intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách hỗ trợ người khuyết tật ở tỉnh Bình Dương

Chia sẻ: ViJensoo ViJensoo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:77

36
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được chia làm 3 chương, cụ thể như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách hỗ trợ cho NKT; Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách hỗ trợ cho NKT tại tỉnh Bình Dương; Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách hỗ trợ cho NKT tại tỉnh Bình Dương.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách hỗ trợ người khuyết tật ở tỉnh Bình Dương

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI CHÂU VĂN HÒA THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ NGƯỜI KHUYẾT TẬT Ở TỈNH BÌNH DƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG HÀ NỘI, 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI CHÂU VĂN HÒA THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ NGƯỜI KHUYẾT TẬT Ở TỈNH BÌNH DƯƠNG Ngành: Chính sách công Mã số: 8340402 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. BÙI NGHĨA HÀ NỘI, 2021 1
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong Điều 2, Chương 1, Luật Người khuyến tật (NKT) năm 2010 đã qui định rõ: “Người Khuyết tật là người bị khuyết điểm một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn”. NKT được nhận biết bằng nhiều hình thức như: khuyết tật bẩm sinh, khuyết tật do chiến tranh, khuyết tật do tai nạn giao thông, khuyết tật do tai nạn lao động. Việt Nam trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử đấu tranh chống giặc thống nhất đất nước, giữ gìn toàn vẹn lãnh thổ với các cường quốc như: Mỹ, Pháp, Nhật,… Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trước thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nước ta đã hứng chịu hàng nghìn tấn bom mìn, chất độc đi-ô-xin (DOX) trải khắp Việt Nam, khiến biết bao chiến sĩ hy sinh, gia đình ly tán, hàng ngàn đứa con sinh ra bị dị tật bẩm sinh phải sống trong sự đau đớn khốn cùng mà đáng lẽ ra phải được hưởng một cuộc sống yên bình, hạnh phúc. Chỉ tính riêng trong chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam, giai đoạn 1961 - 1971, quân đội Mỹ đã tiến hành 19.000 vụ rải với hơn 80 triệu lít chất đọc hoá học chứa 366 kg chất DOX cực độc xuống 26 nghìn làng, bản Việt Nam. Hậu quả là gần 8 triệu người Việt Nam bị chết và bị thương tật, hơn 4,8 triệu bị di chứng chất độc DOX, với hơn 1 triệu người chết và 150.000 trẻ em thế hệ thứ 2, thứ 3 bị di chứng đau đớn từng ngày [2]. Như câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày 02/9/1945: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Kế thừa tinh thần này, đồng thời, tiếp khẳng định tinh thần nhân văn, nhân đạo và bản chất 2
  4. tốt đẹp của chế độ, góp phần từng bước hàn gắn vết thương của chiến tranh, ngày 05 tháng 8 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 1019/QĐ- TTg về việc “Phê duyệt Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 - 2020” nhằm hỗ trợ người khuyết tật phát huy khả năng của mình để đáp ứng nhu cầu bản thân, tạo điều kiện để người khuyết tật vương lên tham gia bình đẳng vào các hoạt động kinh tế, xã hội, góp phần xây dựng cộng đồng và xã hội. Từ đó đến nay gần 10 năm, việc nghiên cứu, đánh giá về hiệu quả quá trình thực thi chính sách đối với NKT Việt Nam càng trở nên có ý nghĩa, cả cấp Trung ương lẫn thực tiễn các địa phương. Ngày nay, khi cuộc sống trong hòa bình, thịnh vượng, đất nước đang trên đà phát triển mọi mặt, cuộc sống gắn liền với công việc lao động cao không thể tránh khỏi những sự cố tai nạn lao động, tai nạn giao thông, thiên tai. Các tai nạn này đã và đang làm mất đi khả năng lao động của nhiều người lao động, khiến họ không còn khả năng lao động sản xuất như trước; từ đó tạo gánh nặng cho gia đình và xã hội. Hiện tại, các doanh nghiệp tuy có hỗ trợ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm tai nạn cho người lao động theo quy định. Tuy nhiên, điều này chỉ mới là biểu hiện một phần trong hệ thống chính sách của nước ta dành cho NKT, chưa hẳn đã giải quyết toàn bộ các khó khăn, vướng mắc và vất vả mà NKT gặp phải trong cuộc sống. Vì vậy, nghiên cứu và đảm bảo thực thi hệ thống chính sách hỗ trợ toàn diện, hệ thống cho NKT là cần thiết và có ý nghĩa nhất định. Tỉnh Bình Dương là tỉnh thuộc khu vực miền Đông Nam bộ (ĐNB), trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với tổ chức đơn vị hành chính gồm 03 thành phố: Thành phố Thủ Dầu Một, Thành phố Dĩ An, Thành phố Thuận An; 02 Thị xã: Thị xã Tân Uyên và Thị xã Bên Cát; 04 Huyện: Huyện Bắc Tân Uyên, Huyện Phú Giáo, Huyện Dầu Tiếng và Huyện Bầu Bàng. Với diện tích tự nhiên lên tới 2.695,22 km2, dân số gần 2,5 triệu người, thu hút 972.425 3
  5. lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp trong đó có 700.000 người từ các tỉnh thành khác đến. Theo Báo cáo mới nhất của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, tỉnh Bình Dương hiện nay có hơn 17.895 người được xác định mức độ khuyết tật. Những năm gần đây, cùng với chính sách của Nhà nước về chăm lo, hỗ trợ người khuyết tật, địa phương đã có nỗ lực trong triển khai thực hiện chính sách này như triển khai tích cực Dự án phát triển thị trường lao động và việc làm cho NKT, Đề án “Nâng cao chất lượng vận tải hành khách công cộng bằng xe bus trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2018 - 2020”, đầu tư nâng cấp Trung tâm giáo dục nghề nghiệp, dạy nghề cho NKT, cấp thẻ xe buýt miễn phí, tổ chức nhiều đợt khảo sát về quyền NKT, tổ chức trợ giúp pháp lý, cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí cho 27.633 lượt NKT, qua đó tạo điều kiện cho NKT tiếp cận tốt hơn các dịch vụ y tế, được khám chữa bệnh và phục hồi chức năng miễn phí …. Tuy nhiên, việc phát triển kinh tế nhanh và tốc độ đô thị hoá mạnh như địa bàn tỉnh thời gian qua nếu không đi kèm với bảo hộ và an toàn lao động cũng như từ nhiều các rủi ro khách quan khác sẽ tiềm ẩn nguy cơ cao tai nạn cho người lao động và an toàn xã hội, dẫn đến nguy cơ thương tật, khuyết tật. Đặc biệt, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đã và đang tác động mạnh đến kinh tế, xã hội, NKT được xem là lực lượng yếu thế trong việc tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, nước, vệ sinh, thông tin y tế công cộng [30, tr.2]… nên việc nhóm chủ thể này được quan tâm, thú đẩy hỗ trợ bằng chính sách bài bản. Bên cạnh đó, mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, tăng 75% số NKT được chăm sóc, trợ giúp phục hồi chức năng, dạy nghề, tạo việc làm, tham gia giao thông, thể dục thể thao, văn nghệ so với giai đoạn 2006 - 2010 còn nhiều nội dung chưa thực hiện được, quá trình triển khai đối diện nhiều khó khăn, vướng mắc. 4
  6. Đất nước hội nhập, xã hội ngày càng phát triển và dân số ngày một tăng lên theo cấp số nhân. Nếu ước tính với dân số của tỉnh gần 2,5 triệu người với 972.425 lao động và có thể sẽ tăng cao hơn nữa trong vài năm tiếp theo, trong đó số người khuyết tật cũng sẽ tăng cao do nguồn lao động quá lớn đổ về địa bàn tỉnh. Dưới góc độ khoa học chính sách công nhằm giúp các nhà quản lý xây dựng và thực thi chính sách hỗ trợ NKT phù hợp với thực tiễn địa phương góp phần giúp NKT phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội cho đất nước. Chính vì những lý do đó, để góp phần triển khai thực hiện tốt và hoàn thành mục tiêu chính sách hỗ trợ NKT ở địa phương, tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Thực hiện chính sách hỗ trợ cho người khuyết tật ở tỉnh Bình Dương” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính sách công. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong những năm gần đây, vấn đề nghiên cứu liên quan đến chính sách hỗ trợ NKT là nội dung được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu, bài viết như sau: 2.1. Nghiên cứu quốc tế Nghiên cứu: “Disability and social inclusion in Ireland, Brenda Gannon and Brian Nolan, 2011” (Khuyết tật và hòa nhập xã hội ở Ireland, Brenda Gannon and Brian Nolan, 2011). Nghiên cứu xem xét NKT có hoàn cảnh khó khăn hòa nhập xã hội, trong đó nghiên cứu: thu nhập, trình độ học vấn, kinh tế và tham gia xã hội… và đồng thời chỉ ra rằng các yếu tố mặc cảm tự ti là một trong những yếu tố cản trở người khuyết tật tham gia hòa nhập xã hội và cuộc sống hàng ngày. Báo cáo này nêu lên sự khác biệt giữa NKT và không khuyết tật trong việc tham gia hòa nhập cộng đồng. Thông qua việc thống kê các số liệu thu thập được để đánh giá mức độ đói nghèo, sự tham gia giáo dục… của NKT. Đồng thời tìm hiểu thêm mức độ của người khuyết tật đến cuộc sống hàng ngày và tới những người khác. Báo cáo cũng nhấn mạnh 5
  7. tới các yếu tố khuyết tật có ảnh hưởng đến đời sống của người khuyết tật, sự kỳ thị của cộng đồng và ciệc tiếp cận giao thông đi lại còn khó khăn. Nghiên cứu: “The National Disability Strategy report, Council of Australian Gorvement 2012” (Báo cáo chiến lược Quốc gia về NKT, Hội đồng Chính phủ Úc, 2012). Chiến lược NKT quốc gia đã đưa ra bản kế hoạch mời năm để cải thiện cuộc sống cho NKT Úc. Kế hoạch này sử dụng sự đồng bộ và thống nhất của tất cả các ban ngành địa phương về chính sách và chương trình qua đó cho phép người khuyết tật thực hiện đầy đủ các chức năng, tiềm năng của họ như những công dân khác. Chiến lược này đóng góp một trò không nhỏ trong việc bảo vệ, thúc đẩy quyền lợi cho người khuyết tật, từ đó đảm bảo các chính sách mà NKT và gia đình họ được hưởng. Một trong sáu khía cạnh ưu tiên hành động giành cho NKT, gia đình và người chăm sóc họ có khía cạnh liên quan đến hỗ trợ cho NKT, đó là “NKT có thể được tiếp cận các công trình giao thông, công viên, các tòa nhà và nhà ở, thông tin kĩ thuật số và công nghệ truyền thông, đời sống dân sự, thể thao, giải trí văn hóa… “Thứ hai là quan tâm đến hện thống giáo dục dành cho NKT và khả năng tham gia học tập của NKT”. Chiến lược này sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ bảo vệ, thúc đẩy và thực hiện các quyền con người của NKT. Nó sẽ giúp đảm bảo rằng các nguyên tắc làm cơ sở Công ước được kết hợp vào các chính sách và chương trình ảnh hưởng tới con người, các rào cản đối với những đóng góp có thể được thực hiện bởi những người có khuyết tật, gia đình và người chăm sóc cần được loại bỏ. Chiến lược vượt ra ngoài hệ thống chuyên gia hỗ trợ NKT được cung cấp bởi khối thịnh vượng chung, các quốc gia và vùng lãnh thổ theo Hiệp định NKT Quốc gia. Ấn phẩm của LHQ “Quyền con người và khuyết tật” (Human Rights and disability) do tập thể tác giả Gerard Quinn, Theresia Degener, Anna 6
  8. Bruce, Chritstine Burke, Dr.Johua Castellino, Pacdraic Kenna, Dr. Ursula Kilkelly, Shivaun Quinlivan Dark and Light Blind Care nghiên cứu năm 2008, “Inclusion of disabled people Vocational Training and income”. Trong cuốn báo cáo tổng kết chương trình CTXH với NKT, nhóm tác giả đã nêu lên chương trình chính sách, quyền của NKT, cách thức hỗ trợ NKT, một số chương trình hỗ tợ NKT ở Châu Phi, các kỹ năng khi làm việc với NKT[22]. Đại học College London, Anh Quốc (2014), thực hiện dự án nghiên cứu về “Bảo trợ xã hội dành cho người khuyết tật tại Việt Nam”, đã thực hiện khảo sát định tính về bảo trợ xã hội và y tế đối với NKT, hộ gia đình và các cơ quan tổ chức có liên quan. Kết quả sơ bộ ban đầu được báo cáo tại hội thảo về Bảo trợ xã hội đối với NKT tại Hà Nội đã cho thấy nhìn về những chính sách đạt được, nhu cầu và những khó khăn của NKT. Nghiên cứu đó đã đề cập đến những nhu cầu việc làm và những khó khăn khi tìm việc làm của NKT, được nhìn nhận từ chính bản thân NKT[6]. Ấn phẩm “Disability considerations during the COVID-19 outbreak” (Những quan tâm đối với người khuyết tật trong thời gian bùng phát dịch Covid-19) của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) công bố năm 2020. Ấn phẩm chỉ dày khoảng 15 trang nhưng nêu bật được các vấn đề trung tâm như: (1). Tại sao cần có sự quan tâm thêm đối với người khuyết tật trong thời gian bùng phát dịch Covid-19, (2). Những công việc của người khuyết tật và gia đình họ cần hành động để tự bảo vệ mình; (3). 15 nhóm công việc của Chính phủ và các cơ sở y tế được khuyến cáo thực hiện nhằm tăng cường hỗ trợ cho người khuyết tật trước đại dịch Covid-19. Các gợi ý về mặt chính sách này có ý nghĩa đối với nghiên cứu này, đặc biệt là khẳng định tính cần thiết của đề tài và hình thành các giải pháp, đề xuất đối với các chủ thể có liên quan trong 7
  9. quá trình thực thi chính sách hỗ trợ người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Bình Dương thời gian tới. 2.2. Nghiên cứu trong nước Nghiên cứu khoa học: “Biện hộ thực hiện chính sách xây dựng công trình công cộng phù hợp với người khuyết tật vận động dựa vào cộng đồng, nghiên cứu tại hai trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn và trường đại học Khoa học tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội” năm 2014. Công trình nghiên cứu đã đẩy mạnh các hoạt động biện hộ thực hiện chính sách xây dựng công trình công cộng phù hợp với NKT vận động dựa vào cộng đồng và được nghiên cứu tại trường học, đối tượng khuyết tật chủ yếu là sinh viên, đề tài này có nhiều luận điểm phù hợp để áp dụng vào công trình nghiên cứu đi sau là hỗ trợ NKT vận động tiếp cận sử dụng các công trình công cộng cụ thể là cơ quan, công trình trụ sở làm việc, công trình cũng bổ sung và làm rõ sự hỗ trợ về biện hộ thực hiện chính sách xây dựng công trình công cộng phù hợp với NKT vận động. Nghiên cứu khoa học: “Mặc cảm tự ti của người khuyết tật trong quá trình hòa nhập xã hội” của Đinh Thị Thủy, 2013. Nghiên cứu đánh giá những yếu tố tác động ảnh hưởng của mặc cảm tự ti đến cuộc sống của người khuyết tật và làm rõ vai trò hoạt động hỗ trợ can thiệp của cán bộ địa phương đối với người khuyết tật có mặc cảm tự ti. Nghiên cứu hòa nhập xã hội: “Giảm thiểu sự kỳ thị và phân biệt đối xử với người khuyết tật Việt Nam” của Viện nghiên cứu phát triển xã hội, Ban tuyên giáo Trung ương và Mật trận Tổ quốc Việt Nam, 2010. Nghiêm cứu này chỉ ra rằng có 14 khó khăn mà người khuyết tật gặp phải trong đó có khó khăn trong việc tiếp cận các công trình công cộng. Nghiên cứu của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội với Đề tài: “Vai trò của tổ chức người tàn tật trong việc xây dựng các chính sách, chương 8
  10. trình quốc gia về dạy nghề và việc làm cho người khuyết tật của bộ thương binh lao động và xã hội”. Trong nghiên cứu này, đề cập đến việc xây dựng và thực hiện các chính sách cho người khuyết tật để họ được đáp ứng nhu cầu việc làm của mình, họ được tư vấn hỗ trợ dạy nghề, qua đây người khuyết tật biết được những nơi có thể nhận mình vào làm việc, để có thể có một công việc phù hợp với bản thân. Bài báo khoa học: “Đảm bảo tính công bằng đối với người khuyết tật trong việc sử dụng phương tiện vận tải đường sắt Việt Nam” của tác giả Bùi Thị Hoàng Lan đăng trên Tạp chí Xã hội học số 1(117), 2012. Thông qua điều tra 1000 phiếu ở Hà Nội, Đà Nẵng, bài viết phân tích, đánh giá thực trạng cơ sở hạ tầng giao thông, phương tiện vận tải đường sắt phục vụ nhu cầu đi lại của người khuyết tật và gợi mở hàm ý chính sách nhằm đảm bảo công bằng tiếp cận phương tiện vận tải đường sắt của NKT Việt Nam. Cuốn sách: “Việt Nam: Điều tra quốc gia người khuyết tật 2016” do Nhà xuất bản Thống kê ấn hành năm 2018. Công trình là kết quả của cuộc tổng điều tra quốc gia quy mô lớn về người khuyết tật Việt Nam với bộ công cụ đo lường chuẩn mực quốc tế đã góp phần cung cấp bức trang về hiện trạng khuyết tật dân số và các điều kiện sống liên quan phục vụ lập kế hoạch, chính sách về người khuyết tật dựa trên bằng chứng, giám sát, đánh giá thực hiện chính sách, pháp luật về người khuyết tật của Việt Nam,…. Cuốn sách: “Trẻ em khuyết tật ở Việt Nam qua kết quả điều tra quốc gia về người khuyết tật Việt Nam 2016 - 2020” do Unicef và Tổng cục Thống kê thực hiện, ấn hành tháng 11 năm 2018. Công trình cung cấp số liệu cập nhật, toàn diện trên nhiều chiều cạnh về người khuyết tật là trẻ em ở Việt Nam, quan điểm và thái độ của Nhà nước cũng như cộng đồng đối với trẻ em khuyết tật. 9
  11. Cuốn sách: “Hỏi đáp chính sách pháp luật về người khuyết tật” do Nhà xuất bản Lao động - Xã hội ấn hành năm 2012. Quyển sách trình bày 3 phần chính là những vấn đề chung, những vấn đề cụ thể về cơ chế, chính sách, pháp luật về người khuyết tật ở nước ta và quản lý nhà nước về người khuyết tật. Báo cáo Nghiên cứu, đánh giá tình hình thực hiện các quy định của Bộ luật lao động và các văn bản có liên quan về lao động là người khuyết tật do Uỷ ban Quốc gia về Người khuyết tật Việt Nam soạn thảo vào tháng 1/2018. Báo cáo đã đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về lao động là người khuyết tật, trong đó tập trung vào việc tổ chức thực hiện các quy định tại Mục 4, Chương XI của Bộ luật lao động về lao động là người khuyết tật, trên cơ sở đó đề xuất điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung quy định đối với lao động là người khuyết tật trong Bộ Luật Lao động phù hợp với điều kiện thực tế nhằm tăng cường khả năng tham gia thị trường lao động, tăng số lượng và cải thiện chất lượng việc làm của lao động là người khuyết tật trong thị lao động, góp phần thúc đẩy hiện thực hóa đầy đủ quyền của người khuyết tật Việt Nam. Thực trạng hiện nay trên địa bàn tỉnh Bình Dương có rất đông dân cư từ các tỉnh thành khác đến định cư sinh sống và làm việc, cho nên cần có một giải pháp kịp thời hỗ trợ cho cộng đồng NKT trên địa bàn tỉnh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn hướng đến mục đích đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách hỗ trợ cho người khuyết tật ở tỉnh Bình Dương. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, luận văn tiến hành thực hiện các nhiệm vụ sau: - Làm rõ cơ sở lý luận về thực hiện chính sách hỗ trợ cho NKT. 10
  12. - Đánh giá thực trạng về việc thực hiện chính sách hỗ trợ cho NKT tại tỉnh Bình Dương. - Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách hỗ trợ cho NKT tại tỉnh Bình Dương. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng: Thực hiện chính sách hỗ trợ trợ cho NKT tại tỉnh Bình Dương hiện nay. 4.2. Phạm vi - Về thời gian: Dữ liệu phục vụ nghiên cứu này trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2020. - Về không gian: Tỉnh Bình Dương. - Về nội dung: Thực hiện chính sách hỗ trợ cho NKT tại tỉnh Bình Dương. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm lịch sử - cụ thể, quan điểm toàn diện, nguyên lý về sự phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin để nhìn nhận, khám phá đối tượng được nghiên cứu. Ngoài ra, Đề tài sử dụng cơ sở lý luận khoa học của ngành chính sách công kết hợp tri thức của một số ngành khoa học có liên quan khác như luật học, quản lý học, xã hội học,.... Vận dụng lý thuyết chính sách công qua thực tiễn giúp hình thành lý luận về thực hiện chính sách hỗ trợ cho NKT trên địa bàn. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp thu thập tài liệu: Đề tài sử dụng phương pháp thu thập, tổng hợp số liệu thứ cấp từ các địa phương của tỉnh Bình Dương từ đó nắm bắt được các thông tin thực tế, khách quan để có những căn cứ cần thiết để kết luận nghiên cứu khoa học. 11
  13. Tài liệu sử dụng trong nghiên cứu này chủ yếu là các công trình nghiên cứu, các tài liệu của Đảng và Nhà nước về NKT, các chương trình, kế hoạch của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, đặc biệt là các công văn, văn bản chỉ đạo của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh Bình Dương về hỗ trợ chính sách cho NKT. Qua phương pháp này, tác giả sẽ tìm hiểu, nghiên cứu cơ sở lý luận, quan điểm và định hướng của Đảng, Nhà nước cũng như kết quả chủ yếu về thực hiện chính sách hỗ trợ cho người khuyết tật hiện nay. Phương pháp phân tích, đánh giá tài liệu nghiên cứu: Trên cơ sở các tài liệu, thông tin và dữ liệu thu thập được, tác giả sẽ phân tích, đánh giá, xem xét trên bình diện khoa học chính sách công. Từ đó, có những đề xuất phù hợp nhằm hoàn thiện quá trình thực hiện chính sách hỗ trợ cho NKT. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn là đề tài nghiên cứu thuộc ngành chính sách công, nghiên cứu, đánh giá những nội dung về thực hiện chính sách hỗ trợ cho NKT; giúp người đọc nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn về các quan điểm, định hướng, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác quan tâm chăm sóc, hỗ trợ cho NKT trong xã hội hiện nay. Kết quả nghiên cứu bổ sung tri thức thực tiễn cho ngành chính sách công vốn còn khá mới ở Việt Nam. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Một là, kết quả luận văn có thể là tài liệu tham khảo, căn cứ tham vấn trong xây dựng, thực hiện chính sách hỗ trợ cho NKT ở tỉnh Bình Dương. Hai là, kết quả nghiên cứu của luận văn gián tiếp khẳng định bản chất ưu việt, tốt đẹp của chế độ ta; đồng thời, khẳng định một trong thuộc tính của chính sách công, chính sách xã hội là tính công lợi, tính nhân văn, nhân đạo cao cả. 12
  14. Ba là, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu về khoa học chính sách công, chính sách hỗ trợ cho NKT tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành về chính sách công và chính sách xã hội, trung tâm bảo trợ xã hội, trường khuyết tật,… Đồng thời, kết quả nghiên cứu của đề tài này cũng có thể giúp cho tỉnh Bình Dương có thể xây dựng được kế hoạch, hoạch định và thực hiện được chính sách hỗ trợ NKT trong các năm kế tiếp. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được chia làm 3 chương, cụ thể như sau: - Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách hỗ trợ cho NKT. - Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách hỗ trợ cho NKT tại tỉnh Bình Dương. - Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách hỗ trợ cho NKT tại tỉnh Bình Dương. 13
  15. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ NGƯỜI KHUYẾT TẬT 1.1. Khái niệm chính sách và chính sách công Để hiểu rõ bản chất của đối tượng nghiên cứu trong luận văn này thì việc tiếp cận và làm rõ khái niệm chính sách, chính sách công có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. 1.1.1. Chính sách Thuật ngữ “chính sách” dù được sử dụng phổ biến ở nhiều phương diện của đời sống xã hội nhưng đến nay vẫn chưa có nhận thức thống nhất được nội hàm của nó. Theo từ điển tiếng Anh (Oxford English Dictionary), chính sách là “đường lối hành động được thông qua bởi chính quyền, nhà cai trị và chính khách”. Đáng chú ý ở định nghĩa này chính là (i). xác định rõ bản chất của chính sách - “đường lối” (nhấn mạnh đến cách thức, biện pháp giải quyết các vấn đề phát sinh nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng), (ii). Sự đa dạng của chủ thể của chính sách (chính sách là công cụ của nhiều chủ thể nhằm đạt được mục tiêu, cả trong khu vực công và khu vực tư). Theo nhà nghiên cứu Hugh Heclo (1972), chính sách là đường lối hành động và không hành động thay vì những quyết định/ hành động cụ thể. Có lẽ, chính sách công theo quan điểm của Helco chính là giải pháp có tính định hướng, dẫn dắt hơn là các hoạt động, kế hoạch để giải quyết các công việc cụ thể của các chủ thể. Đối với Smith (1976), nhà nghiên cứu này cho rằng, chính sách bao hàm cả sự lựa chọn có tính chủ đích của hành động hoặc không hành động. Quan điểm này đúng trong nhiều trường hợp song không phải là tất cả. Trong chính 14
  16. sách, việc ứng phó với các vấn đề bằng sự “im lặng” (tức không hành động) đôi khi phản ánh sự hạn chế về tầm nhìn, tư duy chính sách, sự yếu đuối của chủ thể để giải quyết các vấn đề đặt ra. Từ điển Bách khoa Việt Nam cho rằng: “chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa,...” [7, tr. 478]. Trong khi đó, Từ điển tiếng Việt thì định nghĩa, chính sách “là sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt được mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị và tình hình thực tế mà đề ra” [23, tr. 157]. Như vậy, kế thừa các nghiên cứu trên đây, chính sách trong nghiên cứu này được hiểu là tập hợp các quyết định (chứa đựng mục tiêu, nội dung và giải pháp) do các chủ thể ban hành nhằm giải quyết các vấn đề phát sinh hoặc được quan tâm. 1.1.2. Chính sách công Nội hàm của chính chính sách công không đơn thuần là sự gắn ghép một cách cơ học của hai thuật ngữ thành phần mà bản thân nó phản ánh sự khác biệt về chất, đặc trưng cốt lõi. Quá trình nhận thức về chính sách công là lâu dài, ngày càng hoàn thiện với các khuynh hướng tiếp cận khá đa dạng. Quan điểm của Thomas Dye (1972) thì cho rằng “chính sách công là bất kỳ những gì nhà nước lựa chọn làm hoặc không làm”. Cách tiếp cận này khá giống với nhận thức về chính sách của Hugh Heclo và Smith đã giới thiệu hay cách mà nhà nghiên cứu Pal bàn luận [4, tr. 9-10]. Đáng lưu ý, chính sách công theo cách tiếp cận của Dye là sản phẩm hành động của nhà nước chứ không phải của các chủ thể phi nhà nước. 15
  17. Nhà nghiên cứu William Jenkins (1978) thì cho rằng, “chính sách công là tập hợp các quyết định liên quan với nhau được ban hành bởi một hoặc nhóm các nhà hoạt động chính trị liên quan đến lựa chọn mục tiêu và các phương tiện để đạt mục tiêu trong tình huống xác định thuộc phạm vi thẩm quyền” [29, tr. 6]. Quan điểm của Jenkins giúp nhận thức về bản chất của chính sách công rõ ràng hơn. Đó là sự mở rộng về chủ thể chính sách công - nhà hoạt động chính trị (ngoài thiết chế ( nhà nước), xác định tính hệ thống của chính sách công - “tập hợp các quyết định có liên quan với nhau” và nhất là làm rõ cấu trúc của bản chính sách bao gồm mục tiêu và phương tiện thực hiện chính sách. William N. Dunn (1992) trong các nghiên cứu của mình thì cho rằng, chính sách công là kết hợp phức tạp những sự lựa chọn liên quan lẫn nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do các cơ qun nhà nước hay công chức nhà nước đề ra [4, tr. 9-10]. Như nhiều nghiên cứu của các tác giả trước, N. Dunn cũng khẳng định tính tập hợp, thống nhất của bản chính sách công, chủ thể là nhà nước. Đặc biệt, ông dùng “sự lựa chọn” khi nói về chính sách công để khẳng định tính cân nhắc nhiều chiều trước khi khởi sự vòng đời một chính sách và vì vậy điều này giúp phân biệt với các quyết định hành chính của các cơ quan nhà nước để giải quyết từng vụ việc cụ thể. Tác giả Birkland trong quá trình thu thập các cách hiểu phổ biến về chính sách đã đưa ra 5 nội dung cơ bản về chính sách công, tựu chung: (i). Chủ thể chính sách công là chính phủ; (ii). chính sách công mang tính thực tiễn, hành động có ảnh hưởng đến đời sống công dân (iii). chính sách công phải gắn với sự cân nhắc các mục tiêu khi hành động để hài hòa lợi ích các bên liên quan; (iv). hình thức biểu hiện là các quyết định chính trị,... Gần đây, một số học giả uy tín trong giới chính sách cũng bước đầu hoàn thiện cách tiếp cận của mình về chính sách công. Chẳng hạn, James Anderson 16
  18. cho rằng chính sách công là đường lối hành động có mục đích được ban hành bởi một đường lối hành động có mục đích được ban hành bởi một hoặc tập hợp các nhà hoạt động để giải quyết một vấn đề phát sinh hoặc vấn đề quan tâm [29, tr.6]. Quan điểm này đáng chú ý bởi đã giúp mở rộng quan điểm về chủ thể chính sách công - “các nhà hoạt động” thay vì chỉ duy nhất các nhà hoạt động trong bộ máy nhà nước như W. Jenkins và T. Dye đã bàn luận. Ngoài ra, hai tác giả là Kraft và Furlong (2004) cho rằng, chính sách công là một quá trình hành động hoặc không hành động của chính quyền để đáp lại một vấn đề công cộng. Nó được kết hợp với các cách thức và mục tiêu chính sách đã được chấp thuận một cách chính thức cũng như các quy định và thông lệ của các cơ quan chức năng thực hiện những chương trình [8]. Ở Việt Nam, nhận thức về chính sách công phản ánh quá trình tiếp cận với nghiên cứu quốc tế và sự hoàn thiện dần các hướng tiếp cận trong nghiên cứu, thậm chí mang tính đặc thù. Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam thì định nghĩa chính sách công là “chủ trương và biện pháp của một đảng phái, một chính phủ trong các lĩnh vực chính trị - xã hội” [9, tr. 222] và quan điểm này hoàn toàn thống nhất trong Từ điển Tiếng Việt thông dụng (1998). Viện Chính trị học (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) thì cho rằng “chính sách công là chương trình hành động hướng đích của chủ thể nắm hoặc chi phối quyền lực công cộng” [24, tr. 235] hay một tập thể tác giả khác thì đánh giá “chính sách công là một tập hợp những quyết định liên quan đến nhau do nhà nước ban hành, bao gồm các mục tiêu và giải pháp để giải quyết một vấn đề công nhằm đạt được mục tiêu phát triển” [6, tr. 10]. Bên cạnh đó, tác giả Lê Chi Mai (2008) cũng đã đưa ra một cách hiểu về thuật ngữ chính sách công dùng để chỉ một chuỗi các quyết định hoạt động của nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chung đang đặt ra trong đời sống kinh tế - 17
  19. xã hội theo mục tiêu xác định. Tác giả Nguyễn Hữu Hải (2013) thì cho rằng: “chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau do nhà nước ban hành, bao gồm các mục tiêu và giải pháp để giải quyết một vấn đề công nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng nhất định” [3, tr. 21- 22]. Ngoài những nội hàm khá thống nhất với các nhà nghiên cứu đi trước, tác giả Đỗ Phú Hải (2017) trong tác phẩm của mình thì quan niệm “chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan để “lựa chọn” mục tiêu và giải pháp, công cụ chính sách nhằm giải quyết các vấn đề chính sách theo mục tiêu tổng thể đã xác định của đảng chính trị cầm quyền” [4, tr. 9-10]. Nổi bật của quan niệm này chính là tính “cân nhắc” “lựa chọn” các vấn đề thuộc về chính sách công cũng như xác lập mối quan hệ giữa nhà nước và đảng chính trị đối với vòng đời chính sách công. Trong bài nghiên cứu của mình “Bàn về khái niệm chính sách công”, tác giả Hồ Việt Hạnh tuy không đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về chính sách công nhưng với 7 cách tiếp cận chính sách công từ góc độ quyền lực trong sự so sánh với chính sách tư đã cung cấp nhiều nhận thức mới mẻ, có tính gợi mở cao về chính sách công gắn với thực tiễn Việt Nam như “cộng đồng chính sách công, tính tương đối của chính sách công, quan trọng là bảo vệ quan điểm “Đảng, Nhà nước” là hai thực thể của chính sách công xuất phát từ đặc thù lịch sử của Việt Nam [5, tr. 4-6]. Thông qua các cách tiếp cận từ các nhà nghiên cứu trong, ngoài nước, để phục vụ nghiên cứu luận văn này thì khái niệm chính sách công được hiểu là tập hợp các quyết định (chứa đựng mục tiêu, giải pháp và công cụ) do các chủ thể nắm hoặc chi phối quyền lực công ban hành nhằm giải quyết các vấn đề chung, qua đó thúc đẩy xã hội phát triển hài hòa, bền vững. 18
  20. 1.1.3. Khái niệm người khuyết tật Theo tổ chức Y tế Thế giới, có ba mức độ suy giảm là: khiếm khuyết (impairment), khuyết tật (disability) và tàn tật (handicap). Khiếm khuyết chỉ dẫn đến sự mất mát hoặc không bình thường của cấu trúc cơ thể liên quan đến tâm lý hoặc sinh lý. Khuyết tật chỉ đến sự giảm thiểu chức năng hoạt động, là hậu quả của sự khiếm khuyết. Còn tàn tật là đề cập đến tình thế bất lợi hoặc thiệt thòi của người mang khiếm khuyết do tác động của môi trường xung quanh lên tình trạng khuyết tật của họ. Theo quan điểm của Tổ chức quốc tế Người khuyết tật, người khuyết tật trở thành tàn tật là do thiếu cơ hội để tham gia các hoạt động xã hội và có một cuộc sống giống như các thành viên khác (DPI, 1982). Do vậy, khuyết tật là một hiện tượng phức tạp, phản ánh sự tương tác giữa csc tính năng cơ thể và các tính năng xã hội mà trong đó người khuyết tật song. Theo Luật Bảo vệ người khuyết tật năm 1990 của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, tại Điều 2 quy định: “Người khuyết tật một trong những người bị bất thường, mất mát của một cơ quan nhất định hoặc chức năng, tâm lý hay sinh lý, hoặc trong cấu trúc giải phẫu và những người đã mất toàn bộ hoặc một phần khả năng tham gia cào các hoạt động một cách bình thường. “Người khuyết tật” là những người có thính giác, thị giác, lời nói hoặc khuyết tật về thể chất, chậm phát triển tâm thần, khuyết tật nhiều và bệnh khuyết tật khác”. Theo Đạo luật chống phân biệt đối xử với người khuyết tật do Quốc hội Anh ban hành (Disability Discrimination Act - DDA): Người khuyết tật được định nghĩa là “một người có khiếm khuyết về thể chất, tinh thần, giác quan với tác động xấu lâu dài đến khả năng thực hiện các sinh hoạt hàng ngày…”. Cũng theo DDA, khi xét về mặt thời gian tác động thì khiếm khuyết kéo dài hoặc sẽ có thể kéo dài mà ít hơn 12 tháng bình thường không được coi là khuyết tật, trừ khi 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2