Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách môi trường trong quá trình xây dựng nông thôn mới tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang
lượt xem 5
download
Nghiên cứu làm rõ các vấn đề về lý luận và thực trạng thực hiện chính sách môi trường trong xây dựng NTM; Từ đó, đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách môi trường trong quá trình xây dựng NTM tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách môi trường trong quá trình xây dựng nông thôn mới tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ HIẾU XUYÊN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TẠI HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG HÀ NỘI, 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ HIẾU XUYÊN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TẠI HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG Ngành: Chính sách công Mã số: 8340402 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. TRẦN THỊ TUYẾT HÀ NỘI, 2021 1
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam đang trong tiến trình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững đất nước nhằm đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân; xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế với nhiều biện pháp thực thi phù hợp đã góp phần phát huy được nguồn lực con người trong sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng nhưng cũng kéo theo nhiều thách thức, mặt trái của nền kinh tế thị trường, như: ô nhiễm môi trường, gia tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng, lãnh thổ, nhất là khu vực có nguồn lực hạn chế, như: nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Khu vực nông thôn Việt Nam nơi sinh sống của gần 70% dân số với phương thức canh tác nông nghiệp chiếm ưu thế, nhưng đời sống dân cư còn gặp nhiều khó khăn, dẫn đến các áp lực làm ảnh hưởng đến quá trình ổn định và phát triển chung. Để giải quyết những thách thức nêu trên, từng bước đảm bảo tính công bằng giữa các khu vực lãnh thổ. Đảng và Nhà nước đã ban hành, thực thi nhiều chủ trương, giải pháp thúc đẩy các cơ hội phát triển, nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư, nhất là các khu vực khó khăn về nguồn lực. Một trong những chủ trương mang tính bao trùm, tạo động lực rút ngắn khoảng cách giữa khu vực đô thị - nông thôn trên cơ sở phát huy nguồn nội lực, kết hợp với hỗ trợ từ trung ương để phát triển, đó là “Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới” – chương trình thể hiện các mục tiêu trụ cột của phát triển bền vững, gồm: kinh tế - xã hội – môi trường trong bối cảnh triển khai, lồng ghép các chính sách chung; đồng thời, thể hiện tính riêng, đặc thù của khu vực nông thôn thông qua các tiêu chí thành phần; trong đó tiêu chí thứ 17 - tiêu chí về môi trường và an toàn thực phẩm với mục tiêu bảo vệ môi trường sinh thái, cải thiện, nâng cao chất lượng môi trường khu vực nông thôn và đảm bảo an toàn thựcphẩm đã được lồng ghép thực hiện đồng thời. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai xây dựng nông thôn mới, tiêu chí này gặp nhiều khó khăn, bất cập. Có thể nói đây là một tiêu chí khó và thiếu tính bền vững với nhiều nội dung cần thực hiện để đạt theo yêu cầu đề ra, trong khi ô nhiễm môi 2
- trường nông thôn đang ngày càng nghiêm trọng, trở thànhvấn đề bức xúc của xã hội và cộng đồng dân cư mà nguyên nhân trước hết và chủ yếu là do ý thức, tập quán lạc hậu, kết hợp với các phương thức canh tác chưa phù hợp, mang tính “hủy diệt” của người dân. Những vấn đề mang tính nổi cộm, đáng chú ý liên quan đến ô nhiễm môi trường nông thôn, gồm: ô nhiễm môi trường nước do nước thải từ sinh hoạt và hoạt động sản xuất nông nghiệp; ô nhiễm môi trường không khí từ các làng nghề thủ công, hoạt động chăn nuôi, thói quen đốt rác...; chất thải rắn chưa được thu gom và xử lý triệt để; việc sử dụng hoá chất bảo vệ thực vật, nuôi trồng thuỷ sản không đúng qui định... Chính vì vậy, để đảm bảo thực hiện hiệu quả các tiêu chí đã đặt ra, nhất là tiêu chí về môi trường đòi hỏi phải có những nghiên cứu lý luận, tổng hợp, đánh giá thực tiễn để làm cơ sở rút ra bài học kinh nghiệm, đồng thời, đề xuất giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các tiêu chí nông thôn mới trên cơ sở lồng ghép các chính sách phát triển, trong đó, có chính sách môi trường; nhất là, tại các địa phương đã đạt chuẩn nông thôn mới, đang từng bước triển khai các giải pháp phát huy các kết quả đã đạt, làm tiền đề xây dựng nông thôn mới nâng cao, như huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang – huyện đầu tiên đạt chuẩn nông thôn mới quốc gia của tỉnh An Giang. Từ lý do nêu trên, tôi đã lựa chọn đề tài: “Thực hiện chính sáchmôi trường trong quá trình xây dựng nông thôn mới tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang” làm luận văn thạc sỹ cho chuyên ngành chính sách công của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong cả nước đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học, hội thảo khoa học, luận văn thạc sĩ, tiến sĩ nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến chính sách môi trường theo lĩnh vực, quy mô khác nhau, tùy thuộc vào cách tiếp cận và mục tiêu nghiên cứu đặt ra; từ đó, đưa ra các góc nhìn, đánh giá riêng; trong đó, có một số công trình tiêu biểu như : Nguyễn Công Dũng (2018), Quản lý nhà nước của UBND các cấp đối với xây dựng nông thôn mới từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên, tiếp cận nghiên cứu theo khía cạnh luật học; công trình tập trung nghiên cứu mang tính tổng quan, làm rõ các vấn 3
- đề về cơ sở lý luận, thực tiễn của QLNN ở các cấp chính quyền đối với việc triển khai CTMTQG xây dựng NTM. Các kết quả nghiên cứu thông qua đánh giá ảnh hưởng của các chủ thể quản lý, thực trạng QLNN trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên kết hợp với các quan điểm, định hướng của tác giả là cơ sở để đề xuất giải pháp triển khai hiệu quả Chương trình dưới góc độ luật học [10]. Tô Trọng Mạnh (2020), Thực hiện chính sách xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Chính sách công, Học viện khoa học xã hội. Luận án tập trung nghiên cứu có hệ thống và toàn diện cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách nông thôn mới ở nước ta hiện nay; Qua đó làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác tổ chức thực hiện chính sách xây dựng NTM, luận án đề xuất hệ thống giải pháp nâng cao việc thực hiện chính sách xây dựng NTM ở Việt Nam hiện nay [19]. Nguyễn Thanh Bình (2020), Xây dựng chính sách công ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, tập trung nghiên cứu, làm rõ vấn đề lý luận, thực tiễn về xây dựng chính sách công ở Việt Nam trên cơ sở tổng quan khung nghiên cứu có liên quan ở trong và ngoài nước. Từ kết quả nghiên cứu đó, công trình đã đưa ra các nhóm giải pháp hoàn thiện hoạt động xây dựng chính sách công ở nước ta [4]. Hoàng Sỹ Kim (2013), “Thực trạng xây dựng NTM và những vấn đề đặt ra đối với quản lý nhà nước”, công trình nghiên cứu đã làm rõ cơ sở lý thuyết có liên quan đến NTM; từ đó, đề xuất khung nghiên cứu phù hợp. Từ khung lý thuyết, công trình nghiên cứu đã phân tích, đánh giá thực trạng ở Việt Nam cho giai đoạn 2009-2013. Từ đó, đề xuất các nhóm giải pháp cụ thể nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra dựa trên quan điểm phù hợp [18]. Phan Xuân Sơn, Nguyễn Cảnh,“Xây dựng mô hình NTM ở nước ta hiện nay”, đã đề xuất phương pháp cũng như các điều kiện để có thể thực hiện đạt 19 tiêu chí quốc gia về xây dựng NTM trên cơ sở các phân tích về lý luận và bối cảnh nông thôn nước ta [23]. Dưới góc độ triết học, các công trình nghiên cứu của Phạm Huỳnh Minh Hùng (2017), Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong quá trình xây dựng nông thôn 4
- mới ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay và Huỳnh Thanh Hiếu (2016), Phát huy vai trò của nông dân trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay đã làm rõ vai trò của các chủ thể nông thôn trong xây dựng NTM ở cả khía cạnh lý luận và thực tiễn; từ đó, rút ra được những mặt đã đạt được, hạn chế, nguyên nhân trong phát huy nguồn lực của chủ thể nông thôn thực hiện xây dựng NTM. Với các nhận định, phân tích trên, các công trình đã đề xuất một số quan điểm định hướng và giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay [16]. Đỗ Kim Chung, Kim Thị Dung (2018), “Chương trình nông thôn mới ở Việt Nam: Một số vấn đề đặt ra và kiến nghị”, đã đánh giá kết quả thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM; từ đó, chỉ ra một số hạn chế, bất cập trong quá trình thực hiện mục tiêu xây dựng NTM; đồng thời, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách xây dựng NTM [8]. Đào Thế Tuấn (2011), “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn - những vấn đề không thể thiếu trong phát triển bền vững”, đã phân tích, chỉ ra sự liên quan mật thiết giữa phát triển nông nghiệp và tính bền vững của sự phát triển. Theo đó, nếu khoảng cách giữa thành thị và nông thôn ngày càng tăng, phân hóa xã hội quá mức thì dù có đạt được sự tăng trưởng cao cũng chưa thể coi là đã có phát triển; ngoài ra, giải quyết một cách đồng bộ cả ba vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là điều kiện để đạt được mục tiêu chung của đất nước về xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [24]. Bên cạnh các công trình nghiên cứu trên, một số kết quả nghiên cứu về xây dựng NTM cũng đã được một số tác giả công bố trên các Trang thông tin điện tử, đáng lưu ý, như: Ngô Thị Phương Liên (2016), “Giải quyết những tồn tại và hạn chế trong xây dựng nông thôn mới, đã xác định chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, khái quát những thành tựu phong trào xây dựng NTM ở các địa phương, phát huy được sức mạnh của cả xã hội; đồng thời, cũng phân tích đượcnhững tồn tại và hạn chế trong xây dựng NTM, như: trình độ năng lực cán bộ quản lý; công tác quy hoạch lập kế hoạch tổ chức đấu giá đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất…[40]. 5
- Thu Vân (2019), Phát triển bền vững trong xây dựng nông thôn mới, tổng hợp kết quả 10 năm xây dựng nông thôn mới. Trong đó, vùng Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng với 10/17 địa phương cấp tỉnh đạt và vượt mục tiêu được giao đến 2020; 42 đơn vị cấp huyện được công nhận đạt chuẩn/hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM (chiếm 48,27% tổng số đơn vị cấp huyện đã được công nhận của cả nước) [41]. Hương Diệp (2019), Tổng kết 10 năm Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, đã khẳng định cốt lõi của nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới đó là không ngừng nâng cao hơn nữa chất lượng cuộc sống của người dân nông thôn, miền núi; cần phải tiếp tục bảo tồn, phát huy; tiếp tục xây dựng hệ thống chính trị, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể dưới sự lãnh đạo của Đảng không ngừng vững mạnh để phục vụ nhân dân [42]. Từ những công trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến công tác xây dựng NTM ở các địa phương đều khẳng định tính đúng đắn của CTMTQG về xây dựng NTM. Các công trình nghiên cứu đã làm rõ hơn về mặt cơ sở lý luận, kết hợp với phân tích thực trạng ở cách tiếp cận chuyên ngành khác nhau; từ đó, làm cơ sở giúp các nhà quản lý nhìn nhận được vấn đề có liên quan, rút ra bài học để triển khai ngoài thực tiễn ở các địa phương. Tuy nhiên, tác giả vẫn chưa tiếp cận được công trình nghiên cứu về thực hiện chính sách môi trường trong triển khai Chương trình và nghiên cứu về xây dựng NTM tại địa bàn huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Vì vậy, để có cái nhìn toàn diện, khách quan về triển khai Chương trình tại khu vực nghiên cứu, tác giả sẽ vận dụng, kế thừa các kết quả nghiên cứu từ các công trình trên để làm rõ về mặt lý luận, thực tiễn những vấn đề có liên quan đến thực hiện chính sách môi trường trong xây dựng NTM tại huyện Thoại Sơn dưới tiếp cận chính sách công; từ đó, đề xuất các giải pháp triển khai hiệu quả việc “Thực hiện chính sách môi trường trong quá trình xây dựng nông thôn mới tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang” trong giai đoạn tới. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu làm rõ các vấn đề về lý luận và thực trạng thực hiện chính sách môi 6
- trường trong xây dựng NTM; từ đó, đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách môi trường trong quá trình xây dựng NTM tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Phân tích một số vấn đề lý luận về thực hiện chính sách môi trường trong xây dựng NTM. - Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách môi trường trong xây dựng NTM tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. - Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách môi trường trong xây dựng NTM tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Thực hiện chính sách môi trường trong xây dựng nông thôn mới từ thực tiễn tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu về tiêu chí môi trường trong xây dựng nông thôn mới. Phạm vi về không gian: địa bàn huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Phạm vi về thời gian : Từ 2010 đến 2020, giải pháp đến năm 2025. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Để giải quyết nhiệm vụ đặt ra, đề tài luận văn vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; các quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước để nhận thức tiến trình hình thành, triển khai các vấn đề liên quan đến thực hiện chính sách môi trường trong xây dựng NTM. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu mang tính truyền thống của khoa học xã hội để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra. Cụ thể: phương pháp tổng quan, thu thập, phân tích, xử lý thông tin sơ cấp, so sánh 7
- dữ liệu, số liệu từ những cơ quan quản lý nhà nước để đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về môi trường ở địa phương, cụ thể như: Phương pháp tổng quan, thu thập số liệu, xử lý thông tin sơ cấp: đề tài sử dụng phương pháp thu thập số liệu từ nhiều nguồn khác nhau, từ các văn bản pháp luật đến các công trình nghiên cứu khoa học, bài viết, báo cáo tổng kết từ trung ương, các địa phương khác nhau trong lĩnh vực nghiên cứu, để có cái nhình tổng quan, toàn diện phục vụ đề tài nghiên cứu khoa học của mình. Phương pháp phân tích tổng hợp: trên cơ sở các tài liệu, thông tin và dữ liệu thu thập được tác giả tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách môi trường trong quá trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Thoại Sơn, xem xét trên bình diện khoa học chính sách công và từ đó có những đề xuất phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách môi trường trong quá trình xây dựng nông thôn mới tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Phương pháp so sánh: tiếp cận khung kiến thức khoa học chính sách công đề tài đã sử dụng phương pháp so sánh để đánh giá kết quả thực hiện chính sách môi trường trong quá trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện so với các địa phương khác. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu góp phần làm rõ nội dung nghiên cứu về thực hiện chính sách môi trường trong xây dựng nông thôn mới theo tiếp cận của khoa học chính sách công. Giúp có một cách nhìn cụ thể hơn về chính sách công trong một lĩnh vực cụ thể. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của Luận văn đã đề xuất các giải pháp cụ thể có thể sử dụng để áp dụng thực hiện công tác bảo vệ môi trường trong xây dựng nông thôn tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang trong những năm tiếp theo nhằm tiến tới hoàn thành mục tiêu huyện nông thôn mới nâng cao. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, kết luận, Luận văn gồm có 3 chương: 8
- Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách môi trường trong xây dựng nông thôn mới. Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách môi trường trong quá trình xây dựng nông thôn mới tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách môi trường trong quá trình xây dựng nông thôn mới tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. 9
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI 1.1. Chương trình xây dựng nông thôn mới 1.1.1. Nông thôn và nông thôn mới Quan niệm về nông thôn Qua tổng quan tài liệu cho thấy: Tùy thuộc vào từng tiêu chí, cách nhìn nhận ở các quốc gia hay cách tiếp cận nghiên cứu sẽ có những khái niệm khác nhau về “Nông thôn”; nhưng thông thường được so sánh với thành thị. Điển hình, như: Theo Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO), có thể định nghĩa nông thôn theo hai phương thức: (i) Thành thị được xác định bởi luật, là tất cả các trung tâm của tỉnh, huyện; các vùng còn lại được xác định là nông thôn; (ii) Căn cứ vào mức độ tập trung dân cư sinh sống thành cụm từ đó quan sát xác định vùng thành thị. Đối với Việt Nam hiện nay, chúng ta sử dụng phương thức thứ nhất để phân biệt khu vực thành thị và nông thôn. Theo Từ điển Tiếng Việt, nông thôn là “Khu vực dân cư tập trung chủ yếu làm nghề nông; phân biệt với thành thị”. Nông thôn là vùng sinh sống của tập hợp dân cư, trong đó nông dân chiếm ưu thế với sản xuất nông nghiệp có tỷ trọng cao. Công tác quản lý giữa nông thôn và thành thị có sự khác biệt; đối với nông thôn, xã, thôn, bản là cấp quản lý; còn thành thị với cấp quản lý là phường, thị trấn [31]. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Nông thôn là vùng lãnh thổ của một nước hay một số đơn vị hành chính nằm ngoài lãnh thổ đô thị, có môi trường tự nhiên, hoàn cảnh kinh tế xã hội, điều kiện sống khác biệt với thành thị và dân cư chủ yếu làm nông nghiệp” [15]. Đến nay, khái niệm nông thôn được thống nhất với quy định tại Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21-8-2009 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, cụ thể: “Nông thôn là vùng lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là UBND xã”. Khái niệm này, được đề tài sử dụng trong quá trình nghiên cứu các nội dung có liên quan; gồm các đặc trưng về cấp quản lý hành chính là UBND xã; nơi phân bố cư trú của 10
- dân cư về mặt không gian là các điểm quần cư nông thôn với phương thức sản xuất có quan hệ trực tiếp với nguồn vốn tự nhiên, nhất là đất đai – tư liệu sản xuất chủ yếu gắn với các hoạt động lao động nông nghiệp chiếm ưu thế. Quan niệm về nông thôn mới Nông thôn mới trước tiên là nông thôn, không phải thị tứ, thị trấn, thị xã, thành phố và khác với nông thôn truyền thống hiện nay. Có thể khái quát theo 7 nội dung cơ bản sau: nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân; có kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội phù hợp; cơ cấukinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn phát triển nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị; xã hội nông thôn dân chủ, bình đẳng, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; quốc phòng an ninh, trật tự được giữvững[7]. Nông thôn mới chính là nông thôn tiến bộ, cơ sở hạ tầng đồng bộ, đời sống văn hóa phong phú, mức sống dân cư được cải thiện thông qua đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, tăng cường các giá trị phát triển công nghiệp, dịch vụ theo quy hoạch, đảm bảo tính phát triển bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường; nhưng vẫn giữ được tính truyền thống, những nét đặc trưng nhất, bản sắc từng vùng, từng dân tộc và nâng cao giá trị đoàn kết của cộng đồng. Theo Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày05/8/2008 đã nhấn mạnh: Nông thôn mới là nông thôn có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch. Trên cơ sở các quan niệm về nông thôn mới, đề tài sử dụng quan niệm được quy định tại Nghị quyết số 26-NQ/TW; theo đó, nông thôn mới là nông thôn được đầu tư đồng bộ các nguồn lực để phát huy được năng lực nội tại theo các định hướng quy hoạch, đảm bảo sự hài hòa giữa các mục tiêu phát triển bền vững; đồng thời, từng bước nâng cao chất lượng sống của dân cư, rút ngắn khoảng cách với khu vực đô thị. 1.1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng nông thôn mới Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 05/8/2008 về nông nghiệp, nông thôn và nông dân đã xác định nhiệm vụ xây dựng “Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới” với mục tiêu chung: Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, hài hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở 11
- các vùng còn nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới. Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường. Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức vững mạnh, tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết được xác định là văn kiện chỉ đạo quan trọng, tạo tiền đề để các cấp chính quyền triển khai công tác xây dựng nông thôn mới. Trong năm 2008, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28 tháng 10 năm 2008 của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW xác định nhiệm vụ xây dựng “Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới”; khẳng định và bổ sung nhiệm vụ của Chính phủ, các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và Chương trình hành động của Chính phủ (Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28/10/2008), Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 800/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2020 và Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 với các mục tiêu cụ thể đến năm 2020 là trên 50% số xã đạt chuẩn NTM. Căn cứ tinh thần chỉ đạo của các văn bản Nghị quyết Trung ương, các Bộ, cấp chính quyền địa phương đã triển khai thực hiện theo các tiêu chí phù hợp, cùng với 100% số xã trong huyện đạt chuẩn nông thôn mới (Bảng 1.1). 12
- Bảng 1.1. Tiêu chí huyện nông thôn mới 1. Có 100% số xã trong huyện đạt chuẩn nông thôn mới. 2. Có tất cả các tiêu chí sau đạt chuẩn theo quy định: TT Tên tiêu chí Nội dung tiêu chí Chỉ tiêu Có quy hoạch xây dựng trên địa bàn huyện được phê 1 Quy hoạch Đạt duyệt 2.1. Hệ thống giao thông trên địa bàn huyện đảm bảo kết Đạt 2 Giao thông nối tới các xã 2.2. Tỷ lệ km đường huyện đạt chuẩn theo quy hoạch 100% Hệ thống thủy lợi liên xã đồng bộ với hệ thống thủy lợi 3 Thủy lợi Đạt các xã theo quy hoạch Hệ thống điện liên xã đồng bộ với hệ thống điện các xã 4 Điện theo quy hoạch, đảm bảo yêu cầu kỹ thuật của cả hệ Đạt thống 5.1. Bệnh viện huyện đạt tiêu chuẩn bệnh viện hạng 3; Đạt Trung tâm y tế huyện đạt chuẩn quốc gia Y tế - Văn hóa - 5.2. Trung tâm Văn hóa - Thể thao huyện đạt chuẩn, 5 Giáo dục có nhiều hoạt động văn hóa - thể thao kết nối với các xã Đạt có hiệu quả 5.3. Tỷ lệ trường Trung học phổ thông đạt chuẩn ≥ 60% Hình thành vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung; hoặc có mô hình sản xuất theo chuỗi giá trị, tổ 6 Sản xuất Đạt chức liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ các sản phẩm chủ lực của huyện. 7.1. Hệ thống thu gom, xử lý chất thải rắn trên địa bàn Đạt huyện đạt tiêu chuẩn 7 Môi trường 7.2. Cơ sở sản xuất, chế biến, dịch vụ (công nghiệp, làng nghề, chăn nuôi, chế biến lương thực - thực phẩm) thực 100% hiện đúng các quy định về bảo vệ môi trường An ninh, trật tự xã 8 Đảm bảo an toàn an ninh, trật tự xã hội Đạt hội 9.1. Ban Chỉ đạo Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới cấp huyện được kiện toàn tổ chức Đạt Chỉ đạo xây dựng 9 và hoạt động đúng quy định nông thôn mới 9.2. Văn phòng Điều phối Chương trình nông thôn mới Đạt cấp huyện được tổ chức và hoạt động đúng quy định Nguồn: Quyết định số 558/QĐ-TTg ngày 05/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Tiêu chí huyện nông thôn mới và Quy định thị xã, thành phố trực thuộc cấp tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới 13
- Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới là một chương trình tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội, chính trị và an ninh quốc phòng do Chính phủ Việt Nam xây dựng và triển khai trên phạm vi nông thôn toàn quốc, căn cứ tinh thần của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Xây dựng NTM là cuộc cách mạng và cuộc vận động lớn để cộng đồng dân cư ở nông thôn đồng lòng xây dựng nông thôn khang trang, sạch đẹp; phát triển sản xuất toàn diện (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ); có nếp sống văn hoá, môi trường và an ninh nông thôn được đảm bảo; thu nhập, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao. Xây dựng NTM là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị. NTM không chỉ là vấn đề kinh tế - xã hội, mà là vấn đề kinh tế - chính trị tổng hợp; giúp cho nông dân có niềm tin, trở nên tích cực, chăm chỉ, đoàn kết giúp đỡ nhau xây dựng nông thôn phát triển giàu đẹp, dân chủ, văn minh. 1.1.3. Nguyên tắc xây dựng nông thôn mới Xây dựng NTM theo phương châm phát huy vai trò chủ thể của cộng đồng dân cư địa phương là chính, Nhà nước đóng vai trò định hướng, ban hànhcáctiêuchí,quychuẩn,đặtracácchínhsách,cơchếhỗtrợvàhướngdẫn triển khai; Các hoạt động cụ thể do chính cộng đồng người dân ở thôn, xã bàn bạc dân chủ để quyết định và tổ chức thực hiện. Được thực hiện trên cơ sở kế thừa và lồng ghép các chương trình MTQG, chương trình hỗ trợ có mục tiêu, các chương trình, dự án khác đangtriển khai ở nông thôn, có bổ sung dự án hỗ trợ đối với các lĩnh vực cần thiết; có cơ chế, chính sách khuyến khích mạnh mẽ đầu tư của các thành phần kinh tế; huyđộngđónggópcủacáctầnglớpdâncư; Được thực hiện gắn với các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng của mỗi địa phương (xã, huyện, tỉnh); có quy hoạch và cơ chế đảm bảo cho phát triển theo quy hoạch (trên cơ sở các tiêu chuẩn kinh tế, kỹ thuật do các Bộ chuyên ngànhbanhành). Là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; cấp uỷ Đảng,Chính quyền đóng vai trò chỉ đạo, điều hành quá trình xây dựng quy hoạch, kế hoạch, tổ chức thực 14
- hiện; Hình thành cuộc vận động “toàn dân xây dựng nông thôn mới”do Mặt trận Tổ quốc chủ trì cùng các tổ chức chính trị - xã hội vận động mọi tầng lớp nhân dân phát huy vai trò chủ thể trong việc xây dựng nôngthônmới. Mục tiêu của chính sách xây dựng nông thôi mới Các cấp chính quyền địa phương đã xác định tăng trưởng nông, lâm, thuỷ sản đạt 4 – 4,5%/năm; sử dụng đất nông nghiệp hiệu quả, kết hợp với phát triển công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân. Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn; Nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; Nâng cao năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai… Ngăn chặn, xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường, từng bước nâng cao chất lượng môi trường nông thôn . Nội dung của chính sách xây dựng nông thôi mới Về quy hoạch NTM: Quản lý xây dựng nông thôn mới theo quy hoạch, bảo đảm theo tiêu chí quy hoạch xây dựng nông thôn mới, quy hoạch xây dựng, sản xuất và quy hoạch sử dụng đất; Về xây dựng cơ sở hạ tầng: đầu tư xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội - văn hoá - an ninh, nâng cao chất lượng dịch vụ công, dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe và chất lượng hưởng thụ của người dân; Về phát triển sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân: Mục tiêu cốt lõi của chương trình xây dựng NTM là nâng cao đời sống cho người dân nên nhiều địa phương đã đề ra những chủ trương, chính sách khuyến khích người dân xây dựng mô hình kinh tế để nâng cao thu nhập cho người dân theo tiêu chí NTM, ngoài việc đẩy mạnh xây dựng các công trình hạ tầng ở nông thôn, thì việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, phát huy hiệu quả các chương trình dự án hỗ trợ phát triển sản xuất phù hợp với điều kiện thực tế ở mỗi địa phương; Về văn hóa, xã hội, môi trường: nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo đảm môi trường xanh-sạch-đẹp; bảo đảm an ninh trật tự, gìn giữ các giá trị văn hóa của cộng đồng, văn hóa nông thôn, đồng thời xây dựng và phát triển văn hóa, con người toàn diện, kỹ năng ứng xử, năng lực bản thân đáp ứng được yêu cầu cuộc sống nông thôn mới trong giai đoạn hiện nay; 15
- Về xây dựng hệ thống chính trị: Để triển khai thực hiện chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới trên cơ sở quan điểm chỉ đạo đồng bộ thống nhất của các cấp, các ngành và toàn hệ thống chính trị; đồng thời nêu cao vai trò chủ thể xây dựng nông thôn mới, sự đồng thuận, ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân trong quá trình triển khai thực hiện tại các địa phương. 1.2. Thực hiện chính sách môi trường trong xây dựng nông thôn mới 1.2.1. Thực hiện chính sách công Nhà nước là chủ thể sử dụng quyền lực nhà nước do nhân dân trao cho nhằm quản lý xã hội phục vụ sự phát triển chung của đất nước; nhà nước sử dụng nhiều công cụ nhằm thực hiện chức năng của mình trong đó một công cụ quan trọng chính là chính sách; không chỉ tác động đến một khu vực, một bộ phận dân cư nhất định, mà tác động rộng khắp đến mọi đối tượng, mọi quá trình trên phạm vi toàn quốc; tác động của nhà nước đến các đối tượng có thể mang tính chính trị, hành chính, kinh tế hay kỹ thuật được lồng ghép vào các cơ chế quản lý điều hành thống nhất; đồng thời trong những thời kỳ phát triển khác nhau, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước cũng có sự thay đổi một cách thích hợp, vì thế mà quan niệm về chính sách công cũng được tiếp cận từ các góc độ khác nhau [33]. Thuật ngữ “chính sách”, theo Từ điển tiếng Việt, là “sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra”; Chính sách khác với đường lối. Nếu như đường lối chỉ những định hướng chung, mang tính chất chiến lược thì chính sách chỉ là “…một tập hợp biện pháp được thể chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi cho một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ, định hướng hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống xã hội”; Nói cách khác, chính sách “là giải pháp cùng các biện pháp cụ thể thực hiện giải pháp ấy được một chủ thể quyền lực lựa chọn và thể hiện bằng văn bản có giá trị pháp lý nhằm điều chỉnh hành vi của xã hội hoặc cộng đồng để giải quyết một hoặc một số vấn đề lớn liên quan đến nhiều đối tượng trong một giai đoạn xác định” [31]. 16
- Theo Peter Aucoin, chính sách công bao gồm các hoạt động thực tế do Chính phủ tiến hành; có thể là hành động riêng biệt của Chính phủ, song nó có thể là kết quả của hàng loạt quyết định, lựa chọn của chính phủ [20]. William Jenkins (năm 1978) đưa ra định nghĩa cụ thể hơn, chính sách công “là một tập hợp các quyết định liên quan với nhau được ban hành bởi một hoặc một nhóm các nhà hoạt động chính trị cùng hướng đến lựa chọn mục tiêu và các phương thức để đạt mục tiêu trong một tình huống xác định thuộc phạm vi thẩm quyền”; đó là một quá trình chứ không chỉ đơn giản là một sự lựa chọn; đồng thời, định nghĩa này cũng cho thấy một cách rõ ràng chính sách công là “một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau” [32]. B. Guy Peters (năm 1990) định nghĩa: “Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh hưởng một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi người dân”; Quan niệm này đã bổ sung thêm một khía cạnh quan trọng của chính sách công, đó là tác động của chính sách công đến đời sống của mọi người dân hay cộng đồng xã hội, thay vì tác động lên một cá nhân hoặc một tổ chức cụ thể. TS. Đặng Ngọc Lợi cho rằng chính sách công là chính sách của nhà nước, của chính phủ (do nhà nước, do chính phủ đưa ra), là một bộ phận thuộc chính sách kinh tế và chính sách nói chung của mỗi nước; PGS.TS. Lê Chi Mai nghiên cứu cho rằng chính sách công có những đặc trưng cơ bản nhất như: chủ thể ban hành chính sách công là nhà nước; chính sách công không chỉ là các quyết định (thể hiện trên văn bản) mà còn là những hành động, hành vi thực tiễn (thực hiện chính sách); chính sách công tập trung giải quyết những vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác định; chính sách công gồm nhiều quyết định chính sách có liên quan lẫn nhau [33]. Như vậy, chính sách công chưa có khái niệm thống nhất, mà tùy vào góc độ tiếp cận có những cách hiểu khác nhau. Theo đề tài, chính sách công là định hướng hành động do nhà nước lựa chọn để giải quyết những vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng phù hợp với thái độ chính trị trong mỗi thời kỳ nhằm giữ cho xã hội phát triển theo định hướng. 17
- Chính sách là chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ; chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội …Muốn đặt ra chính sách đúng phải căn cứ vào tình hình thực tiễn trong từng lĩnh vực, từng giai đoạn, phải vừa giữ vững mục tiêu, phương hướng được xác định trong đường lối, nhiệm vụ chung, vừa linh hoạt vận dụng vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể (Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam) [15]. Thực hiện chính sách công là một giai đoạn trong chu trình chính sách; quá trình đưa chính sách công vào thực tiễn đời sống xã hội thông qua việc ban hành các văn bản, chương trình, dự án thực hiện chính sách công và tổ chức thực hiện chúng nhằm hiện thực hóa mục tiêu chính sách công. Đó là một quá trình phức tạp, bao gồm nhiều hoạt động khác nhau từ ban hành văn bản triển khai đến phương thức thực thi các chương trình, dự án để đạt được mục tiêu đặt ra theo từng giai đoạn, phù hợp với bối cảnh cụ thể. 1.2.2. Thực hiện chính sách môi trường trong xây dựng nông thôn mới Môi trường là tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con người, ảnh hưởng tới con người và tác động đến các hoạt động sống của con người như: không khí, nước, độ ẩm, sinh vật, xã hội loài người và các thể chế. Tiếp cận theo khái niệm chính sách công nêu trên thì chính sách môi trường là những chủ trương, biện pháp mang tính chiến lược, giai đoạn, nhằm giải quyết nhiệm vụ bảo vệ môi trường cụ thể nào đó, trong một giai đoạn nhất định. - Quản lý môi trường: là sự điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội đối với môi trường nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và phát triển bền vững kinh tế - xã hội. - Quản lý nhà nước về môi trường, theo nghĩa rộng, là hoạt động tổ chức, điều hành của bộ máy nhà nước, là sự tác động có tổ chức của quyền lực nhà nước trên các phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp về môi trường; còn theo nghĩa hẹp, là quá trình tổ chức, điều hành của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước đối với 18
- các hoạt động của con người liên quan tới môi trường nhằm mục tiêu bảo vệ môi trường. - Chính sách quản lý nói chung và chính sách môi trường nói riêng được hoạch định và thực hiện dựa trên các cơ sở: triết học, khoa học - công nghệ, kinh tế, văn hóa – xã hội, pháp lý của quản lý. Các tác động của chính sách môi trường thường hàm chứa cả tích cực và tiêu cực: Tác động tích cực của chính sách môi trường có hệ quả là mục tiêu môi trường mà chính sách nhằm vào được thực hiện với kết quả tích cực và phản ánh tính đúng đắn, phù hợp của chính sách. Tác động tiêu cực của chính sách môi trường có hệ quả là mục tiêu môi trường mà chính sách nhằm vào được thực hiện với kết quả tiêu cực và phản ánh tính không/chưa phù hợp của chính sách. Trong hoạch định và thực hiện chính sách cần cố gắng xem xét tối đa các tác động để có những điều chỉnh. Trong thực tế không có chính sách tuyệt hảo, mỗi chính sách đều ẩn chứa cả những tác động không mong muốn và phải chấp nhận. Vấn đề là ở chỗ cần nhận dạng, đánh giá tác động và trên cơ sở đó có những cân nhắc cần thiết để hạn chế tối đa và đạt được tốt nhất mục tiêu chính sách cần đạt. Theo đề tài, chính sách môi trường là sự cụ thể hóa các chủ trương và hành động về bảo vệ môi trường của Nhà nước nhằm mục tiêu bảo vệ môi trường và cách thức thực hiện mục tiêu đó. Trong CTMTQG về xây dựng nông thôn mới, tiêu chí môi trường và an toàn thực phẩm là một trong 19 tiêu chí NTM theo Quyết định 1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Bộ tiêu chí Quốc gia vềNTM. Mục tiêu chung của tiêu chí môi trường là: Bảo vệ môi trường, sinh thái, cải thiện, nâng cao chất lượng môi trường khu vực nông thôn thông qua các hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức, ý thức và đi đến hành động cụ thể của các cấp, các ngành và cả cộng đồng nhândân. Huyện đạt chuẩn tiêu chí về môi trường khi đáp ứng các yêu cầu sau: “1. Hệ thống thu gom, xử lý chất thải rắn trên địa bàn huyện đạt tiêu chuẩn khi: 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở tỉnh Hải Dương
119 p | 68 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang
81 p | 88 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội
130 p | 65 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách tài khóa và cân đối ngân sách địa phương của tỉnh An Giang
83 p | 95 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực thi chính sách đối với người có công trên địa bàn thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội
115 p | 73 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang
83 p | 83 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách phát triển du lịch sinh thái trên địa bàn huyện Châu Phú, tỉnh An Giang
72 p | 49 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách thi đua khen thưởng tại Viện sức khỏe nghề nghiệp và môi trường
115 p | 63 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh
70 p | 78 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam
87 p | 74 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Châu Phú, tỉnh An Giang
73 p | 37 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp trên địa bàn huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang
77 p | 50 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách thông tin cơ sở trên địa bàn huyện Châu Thành, tỉnh An Giang
65 p | 61 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách an sinh xã hội cho đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang
77 p | 46 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính tại tỉnh An Giang
79 p | 32 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách tổ chức, khai thác sử dụng tài liệu lưu trữ từ thực tiễn Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh Cao Bằng
78 p | 33 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang
70 p | 48 | 5
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên trên địa bàn thành phố Phúc Yên- tỉnh Vĩnh Phúc
24 p | 51 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn