Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách đối với lao động trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang
lượt xem 8
download
Luận văn trình bày các nội dung chính sau: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về thực hiện chính sách đối với lao động trẻ em; Thực trạng thực hiện chính sách đối với lao động trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang; Giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách đối với lao động trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách đối với lao động trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ KIM THOA THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG HÀ NỘI, 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ KIM THOA THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG Ngành: Chính sách công Mã số: 8340402 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN THỊ HẰNG HÀ NỘI, 2021
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là nước đầu tiên khu vực Châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước Quốc tế về Quyền Trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20-11-1989. Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là mối quan tâm lớn của Đảng, Nhà nước, gia đình và xã hội. Sự quan tâm này đã được thể chế hóa trong Hiến pháp, hệ thống pháp luật quốc gia và các chương trình quốc gia bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em,... Tình trạng Lao động trẻ em (LĐTE) là vấn đề xã hội xuất hiện ở mọi châu lục, mọi quốc gia, chỉ khác nhau về mức độ. Theo ILO, thời điểm 6/2016, có 168 triệu LĐTE trên thế giới, trong đó Tiểu vùng Sahara của Châu Phi có tỷ lệ LĐTE cao nhất (với 28% trẻ em trong độ tuổi từ 5-14), sau đó đến các vùng Trung Đông và Bắc Phi; Đông Á và Thái Bình Dương (mỗi vùng đều có tỷ lệ 10%), Mỹ La tinh và Caribê (9%). Ở tất cả các vùng, tỷ lệ LĐTE là gái đều cao hơn nam. Khu vực nông nghiệp vẫn là nơi có nhiều LĐTE nhất (chiếm trên 50%), sau đó là đến các khu vực dịch vụ và khu vực công nghiệp. Ở Việt Nam, cho đến nay LĐTE vẫn tồn tại ở những nơi khó can thiệp nhất và tiềm ẩn nguy cơ cao tham gia vào các dây chuyền sản xuất các sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp như tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh của các các hộ gia đình, các cơ sở sản xuất, kinh doanh nhỏ lẻ, trực tiếp tạo ra hàng hóa, dịch vụ. Cả nước có 1.031.944 LĐTE, có 58,8% tổng số trẻ em 5 – 17 tuổi tham gia hoạt động kinh tế. Trong tổng số LĐTE, có 519.805 em, chiếm gần 50,4%, được xác định là LĐTE làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm [15, tr 31 ]. LĐTE ảnh hưởng tiêu cực đến trao đổi hàng hóa của Việt Nam trong bôi cảnh toàn cầu hóa với các tiêu chuẩn hết sức nghiêm ngặt về sử dụng lao động trong sản xuất, trong đó có LĐTE. Một số mặt hàng thế mạnh của Việt Nam đã gặp khó khăn khi tiêu thụ trên thị trường quốc tế bởi có liên quan đến yếu tố LĐTE. LĐTE có ảnh hưởng tiêu cực đến tiếp cận với giáo dục của trẻ em, sự phát triển bình thường của trẻ em và chất lượng nguồn nhân lực tương lai. Trong tổng số 1.031.944 LĐTE, có 501.905 em, chiếm hơn 48,6% đã thôi học, không đi học, đặc biệt có 15.055 em, chiếm gần 1,5% tổng số LĐTE chưa bao giờ đi học [15, tr 33 ]. 1
- Trước tình hình đó Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực giải quyết vấn đề LĐTE, từng bước hoàn thiện khung luật pháp, chính sách về phòng ngừa, giảm thiểu LĐTE hài hòa với các tiêu chuẩn quốc tế; xây dựng và triển khai chương trình phòng ngừa, giảm thiểu LĐTE; phát triển hệ thống nhân lực bảo vệ trẻ em, phòng chống LĐTE các cấp; tổ chức truyền thông, vận động xã hội về phòng ngừa và xóa bỏ LĐTE, huy động sự vào cuộc của các cấp ủy Đảng, chính quyền, cơ quan chức năng, doanh nghiệp và toàn xã hội, đồng thời chủ động, tích cực thực hiện hợp tác quốc tế, tham gia vào các sáng kiến, hoạt động của khu vực và thế giới nhằm phòng chống LĐTE. Cũng giống như nhiều địa phương tại Việt Nam, tỉnh An Giang luôn quan tâm đến công tác chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến LĐTE. An Giang đã chỉ đạo và triển khai rất nhiều hoạt động liên quan đến vấn đề bảo vệ trẻ em và phòng, chống LĐTE tại địa phương như: ban hành kế hoạch phòng, chống lao động sớm cho trẻ em giai đoạn 2016-2020; triển khai các hoạt động thì điểm về mô hình hỗ trợ sinh kế cho hộ gia đình có trẻ em lao động sớm và có nguy cơ lao động sớm; ban hành nhiều kế hoạch kiểm tra giám sát tình trạng trẻ em tham gia lao động tại các doanh nghiệp; chỉ đạo phối hợp liên ngành để triển khai thực hiện chính sách đối với LĐTE. Tuy nhiên, để các chính sách đối với LĐTE được nhóm đối tượng thụ hưởng tiếp cận một cách tốt nhất và đầy đủ thì việc thực thi chính sách là một khâu rất quan trọng, vì không tốt sẽ là một trong những nguyên nhân khiến chính sách ban hành không có hiệu quả, trẻ em sẽ không được hưởng đầy đủ các quyền, đồng thời gặp phải những mối nguy hại trước nạn xâm hại, bạo lực, mua bán, bắt cóc,… Theo thống kê tổng số trẻ dưới 16 tuổi trên địa bàn tỉnh An Giang gần 435.484, trong đó có 227.873 trẻ em nam, trẻ em là người dân tộc thiểu số có 26.540 người; 28.384 trẻ em thuộc hộ nghèo (theo tiêu chí mới), 4.250 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, 57.151 6 trẻ em có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt, 28.767 trẻ em sống trong gia đình có vấn đề xã hội (cha mẹ ly hôn, bạo lực gia đình, ảnh hưởng bởi HIV/AIDS,.... Qua số liệu cho thấy trẻ em An Giang có nguy cơ tham gia lao động sớm, [34, tr 33]. Với những lý do kể trên, học viên đã chọn đề tài “Thực hiện chính sách đối với lao động trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang” làm luận văn tốt nghiệp chuyên 2
- ngành Chính sách công của mình làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc thực hiện chính sách đối với LĐTE; nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách đối với LĐTE tại An Giang; từ đó tiến đến đề xuất một số giải pháp thực hiện tốt chính sách đối với LĐTE trên địa bàn tỉnh An Giang. 2. Tình hình nghiên cứu luận văn Tình hình nghiên cứu của luận văn có thể tổng quan lại theo một số nhóm vần đề sau đây: Một là, nhóm những tài liệu nghiên cứu liên quan đến trẻ em, lao động trẻ em Các tài liệu quốc tế về lao động trẻ em: Công ước 29 của ILO về Lao động cưỡng bức thông qua năm 1930. Công ước số 138 của ILO về độ tuổi tối thiểu thông qua năm 1973; Công ước số 182 nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xóa bỏ các hình thức LĐTE tồi tệ nhất; Công ước Quốc tế về quyền trẻ em được thông qua năm 1989. Điều tra Quốc gia về Lao động trẻ em 2012 là báo cáo đầu tiên về vấn đề này tại Việt Nam. Với sự hỗ trợ kỹ thuật từ ILO, Tổng cục Thống kê đã khảo sát 50.640 hộ gia đình có trẻ em ở độ tuổi 5 – 17 tuổi trên toàn quốc và số liệu đó đã được Viện Khoa học Lao động và Xã hội sử dụng để hoàn thành báo cáo. Tài liệu điều tra quốc gia về lao động trẻ em 2018: Để cập nhật thông tin, diễn biến tình hình lao động trẻ em, cung cấp cơ sở khoa học và bằng chứng thực tiễn cho công tác hoạch định chính sách và xây dựng các chương trình can thiệp phù hợp và hiệu quả nhằm phòng ngừa, giảm thiểu lao động trẻ em, năm 2018, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (MOLISA) phối hợp với Tổng cục Thống kê (GSO), với sự hỗ trợ kỹ thuật và tài chính của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), tiến hành cuộc Điều tra quốc gia về lao động trẻ em lần thứ hai ở Việt Nam. Hội thảo Tư vấn xây dựng pháp luật về LĐTE do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp cùng ILO tổ chức (3/2018) , khẳng định LĐTE là sự vi phạm nghiêm trọng tới quyền trẻ em và nó sẽ làm giảm chất lượng, trình độ và năng lực của nguồn lao động trong tương lai. Xóa bỏ LĐTE là một ưu tiên toàn cầu và được cả thế thới đồng thuận. Những tài liệu tại Hội thảo xoay quanh nội dung thế nào là LĐTE, hoàn thiện hệ thống pháp luật về LĐTE, xu hướng LĐTE của Việt Nam. 3
- ILO, (2015), “Dự án Hỗ trợ kỹ thuật nâng cao năng lực quốc gia Phòng ngừa và Giảm thiểu LĐTE tại Việt Nam. Dự án sẽ đóng góp vào công cuộc phòng chống và xoá bỏ tình trạng LĐTE tại Việt Nam thông qua hỗ trợ Chương trình Quốc gia Phòng chống và Giảm thiểu LĐTE. Thời Gian dự án từ 01/01/2015 – 31/12/2019; Cơ quan chủ quản của dự án là Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (MOLISA), Các Cơ quan đối tác: Bộ LĐTBXH; các tổ chức của người sử dụng lao động, tổ chức của người lao động; các tổ chức quốc tế; NGO địa phương và quốc gia; và các cơ quan nghiên cứu. Địa bàn triển khai chính: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và tỉnh An Giang. Mục tiêu tổng quát của Dự án ENHANCE là xây dựng và củng cố nỗ lực toàn diện và có hiệu quả với sự tham gia của nhiều bên liên quan để phòng ngừa và giảm thiểu LĐTE tại Việt Nam. Một số nghiên cứu liên quan khác như: Luận Văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Thị Vân Anh về “Pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về ngăn ngừa và xóa bỏ LĐTE. Nghiên các vấn đề liên quan đến pháp luật đối với LĐTE”; Luận Văn Tiến sĩ Luật học của Nguyễn Thị Nhàn về “Lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay”. Luận văn đề ra các vấn đề lao động chưa thành niên tại Việt Nam mà pháp luật quy định; Luận văn Thạc sĩ Luật học của Lâm Thị Phương Thanh về “Bảo vệ quyền trẻ em đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật”; Luận văn Thạc sĩ Luật học của Hồ Sỹ Trung về Bảo vệ quyền của người chưa thanh niên theo pháp luật Việt Nam qua thực tiễn tỉnh Quảng Trị”; - Bài viết của Trần Nguyên Tú Phó về “Pháp luật và nguyên tắc quốc tế về quyền trẻ em”; Hai là, nhóm những tài liệu nghiên cứu liên quan đến chính sách đối với lao động trẻ em Các văn bản pháp luật liên quan đến chính sách lao động trẻ em: Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 9 tháng 5 năm 2017 của Chính phủ, quy định một số điều của Luật Trẻ em năm 2016; Quyết định số 1023/QĐ-TTg ngày 07/6/2016 về Quyết định phê duyệt Chương trình Phòng ngừa, giảm thiểu LĐTE giai đoạn 2016-2020; Nghị định số 144/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo trợ, cứu trợ xã hội và bảo vệ, chăm sóc trẻ em, trong đó có những vi phạm về lạm dụng, bóc lột sức lao động của trẻ em; Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 quy 4
- định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, trong đó bao gồm những vi phạm về LĐTE và lao động chưa thành niên; Thông tư số 11/2013/TT-BLĐTBXH, ban hành ngày 11/6/2013 quy định danh mục Công việc nhẹ được sử dụng người dưới 15 tuổi làm việc; thông tư số 10/2013/TT- BLĐTBXH, ban hành ngày 10 tháng 6 năm 2013 quy định danh mục các công việc và nơi làm việc cấm sử dụng lao động là người chưa thành niên; thông tư số 19/2014/TT-BLĐTBXH ngày 15 tháng 8 năm 2014 về hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 27/ 2014/NĐ-CP ngày 07 tháng 4 năm 2014 của Bộ Luật Lao động về lao động là người giúp việc gia đình. Ba là, nhóm những tài liệu nghiên cứu liên quan đến thực hiện chính sách và thực hiện chính sách đối với lao động trẻ em Học viên đã tham khảo các tài liệu như: Luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và quản lý của Nguyễn Thị Thu Hằng về “phòng ngừa và khắc phục tình trạng lạm dụng LĐTE ở Việt Nam hiện nay”; luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Hồng Hạnh về “Thực trạng LĐTE ở địa bàn phường Nghĩa Tân, Quận Cầu Giấy, Hà Nội”; bài viết của Phó giáo sư tiến sĩ Đỗ Phú Hải về Tổng quan tài liệu về thực hiện chính sách công của nhà sách sự thật xuất bản năm 2017; kế hoạch phòng, ngừa giảm thiểu lao động trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang giai đoạn 2015-2020; báo cáo kết quả thực hiện chương trình phòng, ngừa giảm thiểu lao động trẻ em giai đoạn 2015- 2020; báo cáo kết quả thực hiện công tác lao động-thương binh và Xã hội 2015- 2020; báo cáo Kết quả phát triển kinh tế - xã hội nhiệm kỳ qua và năm 2020; Định hướng phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2021-2025 và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm 2021. Bốn là một số nghiên cứu là các bài viết khác liên quan đến lao động trẻ em như về công tác quản lý, đối đội chính sách đối với lao động trẻ em. Bài viết báo Viện Khoa học Lao động và Xã hội của Nguyễn Bao Cường về Quản lý và ngăn ngừa LĐTE ở Việt Nam; Bài viết báo người Lao động về “Đối thoại chính sách các tiêu chuẩn lao động quốc tế về LĐTE”. Đề ra các chính sách đối với LĐTE; Bài viết 5
- đăng trên trang Website Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội viết về phòng, chống LĐTE trong chiến lược bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em; Thông qua việc nghiên cứu các tài liệu liên quan đến đề tài “thực hiện chính sách đối với lao động trẻ em tại An Giang”, học viên nhận thấy đây là những tài liệu đã đề cập đến các vấn đề chung về trẻ em, lao động trẻ em, các chính sách đối với lao động trẻ em, thực trạng quản lý đối với lao động trẻ em, nhưng chưa có nghiên cứu nào liên quan đến việc thực hiện các chính sách đối với LĐTE trên địa bàn tỉnh An Giang. Do đó, học viên đã lựa chọn nghiên cứu nội dung theo chủ đề thực tế này để làm luận văn tốt nghiệp của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu (1) Mục đích nghiên cứu: nghiên cứu việc thực hiện chính sách đối với lao động trẻ em trong giai đoạn 2016-2020 và giải pháp thực hiện chính sách phòng, ngừa đối với lao động trẻ em trong thời gian tới. (2) Nhiệm vụ nghiên cứu: - Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện chính sách cơ bản về thực hiện chính sách đối với lao động trẻ em. - Phân tích thực trạng thực hiện chính sách lao động đối với LĐTE tại An Giang. - Đánh giá thực tiễn thực hiện chính sách lao động đối với LĐTE tại An Giang. - Đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện chính sách và nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách lao động đối với LĐTE tại An Giang trên địa bàn tỉnh An Giang. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Chính sách về LĐTE trên địa bàn tỉnh An Giang. - Các giải pháp thực hiện chính sách đối với LĐTE. Trong luận văn này, tác giả không nghiên cứu về việc thực hiện xử lý các trường hợp LĐTE trái pháp luật. Vì lý do giới hạn nội dung của một luận văn thạc sĩ và vấn đề xử lý các trường hợp LĐTE trái pháp luật cũng khá rộng. 6
- 4.2. Phạm vi nghiên cứu 4.2.1. Không gian nghiên cứu: thực hiện địa bàn tỉnh An Giang. 4.2.2. Thời gian nghiên cứu: từ năm 2016-2020 Giai đoạn đoạn 2016-2020 là giai đoạn Việt Nam ban hành các chính sách thực hiện phòng, ngừa LĐTE. Do vậy, tại địa phương cũng đã triển khai các giải pháp để thực hiện chính sách này. Nếu chúng ta nghiên cứu giai đoạn này sẽ nắm được thực trạng thực hiện chính sách đối với LĐTE trên địa bàn tỉnh An Giang một cách tốt nhất. Từ đó, giúp cho việc đề xuất giải pháp cho giai đoạn mới được tốt hơn. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được tiếp cận nghiên cứu trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu trước đây cùng cơ sở lý luận, chính sách pháp luật quốc tế và Việt Nam về LĐTE. Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước Việt Nam về pháp luật và xây dựng pháp luật liên quan đến LĐTE. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Dựa trên cơ sở phương pháp luận nói trên, luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu phù hợp với từng nội dung của luận án như: Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê, phương pháp so sánh,… Luận văn được tiếp cận nghiên cứu trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu trước đây cùng cơ sở lý luâṇ và chính sách quốc tế và của Việt Nam về LĐTE nói chung và thực hiện chính sách đối với LĐTE nói riêng tại An Giang. Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước Việt Nam về pháp luật và xây dựng pháp luật. Trong Chương 1, để làm sáng tỏ vấn đề lý luận về LĐTE, luận văn sử dụng phương pháp hê ̣thống, phân tích, so sánh để làm rõ khái niệm “Trẻ em”, “Lao động trẻ em”,…Phương pháp phân tích cũng được vận dụng để đề cập tới nguyên nhân, tác động tiêu cực, mục đích và ý nghĩa,… thực hiện chính sách đối với LĐTE. 7
- Tại Chương 2 của luận văn, các phương pháp nghiên cứu được sử dụng là thống kê, so sánh, phân tích để làm rõ thực trạng LĐTE tại An Giang và đánh giá việc thực hiện chính sách đối với LĐTE trên địa bàn tỉnh An Giang, tìm ra hậu quả, nguyên nhân. Với Chương 3, phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp được sử duṇg để nghiên cứu tính cấp thiết của việc hoàn thiện việc thực hiện chính sách đối với LĐTE trên địa bàn tỉnh An Giang và đưa ra các giải pháp nhằm thực hiện chính sách đối với LĐTE trên địa bàn tỉnh An Giang đạt hiệu quả cao nhất. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn nghiên cứu chuyên sâu, có tính hệ thống và toàn diện về chính sách đối với LĐTE hiện nay. Luận văn có những đóng góp mới như: Hệ thống hóa, làm sáng tỏ cơ sở lý luận chính sách đối với LĐTE, các khái niệm, nội dung, hình thức, các điều kiện bảo đảm chính sách đối với LĐTE. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Những kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo cho các cơ quan quản lý nhà nước trong quá trình hoạch định chính sách, xây dựng và hoàn thiện thực hiện chính sách đối với LĐTE tại An Giang hiện nay. Với những ý nghĩa như trên, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và giảng dạy tại các cơ sở đào tạo về công tác xã hội về trẻ em, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác trẻ em tại địa phương. 7. Kết cấu của Luận văn - Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về thực hiện chính sách đối với lao động trẻ em. - Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách đối với lao động trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang. - Chương 3: Giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách đối với lao động trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang. 8
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CƠ BẢN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG TRẺ EM 1.1. Lý luận về chính sách đối với lao động trẻ em 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1.1. Trẻ em , Quyền trẻ em Khái niệm trẻ em: Trong pháp luật quốc tế, trẻ em được định nghĩa là người dưới 18 tuổi. Đây là quy định được nêu trong Điều 1 Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em, 1989 và Điều 2 Công ước số 182 của ILO về lao động trẻ em. Theo pháp luật Việt Nam: trẻ em là người dưới 16 tuổi. (Điều 1, Luật Trẻ em, 2016) Bên cạnh khái niệm trẻ em, pháp luật Việt Nam còn có khái niệm “người chưa thành niên”. Tùy theo ngành luật (dân sự, hành chính, hình sự, hôn nhân gia đình, lao động…), khái niệm “người chưa thành niên” được sử dụng ít nhiều khác nhau, song đều có một dấu hiệu chung đó là người dưới 18 tuổi. Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi. (Khoản 1, Điều 21, Bộ luật Dân sự, 2015). Khái niệm quyền trẻ em: Theo pháp luật Việt Nam Quyền trẻ em là tất cả những gì trẻ em cần có để được sống và lớn lên một cách lành mạnh và an toàn. Quyền trẻ em nhằm đảm bảo cho trẻ em không chỉ là người tiếp nhận thụ động lòng nhân từ của người lớn, mà các em là những thành viên Tham gia tích cực vào quá trình phát triển của chính mình. Quyền trẻ em là một bộ phận không thể thiếu của quyền con người. Theo Quốc tế: Công ước Quốc tế về quyền trẻ em là Luật quốc tế để bảo vệ quyền trẻ em, bao gồm 54 điều khoản. Công ước đề ra các quyền cơ bản của con người mà trẻ em trên toàn thế giới đều được hưởng, và được Liên hợp quốc thông qua năm 1989. Hầu hết tất cả các các nước trên thế giới đồng tình và phê chuẩn Công ước Quốc tế về quyền trẻ em. Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và nước 9
- thứ 2 trên thế giới phê chuẩn công ước của Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em vào ngày 20 tháng 2 năm 1990. Và đối với Việt Nam, những người có độ tuổi dưới 16 tuổi được coi là trẻ em [45, tr 1]. 1.1.1.2. Lao động trẻ em Khái niệm lao động được xác định như sau: Lao động là hoạt động diễn ra giữa người với giới tự nhên. Trong khi lao động con người vận dụng thể lực và trí tuệ tiềm tàng trong thân thể mình sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra các loại sản phẩm vật chất và tinh thần cho bản thân người lao động và cho xã hội. Quá trình lao động đồng thời là quá trình sử dụng sức lao động, sức lao động là năng lực con người, bao gồm thể lực và trí lực của người lao động. Mỗi con người trong nền sản xuất xã hội đều chiếm những vị trí nhất định, mỗi vị trí mà người lao động chiếm giữ trong hệ thống sản xuất xã hội với tư cách là một sự kết hợp của các yếu tố khác trong quá trình sản xuất được gọi là chỗ làm hay việc làm. Trong luật pháp quốc tế, LĐTE là thuật ngữ thường dùng để chỉ tình trạng một người dưới 18 tuổi phải làm các công việc có hại đến tinh thần, thể chất, trí tuệ, đạo đức và nhân cách của các em; hoặc phải làm việc từ độ tuổi nhỏ khiến cho các em mất đi cơ hội học tập và phát triển. LĐTE là công việc khiến trẻ em mất đi tuổi thơ, tiềm năng và nhân cách, và có ảnh hưởng xấu tới sự phát triển về thể chất và tinh thần của trẻ, bao gồm cả việc cản trở khả năng đến trường. Nó bao gồm những công việc: nguy hiểm và gây hại cho trẻ em về mặt tinh thần, thể chất, xã hội hay đạo đức; và ản trở việc học tập của trẻ em do: lấy đi của các em cơ hội học tập, buộc các em phải nghỉ học sớm, hay buộc các em phải kết hợp việc học với làm việc nặng nhọc và trong nhiều giờ. LĐTE được nhận diện thông qua các tiêu chí về độ tuổi, thời gian làm việc, loại công việc và nơi làm việc được xem là nguy hại cho người dưới 18 tuổi. Những quy định theo các tiêu chí này được thể hiện rõ trong hai công ước của ILO là Công ước số 138 năm 1973 về tuổi lao động tối thiểu và Công ước số 182 năm 1999 về nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xóa bỏ các hình thức LĐTE tồi tệ nhất. Cụ thể, nó bao gồm những hình thức LĐTE tồi tệ nhất, những công việc nguy hại và công việc không được phép thực hiện bởi trẻ em dưới tuổi lao động tối thiểu theo luật từng nước (Bảng 1.1). 10
- Bảng 1.1. Mức tuổi lao động tối thiểu xác lập theo quy định của Công ước số 138 Tuổi tối thiểu áp Tuổi tối thiểu ngoại lệ, áp Mức tuổi lao động dụng chung cho mọi dụng cho các quốc gia quốc gia đang phát triển Tuổi tối thiểu cơ bản (Điều Không dưới 15 tuổi Không dưới 14 tuổi 2) Tuổi tối thiểu áp dụng với Không dưới 18 tuổi Không dưới 16 tuổi Nhưng các công việc nguy hiểm an toàn và phẩm hạnh phải (Điều 3) được đảm bảo Tuổi tối thiểu áp dụng với 13 - 15 tuổi 12-14 tuổi các công việc nhẹ (Điều 7) Nguồn: Theo tài liệu Hướng dẫn phòng ngừa và giảm thiều lao động trẻ em của tổ chức ILO. [40, tr 7-11] Theo pháp luật Việt Nam: Bộ luật Lao động 2019 là văn bản pháp lý toàn diện nhất quy định các vấn đề có liên quan đến trẻ em tham gia lao động và người lao động chưa thành niên. Bộ luật Lao động quy định: “người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên” (Điều 3) và “người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi " (Điều 143, Bộ Luật lao động 2019) và nghiêm cấm việc sử dụng lao động chưa thành niên trái pháp luật, cưỡng bức lao động và các hành vi lợi dụng danh nghĩa dạy nghề, tập nghề để trục lợi, bóc lột sức lao động hoặc dụ dỗ, ép buộc người học nghề, người tập nghề vào hoạt động trái pháp luật. Thông tư số 10/2013/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, ban hành ngày 10 tháng 6 năm 2013 quy định danh mục các công việc và nơi làm việc cấm sử dụng lao động là người chưa thành niên. Phạm vi áp dụng đối với tất cả các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng lao động. Danh mục quy định 91 công việc và nơi làm việc cấm sử dụng lao động là người chưa thành niên. 11
- Thông tư số 11/2013/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, ban hành ngày 11/6/2013 quy định danh mục Công việc nhẹ được sử dụng người dưới 15 tuổi làm việc. Bao gồm: (i) Danh mục công việc được sử dụng người dưới 13 tuổi làm việc và (ii) Danh mục công việc được sử dụng người từ đủ 13 tuổi đến dưới 15 tuổi được làm việc. 1.1.1.3. Chính sách lao động trẻ em Chính sách LĐTE là tập hợp những quyết định, quy định của nhà nước được cụ thể hóa trong các chương trình, dự án cùng với nguồn lực, quy trình hay cơ chế thực hiện nhằm tác động vào các đối tượng LĐTE. Đối với thế giới: Các tiêu chuẩn lao động quốc tế liên quan đến LĐTE: Công ước về Quyền trẻ em. Điều 32 quy định trẻ em phải được bảo vệ trước sự “bóc lột kinh tế” và “tính đến những điều khoản thích hợp của những văn kiện quốc tế khác”. Ví dụ như các Công ước của ILO thể hiện nguyên tắc cơ bản trong lao động. Tuyên bố về các quyền và Nguyên tắc cơ bản tại nơi làm việc và theo dõi việc áp dụng được thông qua tại Hội nghị Lao động Quốc tế lần thứ 86 họp tại Geneva vào tháng 6/1998, trong đó quy định rằng xóa bỏ hiệu quả LĐTE là một trong bốn nguyên tắc cơ bản mà các quốc gia thành viên của Công ước về quyền trẻ em (Công ước về quyền trẻ em được viết tắt là CRC) cần tuân thủ hoặc các văn kiện quốc tế khác như các công ước của ILO thể hiện nguyên tắc cơ bản trong lao động. Tuy nhiên, không đơn giản để xác định được thế nào là “bóc lột kinh tế” hay “LĐTE” nào cần phải xóa bỏ, trong khi trẻ em tham gia lao động dưới nhiều hình thức khác nhau và điều kiện lao động khác nhau và không phải tất cả những công việc trẻ em tham gia đều là “có hại" đối với trẻ em. Vì vậy, cần có các tiêu chuẩn quốc tế đối với các quy định của quốc gia về vấn đề trẻ em tham gia lao động. Công ước số 138 của ILO về độ tuổi tối thiểu (được bổ sung bởi Khuyến nghị số 146) yêu cầu độ tuổi lao động tối thiểu chung phải được ấn định bởi mỗi quốc gia và không được dưới tuổi hoàn thành giáo dục bắt buộc và về nguyên tắc, không dưới 15 tuổi. Tuy nhiên, trẻ em 13-14 tuổi có thể được phép làm công việc nhẹ Công ước số 138 của ILO về độ tuổi tối thiểu (được bổ sung bởi Khuyến nghị số 12
- 146) yêu cầu độ tuổi lao động tối thiểu chung phải được ấn định bởi mỗi quốc gia và không được dưới tuổi hoàn thành giáo dục bắt buộc. Đối với những công việc nguy hiểm phải nghiêm cấm đối với trẻ em dưới 18 tuổi. Nội dung chính xác của công việc nguy hiểm phải được xác định bởi mỗi quốc gia sau khi tham khảo ý kiến ba bên (chính phủ, công đoàn và đại diện của người sử dụng lao động). Công ước 182 của ILO về các hình thức LĐTE tồi tệ nhất (được bổ sung bởi Khuyến nghị số 190) yêu cầu nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xoá bỏ các hình thức LĐTE tồi tệ nhất là mối ưu tiên chính của hành động quốc gia và quốc tế, đã được Hội nghị toàn thể của Tổ chức Lao động quốc tế nhất trí thông qua trong phiên họp lần thứ 87 tại Giơ-ne-vơ và được tuyên bố ngày 17 tháng 6 năm 1999. Phạm vi áp dụng công ước bao gồm tất cả các lĩnh vực hoạt động kinh tế, không có ngoại lệ. Công ước yêu cầu các quốc gia phê chuẩn không chỉ cấm các hình thức LĐTE tồi tệ nhất trong pháp luật mà còn phải thiết kế và thực hiện các chương trình hành động nhằm xóa bỏ các hình thức này như là một ưu tiên, và phải thiết lập hoặc chỉ định các cơ chế thích hợp để theo dõi việc thực hiện Công ước. Các quốc gia phê chuẩn cũng phải áp dụng các biện pháp phòng ngừa có hiệu quả và có khung thời gian cụ thể; có sự trợ giúp cho việc đưa trẻ em ra khỏi các hình thức LĐTE tồi tệ nhất và phục hồi chức năng cho các em; đảm bảo tiếp cận với giáo dục cơ bản không phải trả tiền hoặc hướng nghiệp dạy nghề cho tất cả trẻ em đã được đưa ra khỏi các hình thức LĐTE tồi tệ nhất; xác định trẻ em có nguy cơ đặc biệt; và có tính đến hoàn cảnh đặc biệt của trẻ em gái. Công ước 29 của ILO về Lao động cưỡng bức thông qua năm 1930. Năm 2007, Việt Nam đã phê chuẩn Công ước này. Khoản 1, Điều 2 Công ước nêu rõ “lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc" là chỉ mọi công việc hoặc dịch vụ là một người bị ép buộc phải làm dưới sự đe dọa của một hình phạt nào đó và bản thân người đó không tự nguyện làm. Như vậy, lao động cưỡng bức có thể tồn tại dưới bất cứ hình thức lao động nào, có thể được áp đặt lên cả người lớn và trẻ em, ở cả khu vực nhà nước, khu vực tư nhân, các cá nhân. Nghị quyết của ILO về thống kê LĐTE lần thứ 18, 2008). Nghị quyết liên quan đến thống kê LĐTE đã được thông qua tại Hội nghị thống kê lao động quốc tế 13
- lần thứ 18 do ILO tổ chức tại Geneva vào tháng 12/2008 thiết lập các hướng dẫn được chấp nhận trên toàn cầu về tiêu chuẩn đo lường thống kê LĐTE. Đây là một sự phát triển quan trọng trong phân tích LĐTE, bất kỳ số liệu thống kê nào cũng phải được đo lường, phải có một định nghĩa hoạt động và duy nhất. Nghị quyết đã làm rõ trẻ em tham gia lao động (hay trẻ em đang làm việc) đề cập đến trẻ em tham gia bất kỳ hoạt động nào nằm trong giới hạn sản xuất nói chung trong hệ thống tài khoản quốc gia với ít nhất 01 giờ trong giai đoạn tham chiếu. Trong đó chỉ có một tập hợp con là LĐTE cần loại bỏ. Việt Nam là nước đầu tiên trong khu vực Châu Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em (CRC) ngày 20/2/1990, Việt Nam cũng đã phê chuẩn hai Công ước cơ bản của ILO liên quan đến LĐTE: Công ước về độ tuổi tối thiểu (Công ước 138, 1973) và Công ước về các hình thức LĐTE tồi tệ nhất (Công ước 182, 1999). Việt Nam đã chủ động nội luật hóa các quy định của pháp luật quốc tế; đến nay về cơ bản, hệ thống pháp luật quốc gia về bảo vệ, chăm sóc trẻ em đã tương đối đầy đủ, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, hài hoà với pháp luật quốc tế, tạo hành lang pháp lý toàn diện để giải quyết các vấn đề của trẻ em, trong đó có vấn đề bóc lột sức LĐTE. Các chính sách liên quan LĐTE tại Việt Nam: Giảm nghèo ở nông thôn và cải thiện sinh kế nông thôn và việc làm cho thanh thiếu niên.; dụng pháp luật về LĐTE; cải thiện tiếp cận giáo dục có chất lượng và phù hợp với nhu cầu của trẻ em gái và trẻ em trai nông thôn; giảm thiểu mức độ tổn thương của các hộ gia đình và người lao động; lồng ghép vấn đề LĐTE vào các chính sách, chương trình và nghiên cứu nông nghiệp và nông thôn; thúc đẩy đối thoại xã hội; ngày 07/6/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1023/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Phòng ngừa, giảm thiểu LĐTE giai đoạn 2016-2020 với mục tiêu chung “Thực hiện có hiệu quả công tác phòng ngừa, giảm thiểu LĐTE; trẻ em có nguy cơ và trẻ em lao động trái với quy định của pháp luật được phát hiện, can thiệp, hỗ trợ kịp thời để hòa nhập cộng đồng và có cơ hội phát triển”. Chương trình nhằm thực hiện cam kết của Việt Nam về xóa bỏ các hình thức LĐTE tồi tệ nhất và giảm thiểu LĐTE. Cùng với Quyết định 1023/QĐ-TTg ngày 22/12/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt 14
- Chương trình phòng ngừa, giảm thiểu LĐTE giai đoạn 2016-2020, Chính phủ ban hành nhiều quyết định trong giai đoạn này liên quan đến lĩnh vực bảo vệ trẻ em, góp phần thúc đẩy, hỗ trợ và tăng cường nguồn lực thực hiện các nội dung, mục tiêu của Chương trình phòng ngừa, giảm thiểu LĐTE: (i). Các Chương trình với các biện pháp và nguồn lực bổ sung, hỗ trợ thực hiện phòng ngừa, giảm thiểu LĐTE, gồm: (i) Chương trình bảo vệ trẻ em giai đoạn 2016-2020 và Chương trình mục tiêu Phát triển hệ thống trợ giúp xã hội giai đoạn 2016-2020. Các dự án của chương trình này góp phần tăng cường năng lực và điều kiện thực hiện chương trình phòng ngừa, giảm thiểu LĐTE (phát triển cơ sở cung cấp dịch vụ xã hội có nhiệm vụ bảo vệ trẻ em, phát triển nghề công tác xã hội góp phần nâng cao năng lực trợ giúp trẻ em …); (iii) Chương trình quốc gia phòng, chống mua bán người với mục tiêu tổng quát “Giảm nguy cơ mua bán người; giảm tội phạm mua bán người; thực hiện hiệu quả công tác tiếp nhận, bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về”. (ii). Các Chương trình, đề án, tiêu chuẩn, tháng hành động… góp phần nâng cao nhận thức, trang bị kiến thức, năng lực bảo vệ trẻ em cho gia đình, cộng đồng, nhà trường và bản thân trẻ em, tạo môi trường sống an toàn, không để trẻ em phải lao động kiếm sống, gồm: (i) Chương trình giáo dục đời sống gia đình; (ii) Tháng hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình; (iii) Đề án đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân; (iv) Đề án Xây dựng văn hóa ứng xử trong trường học giai đoạn 2018-2025; (v) Bộ tiêu chí quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020; (vi) Tiêu chuẩn, trình tự đánh giá và công nhận xã, phường, thị trấn phù hợp với trẻ em; (vii) Đề án chăm sóc vì sự phát triển toàn diện trẻ em trong những năm đầu đời tại gia đình và cộng đồng giai đoạn 2018-2025; (viii) Đề án hỗ trợ trẻ em khuyết tật tiếp cận các dịch vụ bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em tại cộng đồng giai đoạn 2018-2025; (ix) Đề án “Hỗ trợ nhóm trẻ độc lập, tư thục tại khu công nghiệp, khu chế xuất” (Đề án 404), tạo điều kiện cho các bậc cha, mẹ là công nhân lao động có con dưới 36 tháng tuổi có nơi gửi trẻ an toàn, góp phần giảm thiểu nguy cơ trẻ em bị xâm hại; (x) Đề án “Tuyền truyền, vận động, hỗ trợ phụ nữ tham gia giải quyết một số vấn đề xã hội 15
- liên quan đến phụ nữ trong tình hình mới” (Đề án 938), theo đó nội dung trọng tâm 2019-2020 là “Giáo dục cha, mẹ trong chăm sóc và phát triển trẻ em”. (iii). Các Chương trình với các giải pháp nhằm huy động nguồn lực và sự phối hợp liên ngành tham gia bảo vệ trẻ em, trong đó có phòng ngừa, giảm thiểu LĐTE: (i) Ban hành quy chế phối hợp liên ngành về phòng, chống bạo lực gia đình; (ii) Đề án vận động nguồn lực xã hội hỗ trợ trẻ em các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2019-2025; (iii) Ban hành danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng nhân sách nhà nước trong lĩnh vực văn hóa, gia đình, thể thao và du lịch. 1.1.1.4. Thực hiện chính sách lao động trẻ em Tổ chức thực hiện chính sách LĐTE là quá trình biến các chính sách LĐTE thành những kết quả trong đời sống xã hội; thông qua các hoạt động có tổ chức về LĐTE trong bộ máy nhà nước, nhằm thực hiện hoá các mục tiêu chính sách LĐTE đã đặt ra. Tùy thuộc vào chế độ chính trị, những quy định của hiến pháp, nguyên tác thực thi quyền lực nhà nước, cách thức tổ chức bộ máy nhà nước, mức độ dân chủ, công khai, minh bạch trong quản lý nhà nước, trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia mà số lượng và loại chủ thể tham gia vào quá trình thực thi chính sách lao động trẻ em ở các nước khác nhau là khác nhau. Như vậy, có rất nhiều chủ thể tham gia vào quá trình thực thi chính sách LĐTE và các chủ thể này có mối quan hệ tương tác với nhau trong quá trình thực hiện chính sách; số lượng chủ thể và vai trò của từng chủ thề tham gia tùy thuộc vào từng chính sách cụ thể và bối cảnh của từng nước. Tuy nhiên, có thể nhóm các chủ thể tham gia vào thực thi chính sách LĐTE thành các nhóm sau: (1) Chủ thể thực thi là các cơ quan nhà nước và nhân sự của các cơ quan đó - đây là chủ thể chịu trách nhiệm thực thi chính sách LĐTE; (2) Chủ thể tham gia là các đối tác phi nhà nước (các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước); (3) Chủ thể tham gia với tư cách là đối tượng thụ hưởng chính sách (các cộng đồng dân cư, các nhóm dân số, thậm chí mọi người dân). 16
- Qua nghiên cứu và tham khảo một số khái niệm của quốc tế và Việt Nam về nội dung liên quan đến LĐTE. Tác giả sẽ sử dụng các khái niệm nêu trên phù hợp nhất để phục vụ cho việc nghiên cứu của luận văn. Các khái niệm này có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình thực hiện chính sách đối với LĐTE. Nếu một khái niệm rỏ ràng, cụ thể sẽ giúp cho chúng ta xác định đúng số liệu liên quan đến từng nhóm đối tượng thủ hưởng chính sách, từ đó giúp cho việc xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách sẽ phù hợp với thực tế hơn. Còn ngược lại thì việc thực hiện chính sách sẽ gặp nhiều vấn đề khó khăn. Vì vậy, tác giả sẽ áp dụng các khái niệm nêu trên vào từng trường hợp cụ thể tại địa phương cho phù hợp nhất. 1.1.2. Mục tiêu, nội dung của chính sách đối với lao động trẻ em 1.1.2.1. Mục tiêu của chính sách lao động đối với trẻ em Mục tiêu tổng quát: Bảo đảm thực hiện các quyền trẻ em, phát triển toàn diện trẻ em nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế; tạo lập môi trường an toàn, lành mạnh và thân thiện, góp phần hoàn thành các mục tiêu của Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững; thực hiện có hiệu quả công tác phòng ngừa, giảm thiểu LĐTE; trẻ em có nguy cơ và trẻ em lao động trái với quy định của pháp luật được phát hiện, can thiệp, hỗ trợ kịp thời để hòa nhập cộng đồng và có cơ hội phát triển. Mục tiêu cụ thể: Nâng cao nhận thức, năng lực và trách nhiệm của chính quyền các cấp, các ngành, các tổ chức có liên quan, người sử dụng lao động, cộng đồng, cha mẹ và trẻ em về LĐTE; nâng cao nhận thức xã hội về phòng ngừa và giảm thiểu LĐTE; Tăng cường phòng ngừa, phát hiện, hỗ trợ, can thiệp LĐTE và trẻ em có nguy cơ; 100% trẻ em lao động trái quy định của pháp luật khi có thông báo, phát hiện được hỗ trợ, can thiệp kịp thời; Phấn đấu giảm tỷ lệ LĐTE và người chưa thành niên từ 5 đến 17 tuổi xuống 4,9% vào năm 2025 và xuống 4,5% vào năm 2030. 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở tỉnh Hải Dương
119 p | 68 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang
81 p | 88 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội
130 p | 65 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách tài khóa và cân đối ngân sách địa phương của tỉnh An Giang
83 p | 95 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang
83 p | 79 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực thi chính sách đối với người có công trên địa bàn thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội
115 p | 67 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách thi đua khen thưởng tại Viện sức khỏe nghề nghiệp và môi trường
115 p | 63 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh
70 p | 76 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách phát triển du lịch sinh thái trên địa bàn huyện Châu Phú, tỉnh An Giang
72 p | 48 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam
87 p | 69 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Châu Phú, tỉnh An Giang
73 p | 37 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp trên địa bàn huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang
77 p | 45 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách thông tin cơ sở trên địa bàn huyện Châu Thành, tỉnh An Giang
65 p | 61 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách an sinh xã hội cho đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang
77 p | 46 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính tại tỉnh An Giang
79 p | 32 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách tổ chức, khai thác sử dụng tài liệu lưu trữ từ thực tiễn Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh Cao Bằng
78 p | 31 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang
70 p | 47 | 5
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên trên địa bàn thành phố Phúc Yên- tỉnh Vĩnh Phúc
24 p | 50 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn