LUẬN VĂN: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quốc hội trong việc thực hiện chức năng lập pháp
lượt xem 44
download
Đảng lãnh đạo nhà nước là một vấn đề không mới nhưng luôn là nguyên tắc quan trọng trong xã hội đương đại. Nó là một vấn đề cơ bản trong lý luận nhà nước và pháp luật đã được bàn đến từ lâu, nhưng bất cứ giai đoạn nào cũng là vấn đề mang tính thời sự, bởi vì nhận thức và thái độ thực hiện nguyên tắc này có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của nhà nước. Nói cách khác, hiện nay, một hệ thống chính trị mặc dù đa nguyên chính trị...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quốc hội trong việc thực hiện chức năng lập pháp
- LUẬN VĂN: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quốc hội trong việc thực hiện chức năng lập pháp
- M Ở ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đảng lãnh đạo nhà nước là một vấn đề không mới nhưng luôn là nguyên tắc quan trọng trong xã hội đương đại. Nó là một vấn đề cơ bản trong lý luận nhà nước và pháp luật đã được bàn đến từ lâu, nhưng bất cứ giai đoạn nào cũng là vấn đề mang tính thời sự, bởi vì nhận thức và thái độ thực hiện nguyên tắc này có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của nhà nước. Nói cách khác, hiện nay, một hệ thống chính trị mặc dù đa nguyên chính trị hay nhất nguyên chính trị, thì đảng cầm quyền (hay đảng lãnh đạo nhà nước) luôn là một quy luật của sự phát triển. Nhà nước là một thể chế bao gồm các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tức là quyền lực nhà nước bao gồm 3 loại quyền lực cơ bản là lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mỗi quyền lực này có tính độc lập tương đối của nó và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đây là một vấn đề rất lớn, trong phạm vi luận văn này, xin đề cập đến vấn đề "Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quốc hội trong việc thực hiện chức năng lập pháp", với mục tiêu đề xuất được những giải pháp phù hợp để phát huy những thành tựu và khắc phục hạn chế trong hoạt động lập pháp của Quốc hội. Bởi vì, tuy những năm qua, bên cạnh những thành tựu, kết quả đạt được, nhưng bởi những nguyên nhân khác nhau mà hoạt động lập pháp của Quốc hội vẫn còn mang tính hình thức chứ chưa phản ánh đúng bản chất của một cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, một cơ quan đại biểu cao nhất của cả một dân tộc. Điều này làm hạn chế không nhỏ đến hiệu quả hoạt động của Quốc hội nói riêng và bộ máy nhà nước nói chung. Nguyên nhân trực tiếp nhất đó là sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội. Như vậy, vấn đề quan trọng và cấp thiết cần phải giải quyết đó là trong điều kiện Đảng cầm quyền thì làm thế nào để phát huy được vai trò của Quốc hội, bảo đảm tốt cho hoạt động lập pháp của Quốc hội, với tư cách là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN. Sự lãnh đạo của Đảng, theo đó, bảo đảm cho Quốc hội và các đại biểu Quốc hội một mặt thực hiện nghiêm túc nguyên tắc Đảng lãnh đạo, mặt khác thực hiện được nhiệm
- vụ, yêu cầu đại biểu của nhân dân, người thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước trong Quốc hội. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Liên quan đến đề tài này có những công trình nghiên cứu, bài viết như: - "Đảng trong hệ thống chính trị của xã hội XHCN", Nxb APN, Matxcơva - 1987 - "Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị", Nxb Sự thật, Hà Nội - 1991. - "Về phương thức lãnh đạo của Đảng", Tạp chí Xây dựng Đảng số chuyên đề 12- 1995. - "Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng lãnh đạo Nhà nước" của Học viện Hành chính Quốc gia, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 1996. - "Nhận thức về nguyên tắc tập quyền và vài khía cạnh trong vấn đề về quan hệ giữa lập pháp và hành pháp ở nước ta hiện nay". (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số tháng 2/1997). - "Bộ máy Nhà nước ta - 54 năm xây dựng, trưởng thành, đổi mới", (Tạp chí Cộng sản số 17, tháng 9/1999). - "Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới" của Phân viện Đà Nẵng, Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Đà Nẵng - 2000 - "Quyền hành pháp và các chức năng của quyền hành pháp" (Tạp chí Luật học số 6-2000). - "Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Bộ máy Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội- 2001. - "Phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước" của Trần Đình Huỳnh, Nxb Hà Nội- 2001. - "Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình đổi mới đất nước" của Nguyễn Phú Trọng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội-2002. - "Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước" của Lê Đức Bình và Phạm Ngọc Quang (Tạp chí Cộng sản số 19, 7/2003). - "Bản chất của Đảng cầm quyền" của Hoàng Chi Bảo (Tạp chí Cộng sản số 3, tháng 3-2004).
- - "Xây dựng Đảng cầm quyền - kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc", Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội-2004. - "Hoàn thiện nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác Tư pháp" của Trần Đại Hưng (Tạp chí Cộng sản số 21, tháng 11/2004). - "Tìm hiểu vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam" do Đinh Xuân Lý chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội-2005. - "Thể chế Đảng cầm quyền - một số vấn đề lý luận và thực tiễn" do Đặng Đình Tân chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội-2005. - "Đảng lãnh đạo xây dựng nền hành chính Nhà nước Việt Nam trong sạch, dân chủ và hiện đại" của Nguyễn Khánh (Tạp chí Cộng sản số 20, tháng 10/2006). - "Đổi mới và tiếp tục hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng trước yêu cầu phát triển đất nước" của Trương Tấn Sang (Tạp chí Cộng sản số 24, tháng 12/2006). - "Nhận thức các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vị trí, vai trò của Chính phủ trong Nhà nước pháp quyền XHCN" của Trần Thái Dương (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 1/2006). - “Quốc hội Việt Nam trong Nhà nước pháp quyền”, Nguyễn Đăng Dung chủ biên, Nxb đại học quốc gia Hà Nội – 2007. - "Khái niệm văn hoá Pháp luật và quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lê nin về văn hoá Pháp luật" của Nguyễn Văn Mạnh (Thông tin Nhà nước và Pháp luật số 1/2008). - "Lý luận thực hiện Pháp luật trong thời kỳ mới" của Lê Văn Hoè (Thông tin Nhà nước và Pháp luật số 4/2008). Những công trình nghiên cứu trên đã giải quyết được rất nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước dưới những góc độ khác nhau như: Chính trị học, Triết học, Xã hội học, Luật học... nhưng trong những công trình đó, các nhà khoa học thường đề cập đến việc Đảng lãnh đạo cả bộ máy Nhà nước nói chung. Còn việc đi sâu vấn đề Đảng lãnh đạo Quốc hội trong việc thực hiện chức năng lập pháp thì còn mờ nhạt, hoặc nếu đề cập đến hoạt động của Quốc hội thì chỉ chú ý nhiều đến việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội mà ít đi sâu phân tích nguyên tắc Đảng lãnh đạo. Luận văn này cố gắng sử dụng những giá trị đã có từ các công trình trên để tô đậm thêm điều còn mờ nhạt, nhưng rất cần thiết trong tình hình hiện nay.
- 3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận chung và thực tiễn của vấn đề Đảng lãnh đạo Quốc hội trong việc thực hiện chức năng lập pháp. 4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 4.1. Mục đích của luận văn Làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn để khẳng định tính tất yếu của nguyên tắc Đảng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo Quốc hội, vạch rõ mối quan hệ biện chứng giữa quyền lực nhân dân (quyền lực xã hội), quyền lực chính trị (quyền lực của Đảng) và công quyền (quyền lực Nhà nước); đề xuất những giải pháp phù hợp để phát huy những thành tựu và khắc phục những hạn chế trong hoạt động lập pháp của Quốc hội. 4.2. Nhiệm vụ của luận văn - Hệ thống hoá và trình bày rõ ràng những khái niệm, những luận điểm về quyền lực nhân dân, quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, về Đảng lãnh đạo. Từ đó làm sáng tỏ tính tất yếu khách quan của nguyên tắc Đảng lãnh đạo Nhà nước, Quốc hội. - Đánh giá thực trạng sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội, thực trạng về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, phân tích làm rõ những ưu điểm cũng như hạn chế, tồn tại, đề xuất giải pháp bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động lập pháp của Quốc hội. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; theo đúng quan điểm, đường lối của Đảng về tổ và hoạt động của Quốc hội, gắn với thực tiễn vận động phát triển của nhà nước và pháp luật với tư cách là những hiện tượng xã hội tồn tại một cách độc lập tương đối. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu chung của luận văn là phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác-Lênin với quan điểm phát triển, khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể. Phương pháp đó được thực hiện trên góc độ là khoa học pháp lý với những nguyên tắc
- riêng của nó. Những phương pháp cụ thể khác được sử dụng trong luận văn như: Lôgic và Lịch sử, phân tích và tổng hợp, so sánh và chứng minh... 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn - Hệ thống hoá một số khái niệm, luận điểm về nhà nước và pháp luật nhằm vào mục đích cụ thể, đó là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của nguyên tắc Đảng lãnh đạo Quốc hội trong việc thực hiện chức năng lập pháp trước tình hình mới. Việc hệ thống hoá những khái niệm, luận điểm về vấn đề Đảng lãnh đạo Quốc hội thì đã được nhiều công trình khoa học thực hiện, nhưng hệ thống hoá để nhằm vào mục đích làm rõ mối quan hệ giữa Đảng và Quốc hội trong việc thực hiện chức năng lập pháp thì hầu như còn mờ nhạt. Tức là điểm mới của luận văn là ở phạm vi mục đích của nó. - Đây là đề tài nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề Đảng lãnh đạo Quốc hội trong việc thực hiện chức năng lập pháp trên góc độ khoa học Pháp lý. Phần nhiều các công trình khoa học trước đây đánh giá việc thực hiện nguyên tắc này trên những góc độ khác (tuy rằng có liên quan chặt chẽ với khoa học Pháp lý) như: Triết học, khoa học Xây dựng Đảng, Chính trị học...Còn trên góc độ khoa học Pháp lý, vấn đề này thường được xem là một bộ phận của công trình nghiên cứu. 7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn - Bằng cơ sở lý luận và thực tiễn của khoa học Pháp lý, luận văn góp phần khẳng định tính tất yếu khách quan của nguyên tắc Đảng lãnh đạo Quốc hội trong quá trình xây dựng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, làm phong phú thêm những vấn đề lý luận chung về nhà nước và pháp luật, đặc biệt là về hoạt động lập pháp của Quốc hội. Do đó, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cấp uỷ, chính quyền, các đại biểu Quốc hội nghiên cứu tham khảo trong quá trình thực thi nhiệm vụ để góp phần bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động lập pháp của Quốc hội, cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân trong bộ máy nhà nước. Luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho đội ngũ giáo viên nghiên cứu tham khảo vận dụng vào công tác giảng dạy pháp luật. 8. Kết cấu của luận văn
- Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
- Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI QUỐC HỘI TRONG VIỆC THỰC HIỆN CHỨC NĂNG LẬP PHÁP 1.1. Tính tất yếu của sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội trong việc thực hiện chức năng lập pháp 1.1.1. Đảng lãnh đạo Nhà nước - quy luật của sự phát triển 1.1.1.1. Quyền lực chính trị - lực lượng lãnh đạo đối với nhà nước và xã hội. Xã hội loài người phát triển theo quy luật tương tác giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Các-Mác xem đó là ”quá trình lịch sử-tự nhiên” của ”hình thái kinh tế-xã hội”. Cơ sở hạ tầng là toàn bộ các quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng của mỗi xã hội cụ thể, trừ xã hội nguyên thủy, đều bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo trong việc chi phối các quan hệ sản xuất khác, quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế-xã hội. Bởi vậy, cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể được dặc trưng bởi quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội đó. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống cũng có vai trò nhất định. Như vậy, xét trong tổng thể các quan hệ xã hội thì các quan hệ sản xuất hợp thành hạ tầng cơ sở kinh tế của xã hội, trên đó hình thành nên thượng tầng kiến trúc xã hội tương ứng. Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật... cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như đảng phái, nhà nước, hệ thống giáo dục, giáo hội, đoàn thể xã hội... được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định. Mỗi yếu tố trong kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật phát triển riêng, nhưng chúng liên hệ với nhau, tác động qua lại với nhau. Tất cả các yếu tố đều hình thành, phát triển trên cơ sở hạ tầng. Cho nên chúng là sự phản ánh của cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt cấu thành của hình thái kinh tế-xã hội, Chúng thống nhất biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, song, kiến trúc thượng tầng cũng có tác động tích cực trở lại cơ sở hạ tầng.
- Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng ở chỗ mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng phù hợp với nó. Tinh chất của cơ sở hạ tầng quyết định tính chất của kiến trúc thượng tầng. Ví dụ, cơ sở hạ tầng của một xã hội mà quan hệ sản xuất chủ đạo dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thì các yếu tố chinh trị, pháp luật, tôn giáo... xem quyền tư hữu là thiêng liêng bất khả xâm phạm (như trong các nước tư bản chủ nghĩa). Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở chỗ khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. Sự thay đổi đó không chỉ diễn ra khi thay đổi hình thái kinh tế-xã hội này bằng hình thái kinh tế-xã hội khác mà còn diễn ra trong quá trình biến đổi của mỗi một hình thái kinh tế- xã hội. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng thể hiên ở chỗ kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối trong quá trình vận động phát triển và tác động đến sự vận động phát triển của cơ sở hạ tầng. Sự tác động này diễn ra theo hai chiều hướng. Nếu tác động phù hợp với quy luât kinh tế khách quan thì nó là động lực thúc đẩy mạnh mẽ cơ sở hạ tầng kinh tế phát triển, nếu tác động ngược lại sẽ kìm hãm sự phát triển của hạ tầng cơ sở, kìm hãm tiến bộ xã hội. Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có vai trò và cách thức tác động khác nhau đến cơ sở hạ tầng. Trong xã hội có giai cấp, yếu tố nhà nước và pháp luật có tác động mạnh nhất đối với sự thay đổi của cơ sở hạ tầng vì nó là bộ máy quyền lực tập trung của giai cấp thống trị về kinh tế. Các yếu tố khác như đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật... cũng tác động, tuy không trực tiếp nhưng nó ảnh hưởng lâu dài và nó bị chi phối bởi nhà nước và pháp luật. Nhưng nhà nước bao giờ cũng là của một giai cấp (hay một liên minh giai cấp) nhất định giữ địa vị thống trị trong quan hệ kinh tế mà biểu hiện của nó là nhà nước bao giờ cũng do một đảng chính trị (hay một liên minh) lãnh đạo; pháp luật bao giờ cũng là ý chí, đường lối của đảng chính trị được thể chế hóa thành những quy phạm được bảo đảm thực hiện bởi nhà nước. Như vậy, trong phạm vi các yếu tố của kiến trúc thượng tầng, chính trị là yếu tố quyết định. Nói cách khác, quyền lực chính trị là lực lượng lãnh đạo đối với nhà nước và xã hội. Cho nên, sẽ là sai lầm cả về lý luận và thực tiễn khi cho rằng có thể phi chính trị hóa nhà nước hoặc không thừa nhận rằng nhà nước phải do một lực lượng chinh trị lãnh đạo.
- Lực lượng chính trị lãnh đạo nhà nước ở các quốc gia khác nhau có thể có cấu trúc khác nhau, tùy thuộc vào cấu trúc cơ sở hạ tầng của quốc gia đó, tức là nó tùy thuộc vào các quan hệ kinh tế tồn tại ở quốc gia đó. Nó có thể là một đảng chinh trị hay một liên minh nhiều đảng chính trị, điều đó do cơ sở hạ tầng quyết đinh (chứ không phải do ý chí của con người quyết định). Sự tồn tại một đảng hay đa đảng trong lực lượng chính trị lãnh đạo nhà nước là sự phản ánh tương quan lực lượng của các nhóm lợi ích kinh tế khác nhau. Ở Mỹ, các nhà chính trị học thường nhấn mạnh rằng: ”trong một xã hội dân chủ thì một Chính phủ không thể không gắn với đảng chính trị. Đảng phái chính trị là trung tâm sự hiện hữu của chính quyền, đóng vai trò tuyệt đối” [52, tr. 65]Nhiều năm nay tồn tại hai đảng lớn nắm quyền lực chính trị, lãnh đạo Nhà nước và chỉ có những người của hai đảng này nắm giữ những vị trí quan trọng, quyết định trong bộ máy nhà nước. Thực chất hai đảng này chỉ là một liên minh của hai nhóm lợi ích. Một là lực lượng giai cấp tư sản có nguồn gốc là những tập đoàn tư bản tài chính công nghiệp miền Bắc nước Mỹ (Đảng Cộng hoà) thành lập năm 1851; hai là lực lượng giai cấp tư sản có nguồn gốc là những nhà tư sản nông nghiệp miền Nam (Đảng Dân chủ) thành lập năm 1791. Cơ sở hạ tầng làm nảy sinh chế độ lưỡng đảng ở Mỹ chính là sự phân hóa trong nền kinh tế Mỹ thành hai nhóm lợi ích đó. Do tương quan lực lượng, sự cạnh tranh quyền lực giữa hai đảng này đã dẫn đến sự thoả hiệp trong việc nắm giữ quyền lực chính trị. Đa-vít-Cô-lơ, một học giả tư sản nhận định: ”Hai đảng rất giống nhau ở nhiều điểm đến nỗi đôi khi hai đảng được gọi là anh em sinh đôi. Cứ hai năm một lần, hai đảng lại thoả thuận và so tài một trận, mà trong đó cả hai đều được vừa đủ để tránh thiệt hại cho phe thua” [7, tr.227]. Ở Nhật Bản, tồn tại chế độ Phong kiến từ lâu đời. Mặc dù theo truyền thuyết, Vua Nhật Bản là hiện thân của thần thánh, nhưng hiện nay, quyền lực của Vua chỉ mang tính hình thức. Quyền lực chính trị thực sự nằm trong tay Đảng Dân chủ Tự do. Mặc dù Nhật Bản có nhiều đảng phái (như: Đảng Xã hội Nhật Bản, Đảng Công nhân Nhật Bản, Đảng Komeito), nhưng từ khi thành lập vào năm 1955 bằng cách hợp nhất Đảng Tự do và Đảng Dân chủ, Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản đã nắm quyền lãnh đạo nhà nước cho đến ngày nay (trừ giai đoạn 1993 – 1997, đảng này để mất quyền lãnh đạo nhà nước do giới lãnh đạo của Đảng dính vào các vụ bê bối tài chính). Hiện nay, khi nói tới sự lãnh đạo của đảng chính trị đối với bộ máy nhà nước Nhật Bản được người ta hiểu là nói đến sự lãnh đạo của Đảng Dân chủ Tự do. Nhân tố quan
- trọng nhất thúc đẩy sự vận động phát triển quyền lực chính trị ở Nhật Bản không phải là sự cạnh tranh giữa các đảng phái, mà là sự tương tác giữa các phe nhóm lợi ích trong nội bộ Đảng Dân chủ Tự do, nó được phản ánh thành các phe nhóm trong Quốc hội. Sự tương quan và cân bằng quyền lực giữa các phe nhóm lợi ích làm cho hoạt động của Quốc hội nước này luôn có sự thay đổi năng động. Đây là một hiện tượng khá phổ biến trong các nhà nước Nghị viện phương Tây. Ở Liên bang Nga, sau khi Liên Xô tan rã năm 1990, xuất hiện rất nhiều đảng phái đấu tranh để giành quyền lãnh đạo Nhà nước Nga. Về mặt pháp lý, pháp luật ghi nhận cho phép các đảng phái tham gia hoạt động giành quyền lực nhà nước bằng con đường tranh cử. Tuy nhiên sau 10 năm đấu tranh, quyền lãnh đạo nhà nước đã được khẳng định một cách rõ ràng thuộc về ”Đảng Nước Nga thống nhất” khi đảng này được thành lập vào tháng 1/2001 trên cơ sở hợp nhất các tổ chức ”Thống nhất”, ”Tổ quốc”, ”Toàn Nga”, các tổ chức đó là các đảng chinh trị đại diện cho các nhóm lợi ích mà cơ sở hạ tầng hình thành nên chúng là sự phân hóa trong nền kinh tế Nga sau khi Liên xô tan rã, hình thành nhiều nhóm kinh tế có lợi ích đối trọng nhau. Hiện nay, đảng này nắm quyền lực chính trị giữ vai trò quyết định trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước Nga. Xin-ga-po là một trung tâm giao lưu kinh tế của nhiều châu lục và quốc gia trên thế giới nên hình thành rất nhiều nhóm lợi ích, hiện nay có đến 22 đảng phái hoạt động đại diện cho các nhóm lợi ích đó, nhưng duy nhất chỉ có Đảng Nhân dân hành động (PAP) cầm quyền suốt từ 1959 đến nay, bởi vì đảng này là đại biểu của quan hệ kinh tế chủ đạo ở Xin-ga-po, các đảng phái khác hầu như không có vai trò đáng kể trong bộ máy nhà nước. Hiến pháp Xin-ga- po quy định đảng nào chiếm đa số ghế trong Quốc hội sẽ có quyền thành lập Chính phủ. Người đứng đầu của đảng sẽ được bổ nhiệm làm Thủ tướng Chính phủ và có quyền thành lập nội các của mình. Hiện nay, Tổng Bí thư của Đảng là người trực tiếp điều hành cơ quan của Đảng và có vai trò quyết định trong Đảng, đồng thời làm Thủ tướng Chính phủ điều hành cơ quan hành pháp, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội do Đảng đề ra. Như vậy, một nền chính trị đa nguyên, đa đảng không phải là một sáng kiến của ai đó buộc các quốc gia phải làm theo. Nó chẳng qua là sự phản ánh một đặc điểm tồn tại khách quan trong cơ sở hạ tầng của quốc gia đó. Khi cơ sở hạ tầng xuất hiện sự đa dạng của các quan hệ kinh tế thì tất yếu nó sẽ làm chuyển đổi nền chinh trị. Sự chuyển đổi này khi đạt đến độ nhất
- định là tồn tại các nhóm lợi ích khác nhau có thể cân bằng lực lượng thì cho dù nhà nước ở đó có muốn ”độc đảng” cũng không thể được. Tuy nhiên, do cơ sở hạ tầng bao giờ cũng tồn tại một quan hệ kinh tế chủ đạo, chi phối các quan hệ kinh tế khác, nên nền chinh trị bao giờ cũng có một đảng (hoặc một liên minh) mạnh nhất cầm quyền. Ở Việt Nam, xét từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1945, cơ sở hạ tầng là một nền kinh tế dựa trên hai lĩnh vực chủ đạo là nông nghiệp và công nghiệp, nhưng nó mang tính dân tộc sâu sắc vì nó luôn phải đấu tranh chống lại sự chèn ép, đô hộ của nền kinh tế phương tây. Thực tiễn ra đời và suốt chiều dài lịch sử phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng luôn là một liên minh đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, nhân dân lao động và cả dân tộc Việt Nam. Nói cách khác, các nhóm lợi ích của cả dân tộc Việt Nam luôn được liên kết thống nhất trong một Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, sự tồn tại của Đảng với tư cách là một đảng duy nhât lãnh đạo Nhà nước là sự phản ánh đúng đặc điểm của hạ tầng cơ sở kinh tế Việt Nam. 1.1.1.2. Quyền lực nhà nước - phương tiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của đảng đối với nhà nước và xã hội Lãnh đạo là điều khiển người khác hành động theo một định hướng nhất đinh. Nói cách khác, lãnh đạo là thực hiện đường lối, ý chí của mình thông qua người khác. Một trong những đặc trưng của hoạt động lãnh đạo là tính không trực tiếp thưc hiện công việc mà thực hiện thông qua những phương tiện, công cụ nhất định. Người lãnh đạo chỉ thực hiện các chức năng tổ chức, tuyên truyền, giáo dục và kiểm tra, xử lý để giữ vững đường lối, định hướng của mình. Một đảng chính trị muốn lãnh đạo xã hội cũng phải thông qua công cụ, đó là nhà nước. Cho nên, nói đến quyền lực chính trị bao giờ cũng gắn với quyền lực nhà nước, nhưng quyền lực chính trị không thay thế quyền lực nhà nước. Đứng ở góc độ khác nhau người ta có quan niệm khác nhau về nhà nước. Những quan niệm đó có thể nhấn mạnh mặt này hay mặt khác của nhà nước. Việc nhấn mạnh mặt này hay mặt khác của nhà nước đều có nguyên nhân và ý nghĩa thực tế của nó. Cho dù tiếp cận nhà nước ở góc độ nào thì chúng ta cũng thấy rằng nhà nước là một thiết chế xã hội có chức năng thực hiện quyền lực công cộng. Cho dù nhà nước do giai cấp nào lãnh đạo, cho dù trong trong một chính thể nào, thì chức năng thực hiện quyền lực công cộng vẫn là thuộc tính đặc trưng của nhà nước.
- Quyền lực công cộng (hay quyền lực nhà nước) được thể hiện ở chổ nhà nước ban hành pháp luật và có những thiết chế bảo đảm thực hiện pháp luật bằng sức mạnh cưỡng chế của các cơ quan chức năng như toà án, cảnh sát, quân đội... Đặc trưng của quyền lực nhà nước là bằng vào pháp luật mà thực hiện ý chí của nhà nước. Nếu một chủ thể thực hiện ý chí của mình bằng sức mạnh cưỡng chế mà không có pháp luật thì đó không phải là quyền lực nhà nước. Mặt khác, chỉ có nhà nước mới có quyền ban hành pháp luật. Vì pháp luật là những quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo ý chí của giai cấp cầm quyền và được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế, cho nên, giữa quyền lực nhà nước và quyền lực chính trị có những đặc điểm giống nhau, khác nhau và quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Về điểm giống nhau, quyền lực nhà nước và quyền lực chính trị đều là quyền lực và cùng hướng tới mục đích giống nhau, đó là điều chỉnh các quan hệ xã hội theo ý chí của giai cấp cầm quyền. Về điểm khác nhau và mối liên hệ giữa hai loại quyền lực này, chúng ta thấy rằng hai loại quyền lực này luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau. Quyền lực nhà nước chỉ có thể thực hiện được khi thông qua pháp luật, pháp luật thì chỉ hướng đến chân lý, chân lý khách quan là mục đích cao nhất mà pháp luật hướng tới. Chính vì vậy mà pháp luật tạo nên sức mạnh của quyền lực công cộng. Nhưng cũng chính vì thế mà quyền lực công cộng có những hạn chế của nó. Trước toà án, nếu không ai chứng minh được những chứng cứ buộc tội kia là giả dối, thì cho dù thẩm phán biết rõ bị cáo kia vô tội cũng buộc phải tuyên bị cáo là có tội theo những chứng cứ kia. Chính trong những tình huống đó là lúc mà quyền lực chính trị có thể cứu nguy cho cả thẩm phán và bị cáo. Vì sao thẩm phán làm đúng pháp luật mà đôi khi lại không mang lại công lý cho người dân? Triết học Mác-xít đã lý giải điều này rất chính xác. Luận điểm về tính tuyệt đối và tính tương đối của chân lý chỉ ra rằng: chân lý là tuyệt đối đúng chỉ trong một điều kiện thực tiễn nhất định và hoàn cảnh lịch sử cụ thể, bởi vì thực tiễn là thước đo duy nhất đúng đắn của chân lý, mà thực tiễn cũng luôn luôn vận động biến đổi. Đặt chân lý đó trong điều kiện thực tiễn khác và hoàn cảnh lịch sử khác thì có thể không còn đúng nữa.
- Những quy phạm pháp luật là công lý ở quốc gia này nhưng có thể đem đến bất công cho quốc gia khác. Thậm chí trong một quốc gia, pháp luật có thể mang đến công lý cho trường hợp này, nhưng có khi là sự bất công cho trường hợp khác. Luật pháp Mỹ và châu Âu phán xét rằng những nhà xuất khẩu cá da trơn và hàng dệt may Việt Nam bán phá giá hàng hoá. Phán xét đó có thể là công lý ở Mỹ và châu Âu. Nhưng một thực tế hiển nhiên không thể chối cải là phán xét đó đã mang lại bất công to lớn cho hàng ngàn người công nhân lương thiện Việt Nam trong hai ngành sản xuất nói trên. Họ bị thất nghiệp, họ bị trừng phạt vì đã còng lưng lao động với đồng lương thấp kém để làm ra sản phẩm giá rẻ cho người dân Mỹ và châu Âu để rồi phải chịu sự trừng phạt của pháp luật của chính những nơi thụ hưởng thành quả lao động của họ. Trong những trường hợp như thế, quyền lực nhà nước không thể khắc phục được hạn chế của chính bản thân nó. Muốn mang lại công lý cho con người thì đòi hỏi phải có một quyền lực khác có khả năng chi phối quyền lực nhà nước. Đó chính là quyền lực chính trị. Như vậy, sự gắn kết giữa quyền lực nhà nước và quyền lực chính trị là một đòi hỏi khách quan nhằm mang lại công lý cho con người. Nếu quyền lực nhà nước là sức mạnh của lý trí, pháp luật là trí tuệ, nó đòi hỏi chứng cứ và lý lẽ, thì quyền lực chính trị là sức mạnh của trái tim, đường lối chính trị là lương tâm, nó đòi hỏi công bằng và tính nhân bản. Rõ ràng là muốn lãnh đạo xã hội, muốn cai trị đất nước thì không thể chỉ bằng quyền lực chính trị, quyền lực chính trị không thể thay thế quyền lực nhà nước. Quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước phải hoà quyện tương hỗ lẫn nhau (nhưng không phải là một) mới có thể mang lại công lý thật sự cho nhân dân. Sự lãnh đạo của đảng cầ m quyền phải thể hiện sự trong sáng của lương tâm và giàu lòng nhân ái. Hoạt động của nhà nước phải thể hiện sự sáng suốt của trí tuệ và sự mạnh mẽ, hiệu quả của công quyền. 1.1.1.3. Quyền lực nhân dân - yếu tố quyết định một đảng chính trị lãnh đạo nhà nước Một đảng chính trị muốn trở thành lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội phải được nhân dân tín nhiệm, lựa chon. Tức là quyền lực nhân dân mới là yếu tố quyết định đảng nào lãnh đạo nhà nước và xã hội. Bởi vì quyền lực nhân dân là nguồn gốc của
- quyền lực nhà nước và quyền lực chính trị. Một đảng muốn có được quyền lực chính trị phải là đội tiên phong của các giai tầng nhân dân và là đại biểu trung thành lợi ích của nhân dân. Quyền lực nhà nước có được là do mỗi người dân đã nhượng lại một phần quyền tự do cá nhân của mình để tạo nên thiết chế nhà nước theo những quy định của pháp luật. Trong thời đại ngày này, để trở thành lực lượng lãnh đạo, phải thông qua thiết chế bầu cử. Bầu cử là một thiết chế thực hiện quyền lực nhân dân, nó làm cho quyền lực nhân dân trở thành hiện hữu. Ngoài ra, trưng cầu ý dân cũng là một thiết chế thực hiện quyền lực nhân dân trong những điều kiện nhất định. Hiện nay, bầu cử và trưng cầu ý dân được xem là những thiết chế dân chủ cơ bản nhất để thực hiện quyền lực nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân. Thiết chế dân chủ có hai hình thức: dân chủ trực tiếp và đân chủ gián tiếp. Dân chủ trực tiếp là nhân dân trực tiếp bỏ phiếu (hay cho ý kiến) để bầu người (hay cơ quan) trong bộ máy nhà nước. Dân chủ gián tiêp (hay dân chủ đại diện) là nhân dân bầu ra người đại diện cho mình để người này bỏ phiếu (hay cho ý kiến) để bầu người (hay cơ quan) trong bộ máy nhà nước. Với tư cách là những thiết chế để thực hiện những mục đích nhất định, dân chủ trực tiếp và đân chủ gián tiếp đều có những ưu điểm và hạn chế của nó. Nếu nó được sử dụng đúng lúc, phù hợp điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn và thực hiện đúng kỹ thuật sẽ mang lại hiệu quả tốt. Ngược lại, nếu sử dung không đúng lúc, không phù hợp điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn, thực hiện không đúng cách, thì cũng không đạt được mục đích mong muốn. Do đó, ở các quốc gia khác nhau thường có cách vận dụng khác nhau trong quá trinh sử dụng các thiết chế này. Ví dụ, ở nhiều quốc gia có hệ thống chinh trị đa đảng, họ thường sử dụng thiết chế dân chủ trực tiếp để chọn ra người đứng đầu cơ quan hành pháp. Đảng nào có người thủ lĩnh được nhân dân bầu làm người đứng đầu cơ quan hành pháp xem như trở thành đảng lãnh đạo nhà nước (hay đảng cầm quyền). Nhưng cũng có những quốc gia sử dụng thiết chế dân chủ gián tiếp để chọn ra một đảng lãnh đạo nhà nước. Đảng nào được nhân dân bầu vào quốc hội với số lượng đông tuyệt đối (thường là đạt tỷ lệ 2/3 trở lên trong quốc hội) thì có quyền thành lập chính phủ (cơ quan hành pháp). Khi đó, đảng này trở thành đảng lãnh đạo nhà nước. Ở các quốc gia này, thông thường cứ 4
- hoặc 5 năm, nhân dân lại tiến hành cuộc bầu cử lại để chọn ra đảng nào lãnh đạo nhà nước. Ở Việt Nam, đối với cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội thì được nhân dân bầu ra theo thiết chế dân chủ trực tiếp, người dân trực tiếp bỏ phiếu bầu ra các đại biểu Quốc hội. Các đại biểu Quốc hội bầu ra người đứng đầu Nhà nước (Chủ tịch nước), người đứng đầu Chính phủ (Thủ tướng) và các thành viên Chính phủ (cơ quan hành pháp). Do thực tiễn lịch sử hình thành và phát triển của Nhà nước Việt Nam, sau khi ra đời năm 1945, Nhà nước Việt Nam phải đối phó với nhiều thế lực ngoại xâm trong thời gian dài. Trong cuộc đấu tranh lâu dài này, Đảng Công sản Việt Nam luôn là đại biểu trung thành với lợi ích toàn dân tộc, lãnh đạo nhân dân làm nên những thắng lợi vĩ đại, nên được nhân dân tín nhiệm, lựa chọn là đảng lãnh đạo Nhà nước. Vai trò lãnh đạo đó được khẳng định một cách mặc nhiên trong suốt thời gian chiến tranh. Trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, Đảng lại tiếp tục lãnh đạo Nhà nước và xã hội giành được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế-xã hội, kiến thiết đất nước, nên tiếp tục được nhân dân tín nhiệm, bầu vào Quốc hội với số lượng đông tuyệt đối. Quốc hội tin tưởng, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992. Như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là một hiện tương có tính quy luật. Việc Quốc hội khẳng định vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng trong Hiến pháp là một việc phù hợp với ý chí, nguyện vọng của nhân dân. 1.1.2. Đảng lãnh đạo Quốc hội 1.1.2.1. Quốc hội - thiết chế quan trọng của quyền lực nhà nước thực hiện quyền lực lập pháp Quyền lực nhà nước bao gồm ba nhánh quyền lực hợp thành: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các nhà nước dân chủ hiện nay đều giao quyền lập pháp cho quốc hội, quyền hành pháp cho chính phủ và quyền tư pháp cho hệ thống cơ quan xét xử. Quyền lực lập pháp có ba chức năng chính là ban hành pháp luật, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của các cơ quan nhà nước. Trong bất cứ một nhà nước dân chủ nào cũng đều phải có quốc hội, bởi vì quốc hội là thiết chế quan trọng của quyền lực nhà nước thực hiện quyền lực lập pháp. Nhìn vào
- địa vị pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức hoạt động của quốc hội người ta có thể đánh giá bản chất, hiệu quả của quyền lực nhà nước. Ở Việt Nam, địa vị pháp lý của Quốc hội được quy định trong văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất, đó là Hiến pháp 1992 và Hiến pháp sửa đổi 2001. Ngoài ra, địa vị pháp lý của Quốc hội còn được biểu hiện trong Luật Tổ chức Quốc hội và Nội quy kỳ họp Quốc hội. Điều 83 Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước [35, tr 44]. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất bởi vì Quốc hội là cơ quan duy nhất được cử tri toàn quốc bầu ra từ những đại diện của mọi thành phần xã hội, từ mọi địa phương trên cả nước, từ đó tạo ra cho Quốc hội ưu thế đặc biệt hơn hẳn các cơ quan nhà nước khác trong bộ máy nhà nước. Trong bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội được xác định là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Điểm này hoàn toàn khác với cơ cấu tổ chức nhiều nhà nước khác. Ví dụ ở Anh, Nguyên thủ quốc gia - Nữ hoàng đứng trên Quốc hội Anh, còn ở Việt Nam, Nguyên thủ quốc gia - Chủ tịch nước vẫn phải đứng dưới Quốc hội, do Quốc hội bầu ra và phải chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội. Theo quy định hiện hành của Hiến pháp, thì Quốc hội Việt Nam có 3 chức năng cơ bản: ban hành pháp luật (làm luật), quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của các cơ quan nhà nước. Địa vị pháp lý của Quốc hội còn được thể hiện rõ trong các mối quan hệ được pháp luật quy định giữa Quốc hội với các cơ quan nhà nước khác. Đối với chính phủ,
- Hiến pháp 1992 quy định: ”Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội” (Điều 109). Chính phủ phải trực thuộc Quốc hội và phải báo cáo trước Quốc hội. Đối với các cơ quan nhà nước khác ở trung ương: Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đều do Quốc hội thành lập bằng cách bầu ra những người đứng đầu hai cơ quan này. Cũng như Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trực thuộc Quốc hội và đều phải báo cáo trước Quốc hội. Về nhiệm vụ, quyền hạn (thẩm quyền) của Quốc hội, vì đây là yếu tố quan trọng tạo thành địa vị pháp lý của Quốc hội, nên nó được quy định trong văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất, tức là Hiến pháp. Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội tại Điều 84 gồm 14 điểm: 1. Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật; quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; 2. Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội, xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; 3. Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; 4. Quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; 5. Quyết định chính sách dân tộc của Nhà nước; Chính sách tôn giáo của Nhà nước; 6. Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và chính quyền địa phương; 7. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về thành lập Hội đồng quốc phòng và an ninh; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
- chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách thành viên của Hội đồng quốc phòng và an ninh; bỏ phiếu tính nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; 8. Quyết định thành lập, bãi bỏ các bộ và các cơ quan ngang bộ của Chính Phủ, thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thành lập hoặc giải thể đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt. 9. Bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; 10. Quyết định đại xá; 11. Quy định hàm, cấp trong các đơn vị vũ trang nhân dân; hàm cấp ngoại giao và những hàm cấp nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước; 12. Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp; các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia; 13. Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế khác đã được ký kết hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước; 14. Quyết định việc trưng cầu ý dân [35, tr 44]. Theo các quy định trên, chúng ta thấy rằng, Quốc hội là cơ quan có quyền lực cao nhất của Nhà nước Việt Nam, có quyền quyết định mọi vấn đề quan trọng nhất của đất nước. Không có một cơ quan nào trong bộ máy nhà nước Việt Nam lại có được thẩ m quyền cao như Quốc hội. Mọi cơ quan nhà nước đều phải trực tiếp hoặc gián tiếp trực thuộc Quốc hội; Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền ban hành các quy phạm chuẩn mực cho mọi hoạt động của xã hội; từ cơ quan trung ương đến các công dân bình thường ở mọi miền của đất nước đều phải chấp hành các quy định được Quốc hội thông qua.
- Như vậy, rõ ràng Quốc hội là thiết chế bảo đảm quyền lực nhà nước. Bản chất, hiệu lực, hiệu quả của quyền lực nhà nước phụ thuộc vào việc xây dựng và vận hành của Quốc hội. 1.1.2.2. Quốc hội - thiết chế quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Mục đích của sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội trong việc thực hiện chức năng lập pháp là nhằm bảo đảm thành công việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Để thực hiện được mục đích đó, Đảng phải thể chế hóa đường lối, chính sách của mình thành pháp luật. Muốn làm được việc này, nhất thiết phải thông qua thiết chế quốc hội và chỉ có thông qua thiết chế quốc hội mới làm được việc này. Khác với sự lãnh đạo của các đảng cầm quyền ở các nhà nước ”đa đảng”, ở những nước này, mục đích của đảng cầm quyền chủ yếu là giành và giữ quyền lực nhà nước cho đảng mình. Tất cả các chính sách và hoạt động của đảng cầm quyền chỉ xoay quanh mục tiêu giành thắng lợi trong cuộc bầu cử cơ quan quyền lực nhà nước. Còn mục đích của sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thì rộng hơn nhiều. Điều này giải thích vì sao bộ máy tổ chức của các đảng cầm quyền ở những nhà nước ”đa đảng” thường nhỏ gọn hơn bộ máy tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam. Giành được quyền lực nhà nước chỉ là bước đầu của hoạt động lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mục đích quan trọng hơn là phải bảo đảm xây dựng một Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đó là một nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với lý tưởng dân chủ, nhân đạo, công bằng, văn minh, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân; được tổ chức và vận hành một cách khoa học, phù hợp với thực tiễn đất nước, tổ chức, hoạt động trên cơ sở pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật; quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất quyền lực, có sự phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, có cơ chế an toàn và hiệu quả nhằm ngăn chặn mọi sự lạm quyền, vi phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trãi qua những giai đoạn thăng trầm của tình hình kinh tế-xã hội của đất nước, nhận thức của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền ngày càng rõ ràng và hoàn thiện hơn. Theo đó, Nhà nước pháp quyền Việt nam XHCN có những đặc trưng sau: một là, Nhà
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận: Nghệ thuật lãnh đạo của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975)
31 p | 1744 | 256
-
LUẬN VĂN: Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện nay
104 p | 193 | 52
-
TIỂU LUẬN: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG TRONG ĐỔI MỚI MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG LÃNH ĐẠO, NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ, NHÂN DÂN LÀM CHỦ
105 p | 185 | 44
-
LUẬN VĂN:Sự lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với tổ chức và hoạt động của
96 p | 140 | 37
-
Luận văn thạc sĩ Lịch sử: Chiến tranh du kích ở Đăk Lăk giai đoạn 1965-1968
141 p | 115 | 31
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học chính trị: Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay
183 p | 144 | 25
-
LUẬN VĂN: Nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng sự lãnh đạo của các tổ chức đảng đối với công tác vận động đồng bào DTTS
111 p | 105 | 24
-
Luận án Tiến sĩ: Tăng cường sự lãnh đạo của các tỉnh ủy, thành ủy trên địa bàn Quân khu 3 đối với công tác Quân sự, quốc phòng địa phương giai đoạn hiện nay
235 p | 124 | 22
-
LUẬN VĂN: Sự lãnh đạo của huyện ủy đối với hội chữ thập đỏ cấp huyện ở tỉnh thanh hóa trong giai đoạn hiện nay
84 p | 125 | 17
-
LUẬN VĂN: Sự cần thiết khách quan phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
19 p | 169 | 12
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Khoa học chính trị: Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay
27 p | 82 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Đảng bộ huyện Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ năm 1997 đến năm 2014
59 p | 92 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Đảng bộ huyện Lương Sơn (Hòa Bình) lãnh đạo thực hiện xây dựng nông thôn mới từ năm 2008 đến năm 2014
126 p | 27 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Đảng bộ huyện Đông Anh (Hà Nội) lãnh đạo công tác thanh niên từ năm 1996 đến năm 2013
163 p | 28 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Văn hóa phụng sự và lãnh đạo phụng sự tác động đến động lực phụng sự công của cán bộ Đoàn trên địa bàn thành phố Cà Mau
102 p | 28 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Lịch sử: Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp từ 1986 đến 2005
27 p | 27 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Truyền thông đại chúng: Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí địa phương vùng đồng bằng Sông Cửu Long hiện nay
156 p | 10 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn