhận khác nhau. Bởi vậy mà song song với hàng loạt các ngân hàng là hàng loạt các loại tiền giấy khác nhau. Điều này buộc người trao đổi tiến hành lựa chọn. Kết quả của sự chọn lựa đó là có một số loại tiền của một số ngân hàng tư nhân bị từ chối thanh toán bởi lẽ phạm vi lưu thông của mỗi đồng tiền được quy định bằng uy tín, tiềm lực kinh tế của ngân hàng phát hành ra nó. Điều này gây cản trở và khó khăn rất nhiều cho lĩnh vực lưu thông tiền tệ cũng như toàn bộ nền kinh tế. Từ cuối thế kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XIX, do sự tác động mạnh mẽ của cạnh tranh, việc phát hành dần tập trung vào một số ngân hàng lớn và các ngân hàng này trở thành ngân hàng phát hành, được các đạo luật của Nhà nước hợp pháp hoá độc quyền phát hành tiền. Đến đây, hệ thống ngân hàng đã được chuyên môn hoá thành ngân hàng phát hành và ngân hàng chuyên doanh. Các ngân hàng chuyên doanh cũng được phân công lao động sâu sắc trong từng lĩnh vực như Ngân hàng Công nghiệp, Ngân hàng Thương nghiệp, v...v... Từ cuối thế kỷ XIX cho đến nay, các ngân hàng phát hành trở thành các Ngân hàng trung ương do có sự can thiệp của Nhà nước bằng biện pháp quốc hữu hoá hoặc hợp nhất, các ngân hàng chyên doanh trở thành Ngân hàng thương mại hoạt động theo hai xu hướng, hoặc chuyên doanh theo từng lĩnh vực hoặc hoạt động kinh doanh đa năng. Cho đến ngày nay, hoạt động của các ngân hàng thương mại đã tiến một bước khá xa so với hoạt động của các ngân hàng cổ truyền ở những thế kỷ trước, nó mang đậm nét của thời đại bùng nổ thông tin và khoa học công nghệ. Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng diễn ra ngày càng khốc liệt, gay gắt. Để có thể tồn tại và đứng vững, các ngân hàng thương mại buộc phải ngày nâng cao chất lượng sản phẩm và chú trọng thoả
- mãn mọi nhu cầu tài chính của khách hàng. Sự tiến bộ ấy đã tạo nên một nền công nghiệp ngân hàng hoàn chỉnh. Một số hoạt động phổ biến của hệ thống ngân hàng thương mại là: - Nhận tiền gửi và tiền tiết kiệm. - Cho vay đối với các tổ chức và các cá nhân. - Chuyển tiền và quản lý các công cụ thanh toán. - Dịch vụ đối ngoại. - Các dịch vụ khác. Với việc thực hiện các nhiệm vụ của mình, ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường hiện nay có thể coi là một doanh nghiệp bởi vì các ngân hàng thương mại cũng thực hiện kinh doanh để kiếm lời như các doanh nghiệp khác. Nhưng xét về bản chất các hoạt động dịch vụ ngân hàng thì thấy rằng ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt. Các "sản phẩm" mà ngân hàng thương mại cung ứng được chế biến từ "nguyên liệu chính" là tiền với công nghệ đặc biệt là tiền tạo ra tiền (T' > T). Chúng giống những sản phẩm thông thường ở chỗ không ngừng cải tiến về mẫu mã, quy cách, chất lượng để tạo ra sự đa dạng, hấp dẫn, phù hợp với thị hiếu, nhu cầu sử dụng và túi tiền của khách hàng. Trên cơ sở đó, các dịch vụ chính của một ngân hàng thương mại là: - Dịch vụ cung cấp "nguyên liệu chính" cho công nghiệp ngân hàng-dịch vụ nhận tiền gửi. - Dịch vụ cung cấp phương tiện thanh toán làm tăng khả năng luân chuyển vốn. - Các dịch vụ hỗ trợ khác.
- 2. Hoạt động thực hiện các chức năng của ngân hàng thương mại và vai trò của các hoạt động đó: 2.1/ Đối với nền kinh tế: Trong nền kinh tế hàng hoá, các doanh nghiệp, các nhà sản xuất là người bán đồng thời cũng là người mua. Họ mua nguyên vật liệu, sức lao động, nhà xưởng, máy móc, công nghệ... để tiến hành sản xuất kinh doanh và họ bán sản phẩm tạo ra sau quá trình sản xuất đó để thu lợi nhuận. Quy trình đó được lặp đi lặp lại và nguồn vốn dược quay vòng từ chủ thể này sang chủ thể khác. Vì vậy, trong quan hệ kinh doanh, tất yếu các doanh nghiệp phải thực hiện thanh toán với nhau về các khoản mua bán hàng hoá- dịch vụ. Các cá nhân cũng vậy, mỗi người đều có những nhu cầu về ăn, mặc, ở, đi lại, học hành..., họ cần phải thực hiện chi trả hay thanh toán cho các nhu cầu đó. Thế nhưng, không phải lúc nào việc thanh toán trực tiếp giữa các chủ thể cũng diễn ra dễ dàng và thuận lợi bởi lẽ việc mua bán không còn dừng lại ở mớ rau hay con cá nữa mà nó là những khoản thanh toán lớn hơn rất nhiều. Và người ta cũng không thể dự trữ một số tiền quá lớn như thế ở trong nhà để chờ đợi một cơ hội mua thích hợp. Vì vậy, ngân hàng ra đời với nhiệm vụ đầu tiên là cung cấp và quản lý vốn, đồng thời thực hiện thanh toán hộ các khoản giao dịch cho khách hàng. Khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì tần số giao dịch ngày càng tăng nhanh, khối lượng tiền tệ ngày một lớn, phạm vi kinh doanh ngày càng mở rộng. Trong điều kiện đó, các doanh nghiệp hay các cá nhân không thể tự thanh toán trực tiếp với nhau được mà cần có sự tham gia của các ngân hàng trong nước và quốc tế. Bởi vậy, Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán cho nền kinh tế. Mặt khác, theo đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình tuần hoàn vốn xã hội đã phát sinh hiện tượng cùng lúc có những chủ thể có vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi (như tiền bán hàng của các doanh nghiệp nhưng chưa mua nguyên vật liệu, tiền trích khấu hao chưa sử dụng, tiền lương chưa đến kỳ trả...) và có những chủ thể có nhu cầu cần bổ sung vốn trong một thời gian ngắn (như doanh nghiệp cần mua nguyên vật liệu nhưng chưa bán được sản phẩm, cần sửa chữa hoặc mua sắm tài sản cố định nhưng
- nguồn tích luỹ và khấu hao chưa đủ, cá nhân cần tiền cho nhu cầu mua sắm tài sản có giá trị nhưng tiền tích luỹ còn hạn chế...). Ngân hàng thương mại đã giải quyết mâu thuẫn này bằng cách đứng ra làm trung gian tín dụng để chuyển dịch vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn. Nhiệm vụ của ngân hàng là nhận tiền gửi và đem tiền gửi đó đáp ứng những nhu cầu về vốn cho nền kinh tế. Hoạt động này đã làm tăng hiệu quả sử dụng vốn của toàn bộ nền kinh tế, cụ thể là trên cơ sở nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các cá nhân, ngân hàng có điều kiện thực hiện điều hoà vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn, làm cho vốn được sử dụng hiệu quả và triệt để hơn, tận dụng tốt hơn những nguồn lực sẵn có về vốn. Đồng thời, việc sử dụng vốn triệt để sẽ làm giảm hao phí sản xuất và lưu thông tiền tệ, tiết kiệm chi phí xã hội. Hơn thế nữa, từ nhưng nguồn vốn nhỏ, lẻ tẻ, ngân hàng có thể tập trung thành những nguồn vốn lớn cung cấp cho các doanh nghiệp thưc hiện tái sản xuất mở rộng, thúc đẩy quá trình sản xuất, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo thêm việc làm, tăng sản lượng và giảm nhập khẩu hàng hoá. Chức năng trung gian thanh toán cũng được thực hiện trên cơ sở chức năng trung gian tín dụng bởi vì thông qua việc nhận tiền gửi, ngân hàng đã mở cho khách hàng một tài khoản để theo dõi các khoản thu - chi và đó chính là tiền đề cho chức năng trung gian tín dụng của ngân hàng. Mặt khác, với phương thức thanh toán trực tiếp, chủ thể sử dụng vốn phải chịu nhiều lãng phí như: vốn nhàn rỗi trước khi thanh toán không được sử dụng, phải chi phí nhiều khoản về kho quỹ, bảo quản, sổ sách kế toán, vận chuyển, đếm nhận... Nhưng nhờ có hoạt động của ngân hàng mà quy mô thanh toán trực tiếp ngày càng bị thu hẹp, nhường chỗ cho quá trình phát triển không giới hạn của các nghiệp vụ thanh toán gián tiếp qua ngân hàng. Khi thực hiện thanh toán qua ngân hàng, họ không còn phải giữ tiền trong túi hay chịu những khoản chi phí trên nữa. Ngược lại, họ còn được hưởng một khoản lợi, dù nhỏ bé, từ nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của mình, lại có thể thực hện thanh toán một cách an toàn, nhanh chóng, tiết kiệm. Như vậy, chức năng này đã góp một phần công sức to lớn vào việc thúc đẩy lưu
- thông hàng hoá, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ luân chuyển vốn do đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Sự kết hợp giữa hai chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán là cơ sở để ngân hàng thương mại thực hiện chức năng thứ ba - chức năng tạo tiền gửi thanh toán. Với chức năng này, hệ thống ngân hàng thương mại đã làm tăng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả xã hội. Thông qua chức năng làm trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng vốn huy động được để cho vay, khoản vay đó được khách hàng sử dụng để mua hàng hoá dịch vụ. Và chỉ khi thực hiện cho vay, ngân hàng mới bắt đầu tạo tiền. Tuy vậy, để tạo ra tiền gửi thanh toán, ngân hàng phải làm được chức năng trung gian thanh toán thì số tiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng mới là một bộ phận của lượng tiền giao dịch. Do vậy, khái niệm về "tiền", "tiền giao dịch" không chỉ là giấy bạc do ngân hàng trung ương của mỗi nước phát hành ra mà bộ phận quan trọng là lượng tiền ghi sổ do các ngân hàng thương mại tạo ra. Ngày nay, do thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, các ngân hàng đã và đang ứng dụng những kỹ thuật hiện đại, tiên tiến vào hoạt động nhằm mục tiêu phục vụ tốt nhất khách hàng của mình. Theo đó, các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt lần lượt ra đời từ những công cụ cổ truyền như séc thanh toán cho đến các công cụ hiện đại như thẻ thanh toán. Việc sử dụng các công cụ thanh toán này đã làm giảm chi phí lưu thông tiền mặt, đồng thời góp phần tiết kiệm chi phí xã hội. Với việc luôn đổi mới và ứng dụng công nghệ cao trong thanh toán, các ngân hàng ngày càng có thể cho hàng triệu khách hàng các dịch vụ hiệu quả nhất với giá cả hợp lý nhất. Họ thực hiện môi giới, đại lý cho các cá nhân, các tổ chức kinh tế trên thị trường chứng khoán, thực hiện các dịch vụ về thông tin tư vấn cho khách hàng và các dịch vụ khác, giúp cho các khách hàng của mình trong việc quản lý tài sản, tài chính một cách có lợi nhất. Hơn thế, với tư cách là một cơ quan chuyên trách, chuyên kinh doanh về lĩnh vực tiền tệ và tín dụng, các ngân hàng thương mại hoạt động như một "chất bôi trơn", dẫn vốn từ kênh tiết kiệm đến kênh đầu tư trên thị trường tài chính, giải quyết
- mọi mối quan hệ về cung-cầu tiền tệ, góp phần ổn định nền kinh tế, đảm bảo cho thị trường tài chính hoạt động nhịp nhàng, trôi chảy và hữu hiệu, giúp cải thiện đời sống kinh tế cho mỗi cá nhân trong xã hội. 2.2/ Đối với ngân hàng: Nếu như đối với nền kinh tế, ngân hàng là người đi vay và cho vay, là người dảm bảo lợi ích của tất cả các chủ thể thì với chính bản thân mình, ngân hàng cũng tìm kiếm được những nguồn lợi không nhỏ. Nguồn lợi ở đây không chỉ dừng lại ở lợi nhuận mà nó còn ở rất nhiều khía cạnh khác nữa. Đó là việc mở rộng thị trường, phân tán rủi ro, khai thác tiềm năng v...v. Nhưng có lẽ khía cạnh đầu tiên cần nói đến không gì khác vẫn là lợi nhuận bởi lẽ ngân hàng chẳng qua cũng chỉ là một doanh nghiệp mà mục đích hàng đầu của mọi doanh nghiệp luôn là kinh doanh để kiếm lời. Cũng giống như tất cả các tổ chức kinh doanh khác, một ngân hàng khi có số lượng khách ngày một nhiều nghĩa là doanh thu của họ ngày một tăng. Doanh thu tăng lên sẽ giúp ngân hàng tập trung được nguồn vốn to lớn thông qua tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi thanh toán để ngân hàng có điều kiện mở rộng quy mô tín dụng-là hoạt động trọng tâm của ngân hàng. Qua đó, lợi nhuận của ngân hàng tăng lên rõ rệt. Hơn nữa, việc phát triển các loại hình dịch vụ ngày một đa dạng mà đặc biệt là những dịch vụ hỗ trợ như môi giới, đại lý chứng khoán, tư vấn, thông tin, bảo quản, ký gửi... sẽ tạo điều kiện cho khách hàng có những mối quan hệ khách hàng lâu dài, bền vững. Đây là điều mà một ngân hàng thương mại dặc biệt quan tâm bởi điều đó quyết địnhphần lớn sự thành công của hoạt động ngân hàng. Cho nên, mục tiêu của các ngân hàng thương mại luôn là làm sao để khai thác và mở rộng các khoảng trống trên thị trường, phát triển các mối quan hệ với những khách hàng đã, đang và sẽ có. Thực hiện được tốt các chức năng của mình, một ngân hàng còn có khả năng để phân tán mọi rủi ro. Có thể nói, hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng là hoạt động gặp rủi ro nhiều nhất bởi mọi biến động trên các thị trường đều liên quan đến tiền tệ. Có một số loại rủi ro ngân hàng thường gặp như rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro
- hệ thống, rủi ro chính sách, rủi ro môi trường... Trong đó rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá là hiện tượng thường gặp nhất đối với ngân hàng bởi trong cơ chế thị trường, lãi suất và tỷ giá luôn biến động. Nhưng không chỉ có vậy, có nhiều loại rủi ro không phải do bản thân ngân hàng hay hệ thống ngân hàng tự gây nên. Rủi ro nhiều khi phát sinh từ những biến động trong đời sống kinh tế-xã hội của một quốc gia, một khu vực hoặc trên thế giới như sự thay đổi về chính sách thuế, ngoại thương v...v. Nhưng đáng lo ngại nhất là rủi ro hệ thống. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, một hoặc một số tổ chức tài chính bị phá sản, lây lan đến toàn bộ hệ thống tài chính mà trong đó ngân hàng nằm ở vị trí trung tâm của phản ứng dây chuyền này. Vốn của khách hàng bị rút khỏi ngân hàng một cách ồ ạt trong khi các khoản nợ chưa thu hồi được làm hàng loạt ngân hàng bị mất khả năng thanh toán. Bởi vậy, việc mở rộng về phạm vi và loại hình hoạt động là "phương thuốc" hữu hiệu nhất mà "vị thuốc chính" là lợi nhuận. Lợi nhuận thu được từ các dịch vụ khác nhau, ở những khu vực khác nhau sẽ bổ sung cho nhau khi thị trường biến động. Nó có khả năng giúp hàn gắn những vết rạn và giữ vững sự ổn định cho ngân hàng.
- Chương II Quá trình đổi mới của hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam. 1. Vài nét về hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam: Sau khi pháp lệnh về ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ra đời vào tháng 5/1990, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam được hình thành với tư cách là các pháp nhân thực hiện kinh doanh tiền tệ, cung ứng dịch vụ ngân hàng cho các doanh nghiệp và các thể nhân để thông qua đó tìm kiếm lợi nhuận. Đến nay hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã bao gồm một mạng lưới rộng lớn như sau: - 6 ngân hàng thương mại quốc doanh; - 51 ngân hàng thương mại cổ phần ( gồm 31 ngân hàng cổ phần đô thị và 20 ngân hàng cổ phần nông thôn); - 10 công ty tài chính; - 4 ngân hàng liên doanh; - 25 chi nhánh ngân hàng nước ngoài; - Hệ thống quỹ tín dụng và hợp tác xã tín dụng với 16 quỹ tín dụng khu vực và 966 quỹ tín dụng cơ sở. Các ngân hàng thương mại quốc doanh (bao gồm Ngân hàng ngoại thương, Ngân hàng công thương, Ngân hàng đầu tư và phát triển, Ngân hàng phát triển nông nghiệp và hai ngân hàng mới thành lập là Ngân hàng phục vụ người nghèo và Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long) chủ yếu được cải tổ từ các ngân hàng chuyên doanh cũ thực hiện chức năng kinh doanh với vai trò chủ đạo trong hệ thống. Sau gần 10 năm đổi mới thực sự hạch toán kinh tế và kinh doanh độc lập, các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam đã phát triển và lớn mạnh không ngừng,
- doanh số hoạt động chiếm 85% hoạt động ngân hàng trong cả nước và có đủ sức mạnh để cạnh tranh với ngân hàng nước ngoài có mặt ở Việt Nam, nâng cao được uy tín với bạn hàng trong nước và quốc tế. Quán triệt nguyên tắc đa dạng hoá và đa phương hoá hoạt động, các ngân hàng thương mại quốc doanh đã mở rộng tín dụng cho mọi thành phần kinh tế, tín dụng không chỉ dành riêng cho khu vực kinh tế quốc doanh mà còn được thực hiện cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và dân cư, các loại cho vay cũng được cơ cấu lại một cách hợp lí, các hình thức huy động vốn có nhiều thay đổi, từ đó mà khối lượng và chất lượng tín dụng tăng lên đáng kể, tỷ lệ nợ quá hạn giảm đi rõ rệt. Một số các dịch vụ mới đã bước đầu phát triển như thanh toán quốc tế, dịch vụ kiều hối, dịch vụ uỷ thác đầu tư, tài trợ xuất nhập khẩu... đóng góp một nguồn thu đáng kể trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Ngoài ra các ngân hàng còn chú trọng mở mang quan hệ với quốc tế bằng việc nhận làm đại lí cho các ngân hàng nưóc ngoài, đặc biệt, Ngân hàng ngoại thương còn mở một công ty tài chính tại Hồng Kông và một số văn phòng đại diện tại các nước trên thế giới. Song song với việc đổi mới và mở rộng các nghiệp vụ kinh doanh có hiệu quả, các Ngân hàng thương mại quốc doanh đã dành vốn tích luỹ để đầu tư đáng kể cho cơ sở vật chất kĩ thuật nhằm đổi mới bộ mặt của một ngân hàng thương mại. Các ngân hàng đã tích cực ứng dụng khoa học kĩ thuật hiện đại vào các hoạt động mở đầu bằng việc đưa hàng ngàn máy tính vào ứng dụng để thu thập, khai thác, xử lí, truyền dẫn, lưu trữ thông tin, dữ liệu, các phần mềm ứng dụng do các ngân hàng tự thiết lập được chạy trên các hệ thống trong mạng vi tính của ngân hàng. Sự xuất hiện của các loại thẻ nhựa như Visa, Mastercard... đã tạo thêm công cụ thanh toán mới trong nền kinh tế. Việc ứng dụng công nghệ mới vào hoạt động đã bước đầu phát huy được hiệu quả không những giúp được cho ngân hàng nhanh chóng hội nhập với các ngân hàng trên thế giới mà còn có tác dụng tích cực đối với nền kinh tế. Những hoạt động trên đã mang đến cho các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam một diện mạo mới, một sắc thái mới hết sức khả quan trong giai đoạn khởi
- đầu của thế kỉ 21. Có được ngày hôm nay, trước hết phải kể đến sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước, thứ đến là sự nỗ lực của toàn thể cán bộ tại các ngân hàng thương mại quốc doanh. Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam đã thực hiện cải tổ bộ máy theo hướng gọn nhẹ, xoá bỏ cấp quản lí trung gian gắn với địa dư hành chính tỉnh, thành phố, thực hiện mô hình quản lí tập trung thống nhất từ một trung tâm chỉ huy với hội sở chính tại Trung ương thực hiện hai chức năng là quản lí, chỉ đạo hoạt động toàn hệ thống và thực hiện nhiệm vụ kinh doanh. Đội ngũ cán bộ đã được sắp xếp lại và được trang bị những kiến thức phù hợp với cơ chế mới thể hiện qua các lớp đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ. Qua đó, trình độ và phong cách của một cán bộ ngân hàng được nâng lên rõ rệt. Nhìn lại chặng đường hơn 10 năm (từ 1990 đến nay), có thể thấy rằng các ngân hàng thương mại quốc doanh cùng với toàn bộ hệ thống ngân hàng đã góp một phần to lớn trên con đường đổi mới nền kinh tế. Đó là: góp phần kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 2. Hoạt động cung cấp dịch vụ của các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam hiện nay: Qua những trình bày trên có thể thấy rằng hoạt động của các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam đã khởi sắc hơn so với trước đây rất nhiều. Tuy nhiên, họ chỉ tập trung vào hai loại dịch vụ chính là dịch vụ nhận tiền gửi và dịch vụ thanh toán, các dịch vụ khác hầu như không đáng kể. Sau đây ta sẽ tập trung vào nghiên cứu thực trạng hoạt động ở các ngân hàng thương mại quốc doanh qua hai dịch vụ chủ yếu này. 2.1/ Dịch vụ nhận tiền gửi của khách hàng : Trước đây, khi pháp lệnh ngân hàng chưa ra đời, việc nhận tiền gửi của khách chỉ bó hẹp trong hai loại là tiền gửi các tổ chức kinh tế và tiền gửi tiết kiệm. Ngày nay,
- các hình thức và công cụ huy động vốn của các tổ chức tín dụng đã không ngừng được cải tiến và ra đời thêm một số công cụ huy động vốn mới, đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng của nền kinh tế. Các công cụ đó là: * Kỳ phiếu ngân hàng có mục đích: Là một công cụ huy động vốn ngắn hạn rất linh hoạt của các ngân hàng thương mại tuỳ theo yêu cầu đầu tư vốn tín dụng của từng thời kì hoặc từng dự án đối với khách hàng. Lãi suất huy động vốn cũng linh hoạt theo yêu cầu đầu tư vốn của dự án cho vay. Đây là một công cụ thích hợp đối với ngân hàng và được công chúng ưa dùng nên trong những năm qua, các ngân hàng thương mại sử dụng phổ biến loại này. Kì phiếu ngân hàng là loại công cụ phát hành bằng chứng chỉ nên còn có tác dụng dùng để cầm cố vay vốn, chiết khấu và mua bán trên thị trường, nhưng việc mua bán loại này chưa phổ biến do nước ta chưa có thị trường mua bán chứng từ có giá - chưa hình thành thị trường thứ cấp các công cụ nợ. * Trái phiếu ngân hàng thương mại: Là công cụ để huy động vốn dài hạn dùng cho đầu tư các dự án vay vốn trung và dài hạn. Năm 1994, công cụ huy động vốn này mới được ra đời, các ngân hàng thương mại và nhất là Ngân hàng Đầu tư và phát triển đã sử dụng công cụ này để thu hút tiền gửi và đạt được một số kết quả nhất định. Cụ thể: từ ngày 6/12/1994, Ngân hàng Đầu tư và phát triển phát hành trái phiếu, dự kiến thực hiện đến ngày 20/12/1994, nhưng chưa đầy 2 tuần đã hoàn thành gấp đôi chỉ tiêu đạt được 200 tỉ VND và gần 1 triệu USD. Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam dự kiến phát hành trái phiếu từ ngày 5 đến 30/11/1994 nhưng cũng phải ngừng trước thời hạn vì đã hoàn thành chỉ tiêu 500 tỉ đồng. Điều đó chứng tỏ rằng với lãi suất hấp dẫn, hình thức huy động vốn đa dạng, việc tổ chức hợp lí thì ngành ngân hàng có thể huy động được số lượng vốn rất lớn còn tiềm ẩn trong nhân dân để đầu tư cho các nhu cầu của nền kinh tế. * Tiết kiệm xây dựng nhà ở: Là hình thức huy động vốn dài hạn gắn liền với việc cho vay có mục đích là cải tạo và xây dựng nhà ở của nhân dân theo phương thức hợp đồng giữa người gửi và ngân hàng. Theo phương thức huy dộng vốn này thì nhiều người gửi cũng là người vay vốn, người có nhu cầu dự định xây dựng và cải tạo nhà ở
- trong tương lai thì phải kí hợp đồng gửi tiền tiết kiệm và vay vốn với ngân hàng. Ngân hàng sẽ cho vay tối đa số tiền bằng số tiền đã gửi và lãi suất do hai bên thoả thuận theo khung lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định. Khi thực hiện thí điểm ở Ngân hàng Đầu tư và phát triển (tại Hội sở và một vài chi nhánh), chỉ sau 20 ngày thực hiện, doanh số đã đạt 16 tỉ đồng. Điều đó chứng tỏ người dân đã hưởng ứng kiểu tiết kiệm này. Ngoài ra còn có hình thức huy động tiết kiệm và kì phiếu bằng ngoại tệ và gần đây nhất là hình thức gửi tiền ở một nơi, rút nhiều nơi. Hình thức này đã được thực hiện thí điểm từ tháng 1/1994 ở 7 điểm ( 3 điểm ở Miền Bắc và 4 điểm ở Miền nam). Kết quả bước đầu cho thấy: tổng thu đạt 2,2 tỉ đồng, tổng chi đạt 600 triệu đồng, số dư đạt 1,5 tỷ đồng. Tuy nhiên điều kiện để mở rộng hình thức này đòi hỏi phải có kĩ thuật và phương tiện với mạng lưới các chi nhánh ngân hàng rộng khắp. Đối với tiền gửi tiết kiệm: Nếu như vào thời điểm trước năm 1985, vốn huy động được qua tiết kiệm chỉ chiếm khoảng 4% trong tổng nguồn vốn ngắn hạn của ngân hàng với các hình thức huy động vốn đơn điệu, chủ yếu bằng biện pháp vận động và tuyên truyền, thì nay tiền gửi tiết kiệm không còn là một chính sách để thông qua đó Nhà nước trợ cấp cho các đối tượng chính sách không lao động được nhưng có một ít tiền gửi để hưởng lãi, mà dần theo quan hệ cung cầu giữa người gửi và tổ chức tín dụng. Bởi trong cơ chế thị trường, các ngân hàng thương mại thuộc mọi thành phần kinh tế đều phải thực hiện hạch toán kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về kết quả tài chính và phải bảo toàn vốn của mình, nếu không sẽ đi đến phá sản. Do đó, tiền gửi tiết kiệm từ chỗ là một trong các biện pháp tình thế để ngăn chặn và đẩy lùi lạm phát phi mã với việc lãi suất tiết kiệm được nâng lên rất cao nhằm thu hút lượng tiền thừa quá lớn trong lưu thông, Ngân hàng Nhà nước đã hạ lãi suất tiết kiệm xuống dần cho phù hợp với chỉ số lạm phát, các thể thức tiền gửi tiết kiệm cũng được dần thay đổi từ chỗ chỉ có kì hạn 3 tháng đến chỗ có nhiều kì hạn hơn là 6 tháng, 9 tháng, 1 năm và trên 1 năm.
- Đối với tiền gửi thanh toán : Dịch vụ nhận tiền gửi của khách hàng thông qua mở tài khoản tiền gửi và thanh toán cũng được mở rộng. Trước đây, các ngân hàng thương mại chỉ mở tài khoản tiền gửi và thanh toán cho các đơn vị kinh tế quốc doanh thì nay đã mở rộng ra đa thành phần kinh tế, cho phép mở tài khoản tư nhân và cá nhân ( quyết định số 160/QĐNH2 ngày 19/8/1993). Tính đến cuối năm 1995 đã có hơn 38.000 tài khoản cá nhân được mở tại ngân hàng với số dư lên tới 700 tỷ VND. Công tác thanh toán không dùng tiền mặt được cải tiến không ngừng, đặc biệt là việc hiện đại hoá công nghệ thanh toán làm nguồn vốn tập trung vào ngân hàng ngày một lớn. Bảng 1: Nguồn vốn huy động được qua ngân hàng Đơn vị: tỷ đồng Năm 1995 Năm 1996 Năm 1997 Số dư tiền gửi Tỷ Tỷ Tỷ Số tiền Số tiền Số tiền trọng trọng trọng
- 1- TG các tổ chức KT(không kì 9.666 19,3 14.655 21,9 19.928 23,3 hạn) 37% 52% 36% Tăng so với năm trước 18.822 37,5 24.424 36,8 27.666 32,2 2- TG tiết kiệm 216,4% 30% 13% Tăng so với năm trước 3- Kì phiếu, trái 8.590 17,1 8.408 12,6 11.682 13,6 phiếu Tăng so với năm 30,5% -12% 39% trước 4- TG tiết kiệm 13.063 26,1 19.146 28,7 26.531 30,9 bằng ngoại tệ Tăng so với năm 24% 47% 39% trước Tổng cộng 50.141 66.633 85.807 Tăng so với năm trước 66,7% 32,9% 28,8% Nguồn: Vụ nghiên cứu kinh tế - Ngân hàng trung ương. Nhìn chung, việc cho ra đời nhiều hình thức thu nhận tiền gửi mới với lãi suất và thời hạn linh hoạt của các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam thời gian qua đã thu hút được một khối lượng vốn đáng kể tập trung vào trong tay ngân hàng để đáp ứng nhu cầu về vốn ngày một tăng cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá
- đất nước. Tuy nhiên nhìn nhận một cách khách quan thì hoạt động ngân hàng vẫn chưa đáp ứng được cho nhu cầu phát triển kinh tế. Với mức huy động tăng trung bình như hiện nay (xem bảng 1), các ngân hàng thương mại Việt Nam mới đủ sức đáp ứng khoảng 30% so với nhu cầu đầu tư trong nước và 8% so với nhu cầu đầu tư của toàn xã hội. Trong khi đó, nguồn vốn các ngân hàng thương mại thu hút từ dân cư chỉ chiếm 17% nguồn tiền nhàn rỗi của họ còn lại hầu hết là được dự trữ dưới dạng mua vàng, ngoại tệ hay mua nhà đất và các nhu cầu cải thiện đời sống sinh hoạt. Nguồn vốn của các tổ chức kinh tế cũng vậy, do lãi suất của tiền gửi có kì hạn thấp nên hầu như họ không quan tâm đến việc gửi tiền vào ngân hàng, có chăng chỉ là trả tiền hàng cho các đơn vị có liên quan chứ ít khi họ gửi tiền vào tài khoản tiền gửi để tạo khả năng thanh toán cho chính họ. Bảng 2: Cơ cấu huy động vốn của các NHTMQD 31/12/1997 31/4/1998 Tổng Trong đó Trong đó Tên ngân số Tổng hàng TG các TGTK,T TG các TGTK,T số TCKT G kì TCKT G kì % phiếu% % phiếu% _NHNN&PTN 100 27 73 100 23 77 TVN _NHĐT&PTV 100 30 70 100 33 67 N 100 41 59 100 30 70 _NHCT VN 100 66 24 100 71 29 _NHNT VN
- Điều gì đã dẫn đến tình trạng không khai thác hết được nguồn vốn sẵn có của nền kinh tế để tập trung vào trong tay ngân hàng nhằm đáp ứng cho nhu cầu của nền kinh tế ? Cốt lõi của vấn đề là ở chỗ các hình thức, các công cụ và các phương pháp để thu hút vốn của ngân hàng chưa đa dạng, chưa phong phú và còn nhiều bất cập. Nó được thể hiện ở các mặt sau: - Thứ nhất: Việc mở tài khoản tiền gửi và áp dụng các loại hình tiền gửi tiết kiệm như hiện nay chưa tạo ra được nhiều "tiện ích" cho người gửi tiền. Tiện ích ở đây có thể hiểu là các thuận lợi cho người gửi tiền trong việc được sử dụng các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. - Thứ hai: Các hình thức tiền gửi tiết kiệm hiện nay mới chỉ bó gọn trong các loại tiền gửi có kì hạn và không có kì hạn với việc trả lãi cố định lĩnh theo định kì, trong khi các công cụ cổ phiếu có tác dụng rất to lớn và được đánh giá như một phát minh quan trọng trong lịch sử nhân loại. Hiện nay các ngân hàng thiếu hẳn một công cụ tiền gửi mang tính chất mạo hiểm nhiều hơn, không lấy lãi cố định theo kì, từ đó có thể kích thích người gửi tiền nhận lãi cao hơn so với tiền gửi thông thường. Tính lỏng của các công cụ huy động vốn còn có khoảng cách khá xa so với tiền mặt. Người gửi tiền đặc biệt quan tâm đến tính lỏng của các tài sản của mình vì tiền gửi có kì hạn thường là những khoản tạm thời nhàn rỗi nên khả năng chuyển ra tiền mặt có ý nghĩa quan trọng quyết định đến việc gửi tiền. - Thứ ba: Về lãi suất cũng chưa thật sự ưu đãi cho tiền gửi trung và dài hạn cũng như lãi suất tiền gửi thanh toán quá thấp. Giữa các ngân hàng còn có sự chênh lệch về lãi suất tiền gửi do Ngân hàng Nhà nước chỉ quy định khung lãi suất đối với các ngân hàng thương mại, còn lãi suất cụ thể do các ngân hàng thương mại tự quy định tuỳ thuộc vào nhu cầu huy động vốn của từng thời kì, dẫn đến hiện tượng tiền gửi của dân cư chuyển từ ngân hàng này sang ngân hàng kia mà tổng số vốn huy động được trong nền kinh tế không tăng lên.
- - Thứ tư: Việc tổ chức các nghiệp vụ thu nhận tiền gửi thiếu đồng bộ, khoa học, thủ tục còn rườm rà, phong cách phục vụ kém gây chậm trễ, ách tắc và phiền hà cho người gửi tiền. - Thứ năm: Công tác thanh toán qua ngân hàng còn nhiều hạn chế, các ưu đãi về thanh toán không dùng tiền mặt chưa được rõ ràng, cụ thể, chưa khuyến khích được các doanh nghiệp cũng như các cá nhân thanh toán qua ngân hàng. Cuối cùng, một nguyên nhân không kém phần quan trọng nữa là: Tâm lí ưa thích tiền mặt và thói quen thích tích trữ vàng, ngoại tệ trong dân cư. Điều này do hậu quả của tình trạng khan hiếm tiền mặt trong lưu thông và nạn lạm phát xảy ra vào thời kì trước. Để khắc phục tình trạng trên không thể một sớm một chiều là có thể xoá bỏ được, đòi hỏi các ngân hàng cần đảm bảo uy tín và khả năng phục vụ của mình tạo sự tin tưởng cho khách hàng. Một trong những yếu tố tạo nên sự thiếu lòng tin vào ngân hàng là do sự khó khăn trong việc rút tiền mặt ra khỏi ngân hàng. Hơn nữa, dân chúng Việt Nam chưa có thói quen cũng như thu nhập còn quá thấp để có thể thực hiện thanh toán qua ngân hàng. 2.2/ Dịch vụ thanh toán cho khách hàng : 2.2.1/ Những đổi mới: Sau khi Pháp lệnh ngân hàng ra đời, công tác thanh toán qua ngân hàng đã có chuyển biến rõ rệt. Mở đầu bằng việc ra đời Thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt ban hành kèm theo quyết định số 101/NH - QĐ ngày 30/7/1991 của Ngân hàng Nhà nước là cơ sở pháp lí để tổ chức toàn bộ hoạt động thanh toán qua ngân hàng. Thể lệ này đã đề cập đến nhiều vấn đề như quy định các thể thức thanh toán qua ngân hàng, các phương thức thanh toán giữa các ngân hàng như thanh toán liên ngân hàng trong cùng hệ thống, thanh toán bù trừ, thanh toán từng lần qua tài khoản tiền gửi mở tại Ngân hàng Nhà nước. Chế độ thanh toán không dùng tiền mặt ban hành kèm theo quyết định số 22/QĐ - NH1 ngày 21/2/1994 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã bổ sung thêm hai
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận triết học: Lý luận thực tiễn và sự vận dụng quan điểm đó vào quá trình đổi mới ở Việt Nam
27 p | 3940 | 1035
-
Tiểu luận: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT. SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT NÀY CỦA ĐẢNG TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI VÀ XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC
22 p | 667 | 121
-
Tiểu luận Triết học số 16 - Vấn đề triết học về con người và con người trong quá trình đổi mới hiện nay
21 p | 762 | 106
-
Tiểu luận Triết học số 8 - Lý luận thực tiễn và sự vận dụng quan điểm đó vào quá trình đổi mới ở Việt Nam
28 p | 863 | 105
-
Luận văn: Thực trạng đói nghèo và biện pháp nhằm đẩy mạnh chương trình xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế tại Yên Bái
61 p | 1539 | 96
-
Đề tài “Lý luận thực tiễn và sự vận dụng quan điểm đó vào quá trình đổi mới ở Việt Nam”
26 p | 271 | 82
-
Luận văn: Một số giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của đạo đức tín đồ Công giáo trong quá trình đổi mới của địa phương và của đất nước
71 p | 527 | 81
-
Luận văn: Quá trình đổi mới hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam từ 1986 đến 2002: thành tựu và kinh nghiệm
143 p | 184 | 43
-
Tiểu luận Triết học Mác - Lênin: Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam vào quá trình đổi mới kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay
23 p | 82 | 34
-
Luận văn: "Sự ra đời của hội các nước Đông Nam Á"
29 p | 125 | 33
-
Luận văn: Biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty in nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm trong qua trình đổi mới
70 p | 148 | 29
-
LUẬN VĂN: Quá trình cổ phần hoá của các doanh nghiệp nhà nước ở Việt nam - Thực trạng và giải pháp
13 p | 150 | 26
-
Luận văn: Quá trình bán hàng của đối thủ so với Công Ty Bia Hà Nội
40 p | 143 | 22
-
Luận văn: Đẩy mạnh quá trình đổi mới phương tiện vận tải tại công ty TNHH tiếp vận VINAFCO
75 p | 106 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Quá trình đổi mới tư duy lý luận của đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện nay
110 p | 87 | 17
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Những đóng góp của Nguyễn Minh Châu trong quá trình đổi mới của văn học Việt Nam hiện đại
17 p | 102 | 13
-
LUẬN VĂN:Quá trình đấu tranh củng cố nền độc lập dân tộc của Liên bang
105 p | 97 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý Giáo dục: Quản lí quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở quận 10, thành phố Hồ Chí Minh
138 p | 33 | 10
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn