intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Địa lý học: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn tỉnh Bình Dương trong thời kì công nghiệp hóa - hiện đại hóa

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:134

124
lượt xem
26
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Địa lý học: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn tỉnh Bình Dương trong thời kì công nghiệp hóa - hiện đại hóa nghiên cứu những cơ sở lý luận, thực trạng và đưa ra giải pháp phát triển sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn tỉnh Bình Dương.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Địa lý học: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn tỉnh Bình Dương trong thời kì công nghiệp hóa - hiện đại hóa

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH _______________________________ Nguyễn Thị Ngọc Anh CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP - NÔNG THÔN TỈNH BÌNH DƯƠNG TRONG THỜI KÌ CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA Chuyên ngành: Địa lí học Mã số: 60 31 95 LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. ĐẶNG VĂN PHAN Thành phố Hồ Chí Minh – 2008
  2. LỜI CẢM ƠN Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tác giả xin gửi lời cảm ơn tới PGS.TS. Đặng Văn Phan, Người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tác giả trong suốt quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn thiện luận văn. Tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy, cô giáo trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong suốt thời gian học tập và thực hiện đề tài. Tác giả cũng xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của các cơ quan: Cục Thống kê tỉnh Bình Dương, Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bình Dương, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bình Dương đã giúp đỡ tác giả trong quá trình thu thập số liệu, tư liệu, các thông tin có liên quan đến nội dung nghiên cứu. Cuối cùng, tác giả xin gửi lời cảm ơn đến các bạn bè đồng nghiệp và những người thân đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tác giả trong suốt thời gian học tập và thực hiện luận văn. Bình Dương,... tháng.... năm 2008 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Ngọc Anh
  3. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CCKT : Cơ cấu kinh tế CDCC : Chuyển dịch cơ cấu CDCCKT : Chuyển dịch cơ cấu kinh tế CNH : Công nghiệp hóa CNH - HĐH : Công nghiệp hóa - hiện đại hóa LTTW3 : Lâm trường Trung ương 3 DTTN : Diện tích tự nhiên GDP : Tổng sản phẩm quốc dân GTSX : Giá trị sản xuất HĐH : Hiện đại hóa HTX : Hợp tác xã KT - XH : Kinh tế - xã hội L/s : Lít/giây NN : Nông nghiệp NN - NT : Nông nghiệp - nông thôn NT : Nông thôn Nxb : Nhà xuất bản VAC : Vườn, ao, chuồng RAC : Ruộng, ao, chuồng SX : Sản xuất SXNN : Sản xuất nông nghiệp TNHH : Trách nhiệm hữu hạn TX : Thị xã UBND : Uỷ Ban nhân dân UK : Ước khoảng KTTĐPN : Kinh tế trọng điểm phía Nam
  4. PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Xét trên các mặt KT - XH, môi trường, NN có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ. CDCCKT NN - NT theo hướng CNH - HĐH là một xu thế tất yếu khách quan của quá trình phát triển KT - XH mỗi nước. Đối với nước ta, từ một nước có nền kinh tế chủ yếu là NN và tuyệt đại bộ phận dân cư đang sống ở NT thì NN - NT càng có vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế. Ở mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước, trong đường lối phát triển KT - XH của Đảng đều chú trọng CDCCKT NN - NT theo hướng SX hàng hóa, chuyển từ nền NN truyền thống, lạc hậu sang nền NN hiện đại. Bình Dương là một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ và vùng KTTĐPN nên có thị trường tiêu thụ nông sản lớn nhất cả nước. Đây không chỉ là điều kiện thuận lợi đối với các yếu tố “đầu ra” cho SXNN mà cũng là thuận lợi giảm chí phí “đầu vào” cho nông - lâm - thuỷ sản. Mặc dù Bình Dương có rất nhiều lợi thế để phát triển một nền NN hiện đại. Trong những năm qua, tỉnh cũng đã tiến hành CDCCKT NN - NT và đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể nhưng cho tới nay NN - NT Bình Dương vẫn chưa thực sự phát triển tương xứng với tiềm năng hiện có, CCKT NN - NT vẫn còn nhiều bất cập. Việc xác định một CCKT NN - NT phù hợp và thực hiện các biện pháp thúc đẩy chuyển dịch là nhân tố quan trọng quyết định tới sự phát triển của NN - NT Bình Dương trong thời gian tới. Với những lý do trên và mong muốn đóng góp một phần nhỏ công sức vào sự phát triển KT - XH của địa phương, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn tỉnh Bình Dương trong thời kì công nghiệp hóa - hiện đại hóa”. 2. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 2.1. Mục tiêu nghiên cứu Trên cơ sở tổng quan những vấn đề lí luận, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu về CCKT và CDCCKT NN - NT, đề tài bước đầu tìm hiểu hiện trạng CDCCKT NN - NT tỉnh Bình Dương và cơ sở khoa học cho sự chuyển dịch
  5. trong những năm tiếp theo. Đề ra những định hướng và giải pháp chuyển dịch cho phù hợp với xu hướng CNH - HĐH của đất nước hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện được các mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài cần thực hiện được những nội dung nghiên cứu cơ bản sau: - Hệ thống hóa những vấn đề lí luận cơ bản về CCKT nói chung và CCKT NN - NT nói riêng làm cơ sở vận dụng vào quá trình xem xét, phân tích CDCCKT NN - NT Bình Dương. - Đánh giá thực trạng CDCCKT NN - NT Bình Dương từ năm 1997 đến 2006. Từ đó rút ra những đặc trưng cơ bản của CCKT NN - NT và xu hướng CDCCKT NN - NT Bình Dương. - Đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình CDCCKT NN - NT Bình Dương diễn ra nhanh chóng theo hướng CNH - HĐH. 3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI CDCCKT NN - NT Bình Dương là một quá trình mang tính toàn diện, diễn ra trên các mặt: cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu lãnh thổ và cả sự thay đổi chất lượng cuộc sống dân cư. Quá trình chuyển dịch không chỉ ở cấp vĩ mô mà còn cả ở cấp vi mô. Tuy nhiên, do hạn chế của bản thân, nguồn tư liệu và một số yếu tố khách quan khác nên: Về nội dung: trọng tâm của đề tài chủ yếu tập trung làm rõ sự CDCCKT NN trên phương diện ngành và lãnh thổ, sự chuyển dịch về thành phần kinh tế chỉ đề cập ở mức độ nhất định và chủ yếu quan tâm đến các thành phần kinh tế chiếm vị trí quan trọng trong kinh tế NN. Về CDCCKT NT chủ yếu nghiên cứu sự biến động của các ngành nghề phụ ở NT như tiểu thủ công nghiệp, CNCB nông sản, một số hoạt động dịch vụ và tìm hiểu chất lượng cuộc sống dân cư NT. NT là một khái niệm rộng bao gồm các hoạt động KT - XH và cuộc sống của dân cư NT, khả năng nghiên cứu của bản thân tác giả cùng với những hạn chế khác nên sự nghiên cứu CDCCKT NT Bình Dương còn chưa thật đầy đủ và chi tiết. Về không gian: đề tài tập trung nghiên cứu trên phạm vi toàn bộ 7 huyện, thị
  6. của tỉnh Bình Dương. Về thời gian: đề tài nghiên cứu quá trình CDCCKT NN - NT từ năm 1997 (khi tỉnh Bình Dương được tái lập) đến năm 2006 và những định hướng, các giải pháp chuyển dịch đến năm 2020. 4. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU Do CDCCKT NN - NT là một vấn đề quan trọng đối với sự phát triển KT - XH của đất nước nên hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu trong nước về vấn đề này đã được công bố. Hầu hết các công trình nghiên cứu đều tập trung vào nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của quá trình CDCCKT NN - NT của một vùng miền cụ thể hay một khu vực nhỏ như tỉnh, huyện, xã. Các công trình đã được công bố và có ý nghĩa cao về mặt lí luận và thực tiễn có thể kể đến như: Về mặt lí luận: CNH - HĐH ở Việt Nam: lí luận và thực tiễn (TS. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2002); CDCCKT theo hướng CNH - HĐH nền kinh tế quốc dân (tập I, II) (Ngô Đình Giao, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 1994); Về đẩy nhanh CNH - HĐH NN - NT (TS. Nguyễn Thiện Luân, Báo NN và Phát triển NT, số 12 năm 2004),... Về mặt thực tiễn: có nhiều công trình nghiên cứu về CDCCKT NN - NT của một số vùng trong cả nước như CDCCKT NT Bắc Trung Bộ theo CNH - HĐH (TS. Nguyễn Đăng Bằng, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội năm 2002). 5. QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5.1. Quan điểm nghiên cứu 5.1.1. Quan điểm hệ thống CCKT NN - NT chính là một hệ thống hoàn chỉnh gồm nhiều tầng bậc, bản thân nó là sự hợp thành của nhiều hệ thống khác nhau và đồng thời lại là bộ phận của hệ thống lớn hơn. CCKT NN - NT tỉnh có mối quan hệ chặt chẽ với môi trường xung quanh, bao gồm cả môi trường tự nhiên và môi trường KT - XH. 5.1.2. Quan điểm lãnh thổ Cơ cấu lãnh thổ kinh tế NN - NT Bình Dương được coi như một thể tổng hợp tương đối hoàn chỉnh, trong đó các yếu tố tự nhiên, KT - XH có mối quan hệ
  7. chặt chẽ, tác động chi phối lẫn nhau. Đặc biệt, lĩnh vực NN Bình Dương là ngành thu hút một lực lượng lao động cơ bản và địa bàn NT Bình Dương tập trung phần lớn dân cư của toàn tỉnh. Do vậy, cần phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển và CDCCKT NN - NT Bình Dương để từ đó đưa ra những định hướng phát triển có tính tổng hợp nhằm khai thác tốt những tiềm năng của vùng. 5.1.3. Quan điểm lịch sử viễn cảnh Vận dụng quan điểm vào trong nghiên cứu đề tài để thấy được nguồn gốc nảy sinh, quá trình diễn biến của các yếu tố kinh tế trong từng giai đoạn, trong những điều kiện thời gian và không gian cụ thể. Từ đó đánh giá chính xác các khả năng phát triển của ngành kinh tế NN, của địa bàn NT Bình Dương. 5.2. Phương pháp nghiên cứu 5.2.1. Phương pháp thu thập tài liệu Trong luận văn chúng tôi đã tiến hành thu thập các số liệu, tư liệu từ các nguồn khác nhau, trong đó chủ yếu là nguồn số liệu từ Niên giám thống kê của địa phương, từ báo cáo thường niên của Sở NN và Phát triển NT. Trên cơ sở đó tiến hành các phương pháp nghiên cứu trong phòng, xử lí số liệu để có được hệ thống các số liệu có đủ độ tin cậy phục vụ cho mục đích nghiên cứu của đề tài. 5.2.2. Phương pháp phân tích hệ thống Thực trạng cơ cấu NN - NT tỉnh được nhận biết thông qua phân tích các mối quan hệ về không gian và thời gian, về các ngành và các lĩnh vực kinh tế. Đề tài chú ý các mối quan hệ tự nhiên và nhân văn, mối quan hệ hình thức và bản chất. 5.2.3. Phương pháp thống kê toán học Để nhận biết được đặc điểm và xu thế phát triển của quá trình KT - XH trong lĩnh vực kinh tế NN - NT Bình Dương, trên cơ sở số liệu đã thu thập được từ các nguồn, quá trình nghiên cứu sử dụng phương pháp thống kê như một công cụ để nhận biết những giá trị gần đúng, xác thực nhất. 5.2.4. Phương pháp bản đồ Quá trình thực hiện đề tài đã sử dụng bản đồ như một phương tiện phản ánh các kết quả nghiên cứu về các hiện tượng KT - XH của NN - NT Bình Dương.
  8. 5.2.5. Phương pháp thực địa Do lĩnh vực NN - NT tương đối phức tạp, bao gồm nhiều ngành nghề khác nhau cùng tồn tại đan xen trên địa bàn nên quá trình thực địa là hết sức quan trọng để tìm hiểu sâu sắc về thực trạng phát triển. 6. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI Về mặt lí luận: đề tài đã làm rõ những lí thuyết căn bản về CCKT nói chung và CDCCKT NN - NT nói riêng. Trên cơ sở những lí thuyết đó đề tài tìm hiểu và làm rõ những vấn đề chủ yếu trong quá trình CDCCKT NN - NT Bình Dương từ 1997 - 2006 và đề ra những giải pháp chuyển dịch trong những năm tới. Về mặt thực tiễn: trên cơ sở tổng hợp các số liệu thống kê về các chỉ tiêu phát triển KT - XH trong những năm 1997 - 2006, đề tài đã nêu lên được những đặc trưng cơ bản nhất trong quá trình CDCCKT NN - NT của Bình Dương. Từ những kết quả nghiên cứu đó kết hợp với những định hướng phát triển đề ra những giải pháp có tính khả thi nhất thúc đẩy quá trình chuyển dịch. 7. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI Đề tài gồm 3 phần chính: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Trong đó phần nội dung có bố cục 3 chương: Chương 1: Cơ sở lí luận CCKT và CDCCKT NN - NT. Chương 2: Thực trạng quá trình CDCCKT NN - NT trong thời kì CNH - HĐH tỉnh Bình Dương từ 1997 - 2006. Chương 3: Định hướng và những giải pháp nhằm thúc đẩy CDCCKT NN - NT tỉnh Bình Dương đến năm 2020. Ngoài ra còn có phần phụ lục là những nội dung có liên quan đến các nội dung nghiên cứu của đề tài do không có đủ điều kiện để trình bày hết trong đề tài.
  9. NỘI DUNG CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ CẤU KINH TẾ VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP - NÔNG THÔN 1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM 1.1.1. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu kinh tế nông nghiệp Cơ cấu: là một khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức bên trong của một hệ thống, biểu hiện sự thống nhất của các mối quan hệ qua lại vững chắc các bộ phận của nó. Trong khi chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa bộ phận và tổng thể, biểu hiện ra như là một thuộc tính của sự vật, hiện tượng và biến đổi cùng với sự biến đổi của sự vật, hiện tượng. Như vậy, có thể thấy có nhiều kiểu tổ chức cơ cấu của khách thể và các hệ thống [22, tr.28]. Nền kinh tế quốc dân là một hệ thống phức tạp, được cấu thành bởi nhiều bộ phận khác nhau. Các bộ phận đó có thể là các yếu tố “đầu vào” của quá trình SX, gồm: đất đai, lao động, vốn và tiến bộ kĩ thuật; các khâu trong vòng tuần hoàn của tái SX xã hội, gồm: SX, phân phối, trao đổi và tiêu dùng; các ngành SX của một nền kinh tế, gồm: NN, công nghiệp và dịch vụ. Giữa chúng luôn có quan hệ biện chứng với nhau trong quá trình vận động và phát triển. Sự vận động và phát triển của nền kinh tế còn chứa đựng sự thay đổi của chính bản thân các bộ phận và cách thức quan hệ giữa chúng với nhau trong mỗi thời điểm và trong mỗi điều kiện cũng khác nhau. Do đó, có thể khái quát CCKT là tổng thể những mối quan hệ về chất lượng và số lượng giữa các bộ phận cấu thành nền kinh tế trong không gian, thời gian và điều kiện KT - XH nhất định [22, tr.29]. CCKT được hình thành và phát triển dựa trên những cơ sở chủ yếu sau: - CCKT là kết quả của sự phân công lao động xã hội, được bắt đầu từ việc tăng năng suất lao động và sự phát triển của các mối quan hệ trao đổi hàng hóa tiền tệ. - CCKT phản ánh sự tương tác sống động giữa các yếu tố của lực lượng SX và quan hệ SX, trong đó vai trò quyết định là sự phát triển của lực lượng SX.
  10. - CCKT có sự cân đối, đồng bộ giữa các bộ phận trong một hệ thống với các cấp độ khác nhau, gắn với thời gian, không gian và đặc điểm chính trị, KT - XH nhất định nhằm bảo đảm sự phát triển và có thể tái SX cả về KT - XH. Như vậy, bản chất của CCKT là sự biểu hiện của các mối quan hệ giữa các yếu tố của quá trình SX xã hội, đó là mối quan hệ của lực lượng SX và quan hệ SX, nhưng không đơn thuần chỉ là quan hệ về mặt số lượng và tỉ lệ giữa các yếu tố - biểu hiện về lượng hay sự tăng trưởng của hệ thống, mà là những mối quan hệ bên trong và bên ngoài của các yếu tố đó biểu hiện về chất hay sự phát triển của hệ thống [35, tr.11]. Mối quan hệ giữa lượng và chất trong cơ cấu của nền kinh tế thực chất là những biểu hiện về tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế đó. Mặt khác, nền kinh tế quốc dân được phân chia theo nhiều cách thức và ở nhiều cấp độ khác nhau mới có thể thấy hết được các mối quan hệ bên trong và bên ngoài của nền kinh tế đó và nhìn chung người ta thường xem xét từ các góc độ chủ yếu sau: Cơ cấu ngành kinh tế: phản ánh sự phân công lao động theo hướng chuyên môn hóa SX, được hình thành dựa trên mối quan hệ giữa các đối tượng khác nhau của nền SX, SX càng phát triển thì tập hợp ngành kinh tế càng đa dạng. Cho đến nay, trên thế giới về cơ bản có hai hệ thống phân ngành kinh tế, đó là hệ thống SX vật chất (Material Production System - MPS), được áp dụng đối với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung và hệ thống tài khoản quốc gia (System of National Accounts - SNA), được áp dụng đối với nền kinh tế thị trường. Theo hệ thống tài khoản quốc gia, nền kinh tế thường được phân thành ba khu vực: khu vực I gồm các ngành hoạt động nhằm khai thác các của cải từ thiên nhiên (nông, lâm, thuỷ sản và khai khoáng); khu vực II gồm các ngành hoạt động nhằm làm thay đổi hình thái của những của cải vật chất (công nghiệp chế tạo, chế biến, xây dựng); khu vực III gồm các ngành nhằm cung ứng những dịch vụ có ích cho nhu cầu SX và tiêu dùng của xã hội (thương nghiệp, bưu điện, vận tải, bảo hiểm, các dịch vụ đời sống, dịch vụ quản lý Nhà nước, hoạt động đoàn thể, từ thiện, tôn giáo) [2, tr.18]. Trong mỗi khu vực được phân thành các ngành kinh tế cấp 1 và dưới cấp 1 được phân thành các ngành cấp 2, cấp 3, cấp 4,...
  11. Sự phân chia các ngành như trên không phải là cách làm duy nhất mà có sự khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm, trình độ phát triển của nền kinh tế và cơ chế quản lý của mỗi nước, nhưng có thể tìm được một cách thức duy trì một cơ cấu hợp lý và có thể lựa chọn được những lĩnh vực cần ưu tiên đầu tư các nguồn lực nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển một cách hiệu quả nhất. Đối với nước ta, theo Quyết định số 10/2007/QĐ - TTg ngày 23/1/2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam, nền kinh tế nước ta được chia thành 21 ngành kinh tế cấp 1; 88 ngành kinh tế cấp 2; 242 ngành kinh tế cấp 3; 437 ngành kinh tế cấp 4 và 642 ngành kinh tế cấp 5. NN thường được xem là một ngành kinh tế, nếu hiểu theo nghĩa hẹp gồm có trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ NN, nếu hiểu theo nghĩa rộng còn bao hàm cả lâm nghiệp và thuỷ sản [4, tr.8]. Theo hệ thống phân ngành kinh tế của nước ta hiện nay, SXNN, lâm nghiệp và thuỷ sản là 1 trong 21 ngành kinh tế cấp 1, trong đó được phân chia thành: - 3 ngành cấp 2 gồm: NN và hoạt động dịch vụ có liên quan (ngành NN); lâm nghiệp và hoạt động dịch vụ có liên quan (ngành lâm nghiệp); khai thác và nuôi trồng thuỷ sản (ngành thuỷ sản). - 13 ngành cấp 3, gồm: trồng cây hàng năm, trồng cây lâu năm, nhân và chăm sóc cây giống NN, săn bắt, đánh bẫy và hoạt động dịch vụ có liên quan (7 ngành cấp 3 thuộc ngành NN); trồng rừng và chăm sóc rừng, khai thác gỗ và lâm sản, thu nhặt sản phẩm từ rừng không phải là gỗ và lâm sản khác, hoạt động dịch vụ lâm nghiệp (4 ngành cấp 3 thuộc ngành lâm nghiệp); khai thác thuỷ sản, nuôi trồng thuỷ sản (2 ngành cấp 3 thuộc ngành thuỷ sản). - 41 ngành cấp 4, bao gồm: 31 ngành thuộc ngành NN, 5 ngành thuộc ngành lâm nghiệp và 5 ngành thuộc ngành thuỷ sản. - 56 ngành cấp 5, bao gồm: 41 ngành thuộc ngành NN, 8 ngành thuộc ngành lâm nghiệp và 7 ngành thuộc ngành thuỷ sản. Cơ cấu thành phần kinh tế: gắn liền với các hình thức sở hữu về tư liệu SX và xu hướng chung là là lực lượng SX ngày càng phát triển, các hình thức sở hữu
  12. ngày càng đa dạng. Tương ứng với mỗi hình thức sở hữu là thành phần kinh tế. Tuy nhiên, ngày nay giữa các hình thức sở hữu có sự đan xen lẫn nhau tùy thuộc vào sự phát triển của các nền kinh tế, dẫn đến sự phân chia nền kinh tế theo các thành phần kinh tế ngày càng phức tạp. Từ mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế trong quá trình vận động người ta có thể thấy được xu hướng phát triển và vai trò của từng thành phần kinh tế để từ đó có thể đưa ra các giải pháp tác động phù hợp với yêu cầu phát triển chung của nền kinh tế. Cơ cấu vùng kinh tế: phản ánh sự phân công lao động xã hội về mặt không gian địa lí. Thực chất của việc phân chia này là để làm cơ sở cho hoạch định chiến lược, xây dựng kế hoạch phát triển, thực thi chính sách phù hợp với đặc điểm của từng vùng nhằm đạt hiệu quả cao trên từng vùng và toàn lãnh thổ. Tùy theo mục đích quản lý mà có thể phân chia lãnh thổ của một quốc gia thành các vùng với những đặc trưng về mặt kinh tế khác nhau và trong NN, cách phân chia lãnh thổ thành các vùng sinh thái NN mang một ý nghĩa cực kì quan trọng, vì từ đó có thể xác lập được các cơ cấu cây trồng - vật nuôi hợp lý, vừa khai thác được lợi thế của mỗi vùng, vừa khắc phục tình trạng phát triển dàn trải, thiếu tập trung để có thể hình thành được các vùng SX chuyên canh có khối lượng hàng hóa lớn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường và thúc đẩy CDCCKT. CCKT theo ngành, theo thành phần và theo vùng kinh tế là sự biểu hiện về bản chất ở những khía cạnh khác nhau của một nền kinh tế, giữa chúng có quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, trong đó cơ cấu theo ngành giữ vai trò chủ đạo trong toàn bộ quá trình phát triển, cơ cấu theo thành phần kinh tế giữ vai trò quan trọng để thực hiện cơ cấu ngành, cơ cấu theo vùng là cơ sở cho các ngành, các thành phần kinh tế phân bố hợp lý các nguồn lực, tạo sự phát triển đồng bộ, cân đối, đạt hiệu quả cao giữa các ngành, giữa các thành phần kinh tế của một nền kinh tế. NN: là một ngành SX vật chất cơ bản, là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân [18, tr.25], nên có thể hiểu CCKT NN là tổng thể các mối quan hệ về số lượng và chất lượng giữa các bộ phận cấu thành nền NN diễn ra trong không gian, thời gian và điều kiện KT - XH nhất định.
  13. Quá trình hình thành và biến đổi của các CCKT NN gắn liền với các hoạt động SXNN nhưng không thể tách rời với quá trình hình thành và biến đổi của cơ cấu nền kinh tế. Do đó, CCKT NN vừa có đặc điểm chung, vừa có đặc điểm riêng so với cơ cấu nền kinh tế. 1.1.2. Cơ cấu kinh tế nông thôn NT: là khu vực lãnh thổ bao gồm một không gian rộng lớn của một đất nước hay một đơn vị hành chính nằm ngoài lãnh thổ đô thị, ở đó có một cộng đồng dân cư sinh sống (gọi là dân cư NT) và hoạt động kinh tế chủ yếu là SXNN (theo nghĩa rộng), bên cạnh đó còn có các hoạt động SX tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp và hoạt động dịch vụ [4, tr.30]. Trên thực tế có nhiều cách hiểu khác nhau về kinh tế NT nhưng dù cách hiểu nào thì kinh tế NT vẫn là tổng thể các hoạt động kinh tế diễn ra trên địa bàn NT, có mối quan hệ chặt chẽ với NN. Kinh tế NT là phức hợp những nhân tố cấu thành của lực lượng SX và quan hệ SX trong nông, lâm, thuỷ sản cùng với các ngành thủ công truyền thống, tiểu thủ công nghiệp, CNCB và các ngành thương nghiệp, dịch vụ. Tất cả các quan hệ hữu cơ với nhau trong nền kinh tế vùng, lãnh thổ và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Kinh tế NT có những đặc điểm nổi bật sau: - Kinh tế NT bao trùm trước hết vẫn là nông, lâm, thuỷ sản. Bởi lẽ dù có phát triển đến đâu thì NT vẫn là nơi SX ra sản phẩm về lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội, cung cấp nguyên liệu cho CNCB, cung cấp lao động cho các ngành công nghiệp ở thành thị. - Kinh tế NT gắn bó chặt chẽ với điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái. Đối tượng cơ bản của hoạt động kinh tế ở NT là cây trồng - vật nuôi, đất đai, khí hậu, nguồn nước,… - Kinh tế NT mang tính bền vững cao, mọi sự thay đổi đều nằm trong khuôn khổ của tự nhiên, lịch sử, truyền thống. Về CCKT NT còn nhiều quan niệm khác nhau, tổng quát có thể hiểu: CCKT NT: là tổng thể các quan hệ kinh tế trong khu vực NT (bao gồm cơ cấu các ngành nông - lâm - thuỷ sản, công nghiệp, thủ công nghiệp, dịch vụ, kể cả
  14. hoạt động văn hóa - giáo dục - y tế được phát triển tại vùng NT), chúng có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau theo những tỉ lệ nhất định về mặt lượng và liên quan chặt chẽ về mặt chất; chúng tác động qua lại lẫn nhau trong không gian và thời gian nhất định, phù hợp với điều kiện KT - XH nhất định, tạo thành một hệ thống kinh tế NT, một bộ phận hợp thành không thể tách rời của hệ thống kinh tế quốc dân [4, tr.35]. CCKT NT cũng là một bộ phận của CCKT quốc dân, do đó CCKT NT cũng có những đặc trưng cơ bản của CCKT nói chung, bên cạnh đó CCKT NT cũng có những đặc trưng riêng biệt: - CCKT NT mang tính khách quan, được hình thành trên cơ sở phát triển của lực lượng SX và phân công lao động xã hội. Với trình độ phát triển nhất định của lực lượng SX và phân công lao động xã hội thì sẽ có một CCKT cụ thể thích ứng. - CCKT NT mang tính lịch sử, xã hội nhất định: là tổng hợp các mối quan hệ kinh tế được xác lập theo những tỉ lệ nhất định về mặt lượng trong thời gian cụ thể. - CCKT NT không ngừng vận động phát triển ngày càng hoàn thiện, hợp lí và có hiệu quả hơn. Quá trình phát triển và biến đổi CCKT NT luôn gắn bó chặt chẽ với sự biến đổi của các yếu tố về lực lượng SX và phân công lao động xã hội. - CDCCKT NT là một quá trình và cũng không thể có một cơ cấu hoàn chỉnh, bất biến. CCKT NT nước ta hiện nay đang hình và biến đổi gắn với sự ra đời và phát triển của nền NN SX hàng hóa. Để khắc phục dần tính thuần nông, tự cung tự cấp và chuyển mạnh sang SX hàng hóa thì CCKT NT nước ta cần có những bước thay đổi theo hướng CNH - HĐH. Những khía cạnh biểu hiện của CCKT NT: kinh tế NT là lĩnh vực rộng lớn, đa dạng gồm nhiều bộ phận hợp thành và cùng tồn tại trong mối quan hệ hữu cơ. Trong hệ thống các bộ phận hợp thành CCKT NT có 3 nội dung được xem là quan trọng nhất: cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế và cơ cấu vùng kinh tế . CCKT theo ngành: cơ sở để phân chia ngành trong CCKT NT là phân công lao động. Điều kiện để hình thành các ngành nghề ở NT phụ thuộc vào đặc điểm tự
  15. nhiên, kinh tế, kĩ thuật và truyền thống địa phương. Cơ cấu ngành trong kinh tế NT bao gồm: Nhóm ngành nông - lâm - thuỷ sản: chiếm vai trò chủ đạo trong cơ cấu ngành của kinh tế NT, bởi vì NT dù cho phát triển đến trình độ nào thì hoạt động kinh tế chủ yếu vẫn là NN (NN hiểu theo nghĩa rộng). Nhóm ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ở NT: rất đa dạng, bao gồm nhiều nghề được phân bố trên địa bàn NT, gắn liền với hoạt động SXNN và kinh tế NT nhằm đáp ứng nhu cầu SX và đời sống dân cư NT đồng thời đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa và xuất khẩu. Công nghiệp NT bao gồm: + CNCB nông - lâm - thuỷ sản thành phẩm và bán thành phẩm; + Công nghiệp SX các loại tư liệu SX và tư liệu tiêu dùng phục vụ trực tiếp cho SXNN và sinh hoạt ở NT; + Công nghiệp SX vật liệu xây dựng như gạch, vôi, đá,... + Nghề thủ công truyền thống như dệt, may, len, gốm sứ, sơn mài, đồ gỗ,... Ở nước ta, công nghiệp NT tồn tại dưới nhiều hình thức: làng nghề, hộ nghề, HTX nghề. Nhóm ngành dịch vụ NT: ra đời và phát triển gắn liền với NN và công nghiệp NT. Khi xuất hiện SX hàng hóa, năng suất lao động tăng lên, một bộ phận từ trồng trọt, chăn nuôi đã tách ra làm dịch vụ thương mại “đầu vào”, “đầu ra”. Dịch vụ NT bao gồm các hoạt động: + Dịch vụ mua bán hàng hóa, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm; + Dịch vụ kinh tế, tài chính, tín dụng ngân hàng; + Dịch vụ phục vụ sinh hoạt như điện nước, vệ sinh, văn hóa, pháp luật; + Dịch vụ giao thông vận tải, thuỷ lợi, bảo vệ thực vật. Khi nền SX chuyển từ tự cung tự cấp sang SX hàng hóa, tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ ngày càng tăng lên trong CCKT NT. CCKT theo thành phần kinh tế: là mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế tại NT, dựa trên những quan hệ sở hữu khác nhau về tự liệu SX và trình độ phát triển khác nhau của lực lượng SX. Nền kinh tế quốc dân có bao nhiêu thành phần kinh
  16. tế thì kinh tế NT có bấy nhiêu thành phần. Tuy nhiên, sự biểu hiện của các thành phần kinh tế NT có những đặc điểm riêng: Kinh tế Nhà nước ở NT: được biểu hiện tập trung ở các hình thức doanh nghiệp Nhà nước (nông trường, lâm trường, trạm, trại), ngân hàng, tín dụng, các cơ sở nghiên cứu khoa học. Kinh tế Nhà nước ở NT giữ vai trò chủ đạo cả về mặt SX và lưu thông phân phối. Kinh tế tập thể: phát triển với nhiều hình thức đa dạng trong đó tiêu biểu là các HTX kiểu mới, SX kinh doanh nhiều ngành nghề (HTX đa chức năng), tập hợp liên kết các hộ SX với nhau cùng giải quyết những yêu cầu của SX. Kinh tế cá thể - tiểu chủ: là hình thức kinh tế thích hợp và năng động nhất ở NT, tồn tại dưới nhiều hình thức tổ chức kinh tế như kinh tế hộ, kinh tế trang trại. Đặc biệt kinh tế cá thể - tiểu chủ ở NT có ưu thế phát triển mạnh mẽ các hoạt động dịch vụ SX và tiêu thụ. Kinh tế tư bản Nhà nước: tồn tại dưới các hình thức liên doanh giữa kinh tế Nhà nước và tư bản tư nhân trong và ngoài nước, các dự án có vốn đầu tư nước ngoài và SX kinh doanh ở NT. Thành phần này chỉ tập trung ở những vùng NT SX hàng hóa phát triển, ở những ngành chế biến, cơ sở hạ tầng, giao thông, thuỷ lợi,... có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế NT theo hướng CNH - HĐH. Kinh tế tư bản tư nhân: có điều kiện phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, tín dụng ở NT. Nhưng kinh tế NT phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa cần tăng cường sự quản lí của Nhà nước. CCKT theo lãnh thổ: kinh tế vùng là một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế quốc dân. Sự phát triển có hiệu quả kinh tế vùng sẽ tác động trực tiếp đến sự tăng trưởng kinh tế không chỉ riêng trong vùng mà còn tác động qua lại đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân. CCKT vùng là mối quan hệ kinh tế giữa các ngành, các thành phần kinh tế trên phạm vi lãnh thổ. Đặc điểm CCKT vùng là: - CCKT vùng gắn với điều kiện tự nhiên, KT - XH và một không gian lãnh thổ nhất định. Trong một vùng thường có đặc điểm về tự nhiên tương đồng và một không gian thống nhất.
  17. - Cơ cấu vùng là sự thể hiện cơ cấu ngành về mặt không gian, vị trí địa lí được phân bố phù hợp với sự phân công và chuyên môn hóa trong nền kinh tế, tạo nên những tiền đề của mối liên hệ giữa các vùng, làm cho mỗi vùng không đồng nhất với các vùng khác. 1.1.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa Quá trình phát triển KT - XH là quá trình biến đổi diễn ra trên tất cả các lĩnh vực KT - XH nhưng trước hết là sự gia tăng năng lực SX và sự chuyển dịch các nguồn lực được sử dụng vào quá trình SX của các ngành. Xu hướng chung trong thực tế là khi thu nhập bình quân đầu người tăng lên thì tỉ trọng sản phẩm NN trong GDP sẽ giảm xuống, tỉ trọng sản phẩm công nghiệp và dịch vụ tăng lên, đến một trình độ nhất định thì tỉ trọng dịch vụ sẽ tăng nhanh so với công nghiệp. Để lý giải cho quá trình này, có hai lý do chính: - Từ cuối thế kỷ XIX, E. Engel nhận thấy rằng, khi thu nhập của các gia đình tăng lên, tỉ lệ chi tiêu của họ cho lương thực, thực phẩm sẽ giảm xuống và cho sản phẩm công nghiệp và dịch vụ tăng, dẫn tới tỉ trọng của NN trong GNP giảm xuống. - I. Fisher ( 1867 - 1947 ), tiến bộ kĩ thuật có tác động đến thay đổi phân bố lao động vào ba khu vực của nền kinh tế, tạo điều kiện cho nông dân tăng năng suất lao động. Kết quả là để bảo đảm lương thực, thực phẩm cho xã hội, không cần đến lượng lao động như cũ và tỉ lệ lao động NN giảm dần. Ngoài ra, còn có một lý do khác cũng làm cho tỉ trọng NN trong GDP giảm sút, đó là các lợi thế tương đối trong NN, nhất là đất đai và lao động ở các quốc gia phát triển mất dần so với các quốc gia có trình độ phát triển thấp hơn. 1.1.3.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thực chất là quá trình cải biến KT - XH từ lạc hậu, mang tính chất tự cấp, tự túc bước vào chuyên môn hóa hợp lý, trang bị kĩ thuật, công nghệ hiện đại, trên cơ sở tạo ra năng suất lao động cao và nhịp độ tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế [3, tr.535]. Quá trình chuyển dịch này không chỉ diễn ra giữa các ngành của nền kinh tế mà bắt đầu từ nội bộ của từng ngành theo những xu hướng nhất định và trong NN,
  18. quá trình CDCC các ngành ở hầu hết các quốc gia thường diễn ra theo xu hướng có tính quy luật như sau: - Trong dài hạn, cầu nông sản chịu tác động mạnh bởi thu nhập của dân cư theo hướng là khi mức thu nhập thấp, cầu về các nông sản thông thường lớn hơn và khi thu nhập tăng lên, cầu về các nông sản có chất lượng cao tăng lên. - Một nghiên cứu khác cho rằng: thịt, trứng, sữa và thuỷ sản là loại thực phẩm có tính vận động. Mức độ tiêu dùng các loại thực phẩm này có quan hệ trực tiếp đến bồi bổ sức khỏe và phát triển trí tuệ nhân loại, vì thế hầu hết các nước đều đầu tư phát triển chăn nuôi và nghề cá [33, tr.7]. 1.1.3.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp CDCCKT NN: là quá trình chuyển dịch các nguồn lực trong NN nhằm gia tăng sản lượng các ngành, trong đó các ngành có năng suất lao động cao hơn sẽ có tỉ trọng tăng và xu hướng chung đối với SXNN của hầu hết các nước là tỉ trọng giá trị sản lượng nông sản phi lương thực, nhất là các sản phẩm chăn nuôi và thuỷ sản ngày càng tăng khi thu nhập của dân cư tăng lên. CDCCKT NN là chuyển dịch toàn diện cả cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu vùng [3, tr.61]. CDCC ngành trong NN: là sự thay đổi tỉ trọng giữa các ngành và nhóm ngành trong nội bộ ngành NN. Xu hướng CDCC ngành NN hiện nay là hướng tới một nền NN hàng hóa, SX thâm canh, đa dạng theo hướng SX hàng hóa lớn tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa có giá trị. - Trong ngành trồng trọt, xu hướng độc canh cây lương thực đã được hạn chế dần, thay vào đó là việc trồng những loại cây có năng suất cao, có giá trị hàng hóa lớn. - Trong ngành chăn nuôi cũng sự thay đổi về cơ cấu, những loài vật nuôi có giá trị dinh dưỡng tốt, phù hợp với những yêu cầu của thị trường được chú trọng phát triển. CDCC thành phần kinh tế trong NN: chủ yếu diễn ra do sự tác động của các nhân tố KT - XH, trong đó sự định hướng về mặt chính trị - xã hội có vai trò chủ yếu. Số lượng các thành phần kinh tế tham gia trong lĩnh vực NN cũng tương đương với số lượng các thành phần kinh tế tham gia trong nền kinh tế quốc dân.
  19. CDCC lãnh thổ NN: đang diễn ra mạnh mẽ, hình thành nên những vùng chuyên môn hóa có sự ổn định về phương hướng SX, về quy mô, về bảo đảm chất lượng và hiệu quả xã hội. Quá trình CDCCKT NN trong thời kì CNH - HĐH cũng chính là quá trình CDCCKT NN nhằm vào các mục tiêu: - Khai thác và sử dụng tốt nhất các lợi thế so sánh của NN trong phạm vi cả nước cũng như từng địa phương. - Khai thác có hiệu quả các tiềm năng NN như đất đai, khí hậu, nguồn nước,... - CDCCKT NN đảm bảo an toàn lương thực, thực phẩm góp phần tạo nên khối lượng của cải vật chất ngày càng lớn, cơ cấu sản phẩm NN phải đa dạng và phong phú. - CDCC NN phải góp phần vào việc ổn định và phát triển KT - XH NT và nâng cao đời sống nhân dân. Các chỉ tiêu phản ánh CDCCKT NN: Khi phân tích tác động của các nhân tố tới sự CDCCKT NN cần chú ý phân tích cả những thay đổi về lượng (các quan hệ tỉ lệ) hay kết quả CDCC và những thay đổi về chất hay hiệu quả chuyển dịch do các yếu tố tác động mang lại. Tuy nhiên, việc xác định chỉ tiêu đo lường các kết quả này cho đến nay vẫn còn có những quan điểm khác nhau, nhưng về cơ bản gồm có các nhóm chỉ tiêu chủ yếu: - Nhóm chỉ tiêu phản ánh kết quả, hiệu quả CDCCKT NN: phản ánh sự thay đổi CCKT NN trên 3 mặt cơ bản, gồm: cơ cấu GDP hoặc cơ cấu GTSX, cơ cấu lao động và cơ cấu hàng xuất khẩu của các ngành trong NN. Cơ cấu GDP hoặc GTSX NN: là một trong những thước đo khái quát nhất, phổ biến nhất để đo lường, đánh giá trạng thái, xu hướng và mức độ thành công của quá trình CDCCKT NN. Các chỉ tiêu thường được sử dụng để đánh giá: - GDP và tỉ trọng GDP NN trong GDP nền kinh tế (3 khu vực); - GTSX và tỉ trọng GTSX các ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản; - GTSX và tỉ trọng GTSX nội bộ ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản; - Tăng trưởng GDP và GTSX của các ngành trong NN;
  20. - GDP và GTSX của các ngành trong NN bình quân đầu người. Thông qua kết quả của các chỉ tiêu có thể rút ra những nhận định về trạng thái CDCCKT có ổn định hay không ổn định, xu hướng chuyển dịch nhanh hay chậm và nền kinh tế tăng trưởng cao hay thấp, bền vững hay không bền vững. Quy luật chung là tỉ trọng đóng góp của trồng trọt trong ngành NN có xu hướng giảm dần. Cơ cấu lao động NN: phản ánh tầm quan trọng của từng ngành trong NN về việc sử dụng nguồn lao động xã hội và chỉ tiêu chủ yếu được sử dụng để đánh giá: - Tỉ trọng lao động làm việc trong ngành NN so với tổng lao động đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân; - Tỉ trọng lao động NN làm việc trong các ngành của NN so với tổng lao động NN; - GDP và GTSX NN bình quân lao động NN (năng suất lao động NN). Quy luật chung là tỉ trọng lao động NN trong nền kinh tế quốc dân và tỉ trọng lao động trồng trọt có xu hướng giảm dần; đồng thời ngành nào có năng suất lao động cao thì ngành đó có tốc độ tăng trưởng, tỉ trọng sản lượng “đầu ra” tăng. Cơ cấu hàng xuất khẩu: phản ánh mức độ thành công của quá trình CDCCKT NN theo hướng hội nhập và chỉ tiêu chủ yếu thường được dùng để đánh giá: - Tỉ trọng giá trị xuất khẩu hàng nông, lâm, thuỷ sản trong tổng giá trị xuất khẩu của nền kinh tế quốc dân; - Tỉ trọng xuất khẩu của từng ngành trong tổng giá trị xuất khẩu hàng nông, lâm nghiệp và thuỷ sản; - Giá trị xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản bình quân đầu người. Xu hướng chung là tỉ trọng giá trị xuất khẩu của nền kinh tế và giá trị xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản bình quân đầu người tăng. - Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tác động của các nhóm nhân tố đến CDCCKT NN: Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tác động của các nhân tố đến tổng cung: có rất nhiều chỉ tiêu nhưng một số chỉ tiêu thường được sử dụng như yếu tố vốn (hiệu suất sử dụng vốn đấu tư), yếu tố lao động (năng suất lao động), yếu tố đất đai (GTSX
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2