intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Từ lý thuyết tiếp nhận đến việc giảng dạy tác phẩm văn chương ở trường phổ thông ứng dụng dạy tác phẩm thơ Việt Nam hiện đại ở SGK các lớp THPT

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:123

130
lượt xem
24
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Từ lý thuyết tiếp nhận đến việc giảng dạy tác phẩm văn chương ở trường phổ thông ứng dụng dạy tác phẩm thơ Việt Nam hiện đại ở SGK các lớp THPT tập trung nghiên cứu những hình thức tác động của hình tượng văn học tới người đọc trong thơ ca và việc dạy tác phẩm thơ hiện đại và thực nghiệm giảng dạy các tác phẩm thơ hiện đại trong nhà trường phổ thông.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Từ lý thuyết tiếp nhận đến việc giảng dạy tác phẩm văn chương ở trường phổ thông ứng dụng dạy tác phẩm thơ Việt Nam hiện đại ở SGK các lớp THPT

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Phú TỪ LÝ THUYẾT TIẾP NHẬN ĐẾN VIỆC GIẢNG DẠY TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG ỨNG DỤNG DẠY TÁC PHẨM THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI Ở SGK CÁC LỚP THPT Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học môn Văn Mã số : 60 14 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TSKH. LÊ NGỌC TRÀ Thành phố Hồ Chí Minh – 2008
  2. LỜI CẢM ƠN Tôi xin gởi lời tri ân sâu sắc đến GS.TSKH Lê Ngọc Trà, người đã quan tâm, động viên tôi vượt qua khó khăn; tận tình chỉ bảo, hướng dẫn để tôi hoàn thành luận văn này. Xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô của Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh đã hết lòng dạy dỗ, giúp đỡ chúng tôi trong thời gian học tập tại trường. Xin chân thành cảm ơn Khoa Ngữ văn, Phòng Khoa học công nghệ - Sau Đại học (Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh); Sở Giáo dục và Đào tạo Tp. Hồ Chí Minh, Ban Giám hiệu, giáo viên và học sinh các trường THPT Mạc Đĩnh Chi, THPT Nguyễn Thị Minh Khai, THPT Thủ Đức và THPT Nguyễn Hiền – Tp. HCM); gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã tạo mọi điều kiện, động viên tôi vượt qua khó khăn, nhiệt tình giúp đỡ tôi về vật chất cũng như tinh thần trong suốt thời gian học tập cũng như hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Tác giả luận văn
  3. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Trong bối cảnh nền kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật phát triển với tốc độ chóng mặt thì nhu cầu hội nhập, hợp tác với các quốc gia trên thế giới ngày càng cao. Để đáp ứng được nhu cầu hội nhập, vấn đề nguồn nhân lực là vấn đề ưu tiên phát triển hàng đầu. Đào tạo nguồn nhân lực không chỉ chú trọng việc phát triển kỹ thuật nghề nghiệp mà còn chú trọng phát triển vốn sống, phát triển những kỹ năng mềm để thích ứng tốt với môi trường làm việc và môi trường sống. Để thực hiện được điều đó, chương trình giáo dục phải thay đổi từ gốc đến ngọn, giải quyết vấn đề triết lý, tầm nhìn. Không chỉ chạy đua theo bề nổi thành tích để khỏa lấp những lỗ hổng vốn đã có từ trước, giáo dục cần phải đổi mới từ chương trình đào tạo, từ phương pháp (PP) dạy học đến vấn đề kiểm tra đánh giá. Và phải bắt đầu thực hiện từ bậc học thấp nhất đến cao nhất. Nhằm mục đích giáo dục con người toàn diện với các yếu tố Đức, Trí, Thể, Mỹ; học để biết, học để làm và học để sống, phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh, đào tạo những con người năng động, tài năng để làm chủ tương lai của đất nước, nhà nước ta đã thực hiện nhiều cuộc cải cách giáo dục, mới nhất là cuộc cải cách giáo dục phổ thông với việc biên soạn chương trình, sách giáo khoa (SGK) phân ban ở trung học phổ thông (THPT) và được thực hiện đại trà vào năm học 2006-2007 sau ba năm thực hiện thí điểm. Cùng với việc biên soạn lại chương trình, SGK cho phù hợp với khuynh hướng phát triển của thế giới, đổi mới PP giảng dạy là nhu cầu cấp bách của giáo dục phổ thông nước ta hiện nay. Những năm gần đây, không ít dư luận phàn nàn về chất lượng dạy và học môn Ngữ văn ở nhà trường phổ thông. Học sinh (HS) ngày càng chán học, lơ là với môn Ngữ văn; các
  4. em không biết viết một bài văn như thế nào, làm một lá đơn cũng không biết phải bắt đầu từ đâu… Vai trò của môn Ngữ văn trong nhà trường đang ngày càng không được nhìn nhận đúng. Đối với môn Ngữ văn, việc đổi mới PP giảng dạy là vô cùng cấp thiết. Vấn đề đặt ra là đổi mới như thế nào? Và phải chăng những PP mà GV dùng để giảng dạy xưa nay là không phù hợp, không đạt chất lượng? Trong các phân môn của môn Ngữ văn, phần dạy học tác phẩm văn chương là phân môn giúp HS có nhiều hứng thú với môn học nhất. Tuy nhiên, hiệu quả của dạy học tác phẩm văn chương hiện nay cũng là vấn đề đáng bàn. Hướng đến mục đích phát huy vai trò của người học, góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Văn ở trường phổ thông, chúng tôi muốn góp một chút công sức trong việc nghiên cứu và giảng dạy tác phẩm văn chương ở trường phổ thông sao cho chất lượng và hiệu quả. Để nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn, đã có rất nhiều PP được nêu ra và đang ngày càng được ứng dụng rộng rãi như: PP dạy học nêu vấn đề, PP dạy học thảo luận nhóm, PP dạy học theo dự án… những PP này đều dựa trên lý thuyết dạy học tích cực, lấy HS làm trung tâm, chú trọng đến vai trò của người học. Điều đó có nghĩa là dạy học bằng PP tích cực lấy HS làm trung tâm là chú trọng đến vai trò của người học, người tiếp nhận. Trong giảng dạy tác phẩm văn chương, từ lâu người ta đã nói đến lý thuyết tiếp nhận, trong đó đề cao vai trò của bạn đọc - HS. Tuy nhiên, hướng khai thác lý thuyết tiếp nhận và ảnh hưởng của nó đến các PP giảng dạy trong việc dạy học tác phẩm văn chương thì chưa được khai thác đáng kể. Nghiên cứu lý thuyết tiếp nhận và PP dạy học tích cực có một ý nghĩa lớn trong việc phát huy vai trò của người học, nâng cao năng lực văn học cho HS. Vì thế, luận văn chọn đề tài “Từ lý thuyết tiếp nhận đến việc giảng dạy tác phẩm văn chương ở nhà trường phổ thông - Ứng dụng
  5. giảng dạy phần thơ Việt Nam hiện đại ở sách giáo khoa các lớp trung học phổ thông” 2. Lịch sử vấn đề: Tác phẩm văn chương thực sự trở thành tác phẩm khi bắt đầu dòng đời của nó xuất phát từ tác giả đến tay người đọc. Hoạt động tiếp nhận là hoạt động tương tác giữa người đọc và tác phẩm và tương tác với cả tác giả. Có thể nói lý luận văn học chỉ chú trọng lý thuyết tiếp nhận nghiên cứu vai trò của người tiếp nhận, nghiên cứu quá trình biện chứng của các mối quan hệ trong tiếp nhận. Hoạt động tiếp nhận vốn phong phú, đa chiều do bản chất của văn học là một tác phẩm nghệ thuật; do mỗi người tùy vào tình cảm, tri thức, kinh nghiệm, vốn sống của bản thân mà tiếp nhận tác phẩm mỗi khác. Tiếp nhận văn học đề cao vai trò của người tiếp nhận, chính người tiếp nhận quyết định số phận tác phẩm. Và việc dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường là một hoạt động tiếp nhận khá đặc biệt. Sở dĩ chúng tôi cho rằng nó đặc biệt bởi lẽ đối tượng tiếp nhận ở đây là học sinh, với lứa tuổi còn trẻ người, ít vốn sống, ít kinh nghiệm, tư duy của các em phần nào còn non nớt thì việc tiếp nhận tác phẩm phụ thuộc vào những yếu tố nhất định. Nghiên cứu vấn đề tiếp nhận tác phẩm văn chương của HS bắt buộc chúng ta phải nghiên cứu những vấn đề PP luận dạy học Văn học; nghiên cứu mối quan hệ giữa lý thuyết tiếp nhận với việc vận dụng các PP dạy học tác phẩm văn chương để tìm một hướng đi đúng trong dạy học tác phẩm hiện nay. Xét về mặt lịch sử, so với các môn khoa học kỹ thuật thì môn Văn – Tiếng việt (hiện nay gọi là Ngữ văn) vốn được giảng dạy trong nhà trường từ rất sớm. Các nhà giáo giảng dạy trên cơ sở tích lũy những tri thức, kinh nghiệm thẩm bình, dạy học qua các hoạt động bình giảng, ngâm vịnh của
  6. các nhà nho xưa. Dần dần, môn Ngữ văn chiếm một vị trí quan trọng trong chương trình giáo dục phổ thông. Điểm số của môn Ngữ văn và Toán ở nhà trường luôn có hệ số điểm như nhau và gấp đôi các môn học khác. Thế nhưng, một thời gian dài chúng ta dạy học văn theo kiểu học hỏi kinh nghiệm, tích lũy những kiến thức của người đi trước chứ chưa có một hệ PP luận soi đường nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề dạy học môn Ngữ văn nói chung và tác phẩm văn chương nói riêng. Mãi đến những năm 60 của thế kỷ XX mới xuất hiện những bài viết, công trình nghiên cứu về vấn đề này. Nếu tính từ năm 1950 khi cuốn Giảng văn Chinh phụ ngâm khúc của giáo sư Đặng Thai Mai được ấn hành ở liên khu trong thời kì kháng chiến chống Pháp đến nay, phải đến cuối thập kỉ 60 của thế kỉ XX, nhiều chuyên luận lần lượt ra đời như “Rèn luyện tư duy học sinh qua giờ giảng dạy văn học” (1969) của Phan Trọng Luận; “Vấn đề giảng dạy văn học theo loại thể” (1970) Trần Thanh Đạm chủ biên; “Phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường (1977) của Phan Trọng Luận... Những công trình đó bước đầu đã nghiên cứu về PP theo hướng chú ý đến sự tiếp nhận của HS và từng bước đi vào con đường cải tiến, hoàn thiện và đổi mới về PP. Đến năm 1983, Phan Trọng Luận xuất bản chuyên luận “Cảm thụ văn học và giảng dạy văn học”. Với PP luận nghiên cứu khoa học liên hợp, ứng dụng, kết hợp giữa lý luận với khảo sát thực tiễn Phan Trọng Luận đã cung cấp một số hiểu biết khoa học về tính đặc thù của cảm thụ văn chương, mối quan hệ thẩm mỹ của người đọc với tác phẩm, tính chủ quan, sáng tạo của tiếp nhận và những khái quát về đặc điểm cũng như tiêu chí phát triển văn học ở người đọc. Qua chặng đường dài, để hình thành lý luận dạy học văn học ở nước ta có thể kể đến những ảnh hưởng của các tài liệu hướng dẫn như “Phương pháp dạy văn học ở trường phổ thông” của V.A.Nhikônxki, “Phương pháp luận dạy văn học” do Z.Ia.Rez chủ biên…
  7. Nghị quyết Trung Ương II (khoá 8) về giáo dục và khoa học công nghệ, vấn đề nội dung và PP giáo dục đã được đặc biệt lưu ý. Vấn đề đổi mới PP được đặt ra một cách chính thức trong văn kiện của Đại hội Đảng cũng như những văn bản pháp quy của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Đổi mới PP đã trở thành vấn đề thời sự khoa học. Những bài viết nhỏ lẻ đăng trên các báo, các tạp chí về mối quan hệ giữa tác phẩm với HS, hướng đổi mới dạy học văn chương trong nhà trường phổ thông… đã được đúc kết lại trong tài liệu bồi dưỡng chính thức cho các giáo viên toàn quốc trong các chu kì bồi dưỡng thường xuyên. Theo xu hướng phát triển của xã hội, việc dạy học phải đáp ứng những yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật, những PP giảng dạy truyền thống trong nhà trường không còn thích hợp. Nên từ nghị quyết TW lần thứ tư về "Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo tháng 1-1993 chỉ rõ xác định lại mục tiêu, thiết kế lại chương trình, kế hoạch nội dung phương pháp giáo dục và đào tạo”. Yêu cầu phải có một PP dạy học thích hợp - PP dạy học tích cực phát huy tính chủ động sáng tạo của HS, lấy HS làm trung tâm để đào tạo ra những con người năng động, làm chủ đất nước trong tương lai. Trước sự đòi hỏi phải đổi mới PP dạy học, vận dụng những PP phát huy vai trò của HS trong giờ học, tạo điều kiện để HS hoạt động, làm chủ giờ học, hạn chế việc thuyết giảng một chiều của GV đặt việc dạy học tác phẩm văn chương trước một vấn đề nan giải. Làm sao để có thể vừa khơi nguồn thích thú, kích thích tư duy hình tượng cho các em, vừa để các em thảo luận, trao đổi và phát biểu ý kiến trong giờ học? Dành thời gian cho HS trao đổi, thảo luận thì GV sẽ bình giảng vào lúc nào? Nếu không bình giảng sâu sắc, chi tiết vấn đề, so sánh liên tưởng đến những hình tượng văn học tương tự thì làm hình thành được đam mê, yêu thích tác phẩm? Nếu
  8. vận dụng những PP dạy học tích cực, vô tình tạo cho cả thầy và trò những áp lực lớn trong việc dạy và học. Thầy thì phải lo vận động để dạy cho kịp giáo án, vận dụng càng nhiều PP dạy tích cực càng tốt để đối phó với việc kiểm tra đánh giá giáo viên. Trò thì căng mình ra để tham gia các hoạt động trong giờ học, không còn khoảng lặng nào cho những hình tượng văn học len lỏi vào tâm hồn HS suốt tiết học. Vì thế, việc nghiên cứu lý thuyết tiếp nhận, mối quan hệ của nó với các PP dạy học trong việc dạy học tác phẩm văn chương cung cấp một cách nhìn khác về hướng nghiên cứu, đổi mới dạy học tác phẩm văn chương nói riêng và dạy học môn Ngữ văn nói chung ở nhà trường phổ thông hiện nay. Đó là cơ sở để chúng tôi thực hiện luận văn này. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu: 3.1. Mục tiêu nghiên cứu: Mỗi một nghệ sĩ khi sáng tác thường là bộc lộ những tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của mình với người đọc. Nhưng bên cạnh đó người nghệ sĩ còn có nhu cầu giao cảm, chính nhu cầu giao cảm đó tác động đến người đọc. Bản chất của văn học nghệ thuật chính là sự hô ứng, sự giao cảm. Người đọc chịu sự tác động của nhà văn qua tác phẩm, từ đó có sự tiếp nhận của riêng mình. Việc giảng dạy tác phẩm văn chương không thể bỏ qua yếu tố này. Mỗi HS là một chủ thể độc lập trong tiếp nhận, sự tác động của nhà văn, của hình tượng văn học, của tác phẩm đến mỗi học sinh là không giống nhau. Vì thế khai thác vai trò chủ thể tiếp nhận, vai trò chủ động của người học là một khuynh hướng phù hợp với tiến trình đổi mới giáo dục hiện nay. Trên cơ sở kết hợp giữa lý thuyết tiếp nhận với PP dạy học tích cực lấy HS làm trung tâm, đề tài khai thác vai trò của sự tác động của hình tượng văn học trong việc giảng dạy tác phẩm văn chương. Phân tích, đánh
  9. giá cơ sở lý luận của vấn đề này và những hình thức biểu hiện của nó trong thơ ca. Ứng dụng thực tế vào vấn đề giảng dạy tác phẩm thơ Việt nam hiện đại ở trường THPT. Qua đó đánh giá, rút ra những cơ sở lý luận để dạy học tác phẩm văn chương và đề xuất một số hướng ứng dụng vấn đề này vào thực tế dạy học tác phẩm văn chương ở trường phổ thông. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Nghiên cứu các vấn đề cơ sở lý luận của lý thuyết tiếp nhận, đặc biệt là tính chất tác động của hình tượng nghệ thuật và vị trí của nó trong việc dạy học tác phẩm văn chương. - Nghiên cứu những đặc điểm của thơ ca từ góc độ của hoạt động nghệ thuật nhắm vào người đọc, người học. - Tiến hành thực nghiệm soạn giảng một số bài giảng ứng dụng lý thuyết trên trong giảng dạy tác phẩm thơ Việt Nam hiện đại ở trường THPT. Phân tích, đánh giá mức độ tiếp nhận của người học qua thực nghiệm. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Với đề tài này, chúng tôi nghiên cứu cơ sở lý luận của lý thuyết tiếp nhận, sự cộng hưởng giữa lý thuyết tiếp nhận và các PP dạy học hiện đại, đặc biệt là tính chất tác động của hình tượng văn học lên người học trong dạy học tác phẩm và vận dụng vào giảng dạy các tác phẩm thơ hiện đại trong chương trình THPT. 5. Phương pháp nghiên cứu: Từ mục đích, nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu nghiên cứu trên, chúng tôi vận dụng các PP sau trong luận văn: Phương pháp nghiên cứu lý luận: nghiên cứu những vấn đề lý luận về lý thuyết tiếp nhận, sự cộng hưởng của nó với các phương pháp dạy học trong quá trình dạy học tác phẩm văn chương ở nhà trường phổ thông.
  10. Phương pháp quan sát, điều tra, phỏng vấn: dự giờ GV dạy các tiết học tác phẩm thơ hiện đại, điều tra bằng bảng hỏi, phỏng vấn GV về những thuận lợi, khó khăn trong việc dạy học tác phẩm văn chương theo hướng chú trọng thi pháp tác động; khảo sát mức độ tiếp nhận của học sinh. Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm: thực hành soạn giảng một số bài dạy các tác phẩm văn chương ở trường phổ thông theo sự chi phối của lý thuyết tiếp nhận. Phương pháp thống kê toán học. Phương pháp phân tích, đánh giá: phân tích hiệu quả của việc khai thác thi pháp tác động trên cơ sớ lý thuyết tiếp nhận và sự kết hợp của nó với phương pháp dạy học hiện đại trong dạy học tác phẩm văn chương và đánh giá những đóng góp của luận văn. 6. Giới hạn của đề tài: Đề tài: “Từ lý thuyết tiếp nhận đến việc giảng dạy tác phẩm văn chương ở nhà trường phổ thông - Ứng dụng giảng dạy phần thơ Việt Nam hiện đại ở SGK các lớp THPT” nhằm đưa ra một hướng tiếp cận mới trong việc giảng dạy tác phẩm văn chương ở nhà trường. Đề tài phân tích những vấn đề lý luận về lý thuyết tiếp nhận, và những khả năng ứng dụng của nó trong việc giảng dạy tác phẩm văn chương ở trường phổ thông như thế nào, kết hợp vận dụng vào việc giảng dạy các tác phẩm thơ hiện đại ở chương trình sách giáo khoa lớp 11, 12 THPT. Do giới hạn của một luận văn cao học và thời gian có hạn nên đề tài chỉ ứng dụng giảng dạy phần thơ hiện đại, còn những thể loại khác nếu có cơ hội chúng tôi sẽ nghiên cứu ớ những đề tài tương tự.
  11. 7. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài: 7.1. Cơ sở khoa học: Luận văn thể hiện sự kết hợp giữa lý thuyết tiếp nhận với PP dạy học hiện đại lấy học sinh làm trung tâm, đặc biệt tính chất tác động của hình tượng văn học trong dạy học tác phẩm văn chương góp phần tạo nên hứng thú, say mê, phát huy năng lực cảm thụ của học sinh đáp úng yêu cầu đổi mới giảng dạy văn chương trong nhà trường. 7.2. Cơ sở thực tiễn: Luận văn thực hiện theo chương trình sách giáo khoa THPT của Bộ Giáo dục và Đào tạo, khảo sát, thực nghiệm giảng dạy tại các trường THPT tại Tp.HCM năm học 2006-2007, 2007-2008. 8. Đóng góp của luận văn: Vai trò của người tiếp nhận, mối tương quan giữa nguời tiếp nhận và chủ thể sáng tác, vấn đề cảm thụ văn học của HS đã được nghiên cứu nhiều trong những năm gần đây. Tuy nhiên, vấn đề kết hợp, cộng hưởng giữa lý thuyết tiếp nhận với các PP dạy học hiện đại lấy HS làm trung tâm, phát huy năng lực tiếp nhận của HS qua dạy học tác phẩm văn chương thì chưa có một công trình nghiên cứu cụ thể, chuyên sâu. Trong giới hạn có thể, luận văn cung cấp một cái nhìn chi tiết hơn về vấn đề này nhằm góp một chút công sức trong việc nghiên cứu và đổi mới dạy và học tác phẩm văn chương trong nhà trường. 9. Bố cục của luận văn: Luận văn được thiết kế theo 3 phần: Phần mở đầu: Nêu lý do chọn đề tài, lịch sử phát triển của vấn đề, đối tượng nghiên cứu, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, giới hạn của đề tài, cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài và bố cục của luận văn.
  12. Phần nội dung: gồm 3 chương Chương một: Cơ sở lý luận của lý thuyết tiếp nhận và sự kết hợp giữa lý thuyết tiếp nhận và phương pháp dạy học tích cực lấy học sinh làm trung tâm. Chương hai: Những hình thức tác động của hình tượng văn học tới người đọc trong thơ ca và việc dạy tác phẩm thơ hiện đại. Chương ba: Thực nghiệm giảng dạy các tác phẩm thơ hiện đại trong nhà trường phổ thông. Phần kết luận. Tài liệu tham khảo Phụ lục
  13. CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT TIẾP NHẬN VÀ SỰ KẾT HỢP GIỮA LÝ THUYẾT TIẾP NHẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC LẤY HỌC SINH LÀM TRUNG TÂM 1.1. Lý thuyết tiếp nhận và những vấn đề lý luận: 1.1.1. Một số vấn đề về lý thuyết tiếp nhận. 1.1.1.1 Sơ lược về nguồn gốc và cơ sở lý luận: Tác phẩm văn học được sáng tác ra để thưởng thức, tiếp nhận. Một tác phẩm sau khi được tác giả hoàn thành còn ở dưới dạng văn bản, nó thật sự trở thành tác phẩm chỉ khi đến tay người đọc, bắt đầu đời sống của nó. Đời sống của một tác phẩm văn học diễn tiến từ hai phía: người sáng tạo ra nó và phía người tiếp nhận. Nghiên cứu văn học cũng xuất phát từ hai phía, phía sáng tạo và phía tiếp nhận. Thế nhưng, từ trước đến nay lý luận văn học chủ yếu tập trung nghiên cứu khâu sáng tác, nghiên cứu sáng tác tách rời với các quy luật tiếp nhận. Với tư cách là một lý thuyết khoa học, lý thuyết tiếp nhận là một bổ sung cần thiết cho khoa nghiên cứu văn học nhằm khám pháp đầy đủ hơn tác phẩm văn học và sự vận hành của nó trong đời sống. Lý luận tiếp nhận không phủ nhận mối quan hệ giữa tác phẩm với nhà văn, với môi trường sinh thành ra nó, không phủ định tác phẩm như một quá trình sáng tạo và như một cấu trúc thẩm mỹ. Lý thuyết tiếp nhận vốn không xa lạ. Ở phương Đông, từ thế kỷ I trước CN lý luận tiếp nhận văn học đã hình thành hai quan niệm: Tri âm và Kí thác. Quan niệm tri âm cho rằng nhiệm vụ tiếp nhận văn học là cảm và hiểu cuộc sống được gợi lên trong tác phẩm như chính tác giả. Vì sao Bá
  14. Nha đập vỡ cây đàn khi Chung Tử Kỳ chết? Vì đã không còn người tri âm, thấu hiểu nỗi lòng của cầm gia thì đàn còn ý nghĩa gì nữa. Quan niệm ký thác thì xem tác phẩm như nơi để gởi gắm tư tưởng, tình cảm của người đọc. Ở phương Tây, trường phái phê bình ấn tượng do J.Lemaitre chủ xướng chủ trương tái hiện cảm xúc tinh khôi, tươi mới của người đọc trong việc tiếp nhận tác phẩm. Hoạt động cảm thụ, phê bình tác phẩm diễn tiến phong phú, đa dạng tác động không ít đến những người nhà nghiên cứu lý luận, những người muốn đặt lý thuyết tiếp nhận trên bình diện phương pháp luận để mổ xẻ, nghiên cứu. Năm 1967, Hans Rober Jauss, một đại biểu của trường phái Constance đã nêu ra vấn đề tiếp nhận: sự tiếp nhận của truyền thống văn hóa này đối với tác phẩm của truyền thống văn hóa khác; của một xã hội này đối với tác phẩm của một xã hội khác và của công chúng xác định đối với một tác phẩm. Trong quyển “Vì một nền mỹ học tiếp nhận”, Jauss đã đặt giả thuyết rằng một tác phẩm đồng thời bao gồm văn bản với tư cách là một cấu trúc cho sẵn và sự tiếp nhận của người đọc. Ý nghĩa của nó thay đổi theo điều kiện và lịch sử xã hội của tiếp nhận nên nó không cố định, bất biến mà mang ý nghĩa của cuộc đối thoại. Năm 1976-1978, công trình “Xã hội, văn học, sự đọc” của các nhà nghiên cứu Đức do Manfred Nauman chủ biên đã nêu những vấn đề cốt lõi nhất của lý thuyết tiếp nhận. Họ cho rằng trung tâm lý thuyết tiếp nhận là giải quyết vấn đề tương quan chặt chẽ giữa các thành tố khác nhau của quá trình tiếp nhận văn học. Từ đó cần làm rõ ý nghĩa các thành tố: tác giả, tác phẩm, người đọc và hiện thực. Xét về mặt giáo trình giảng dạy ở nhà trường sư phạm, theo Trần Đình Sử, cấu trúc của các giáo trình lý luận văn học, kể cả sách lý luận của Viện Văn học Liên Xô như Dẫn luận nghiên cứu văn học (M., 1976, 1983),
  15. Lý luận văn học, 3 tập (M., 1962-1965), Khoa học về văn học của Viện sĩ Busowmin (1980) đều không nhắc đến vấn đề tiếp nhận văn học. Lý luận văn học với tư cách là một khoa học ra đời vào buổi giao thời thế kỷ XVIII- XIX (P.Nikolaiek, 1983) thì lý luận tiếp nhận phải đến đầu thế kỷ XX mới được ý thức và đến năm 1986 ở nước ta mới có bài Tiếp nhận văn học trong giáo trình Lý luận văn học, trong khi trước đó các giáo trình nghiên cứu Lý luận văn học đều không đề cập đến vấn đề tiếp nhận. Và trong thế kỷ XX, lý luận tiếp nhận văn học đã được hình thành và phát triển có hệ thống dần dần trở thành một hướng nghiên cứu có triểm vọng. Mối quan hệ giữa tác phẩm và người đọc là vấn đề trung tâm của lý thuyết tiếp nhận, là cơ sở lý luận của lý thuyết tiếp nhận. Nghiên cứu lý thuyết tiếp nhận tức là nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa tác phẩm và người đọc. Tác phẩm văn học đến tay độc giả, được độc giả đọc, thẩm bình. Sau đó tác phẩm lại quay về với nhà văn, tác động ngược trở lại nhà văn. Có trường hợp nhà văn phải viết những chuyên luận để giải thích cho bạn đọc những vấn đề đã thể hiên trong tác phẩm. Tuy nhiên, việc tiếp nhận văn học vốn vận động, bất biến. Qua mỗi thời đại, mỗi hoàn cảnh xã hội lịch sử khác nhau, mỗi con người khác nhau thì việc tiếp nhận đã hoàn toàn đổi khác. Nhà văn không thể sống mãi với thời gian và cũng không thể giải thích hết được những vấn đề người đọc suy nghĩ. Có thể thấy vai trò của người đọc quyết định số phận tác phẩm. Vì sao Chiến tranh và hòa bình (L. Tolstoi), Những người khốn khổ (V.Huygo)… sống mãi với thời gian, trở thành những kiệt tác vượt qua mọi thời đại, mọi đối tượng tiếp nhận? Vì sao lại có những tác phẩm mới đến tay người đọc hôm nay hôm sau đã không còn một dư âm nào về nó cả? Ở đây, người tiếp nhận là người thẩm định tốt nhất giá trị tác phẩm. “Hữu xạ tự nhiên hương”, đối với những tác phẩm lớn thì cuộc đời nó luôn ẩn chứa
  16. những khả năng mới sẽ bộc lộ khi nó tiến hành cuộc hành trình qua không gian và thời gian. Bạn đọc, và mối quan hệ giữa bạn đọc và tác phẩm văn học là nguồn gốc xuất hiện lý luận tiếp nhận văn học và cũng là cơ sở lý luận nghiên cứu vấn đề tiếp nhận. 1.1.1.2. Những đặc điểm của lý thuyết tiếp nhận. Tiếp nhận văn học là một quá trình tiếp thu lĩnh hội một đối tượng nghệ thuật là tác phẩm văn học. Tiếp nhận văn học đồng nghĩa với việc đọc hiểu những gì đã đọc thông qua ngôn từ và những gì có ý nghĩa nhân sinh thẩm mỹ trong tác phẩm văn chương. Nguyên lý chú giải theo Gađamelà “phải cố gắng hiểu tất cả những gì có thể hiểu được”. Khi đọc tác phẩm văn chương, người tiếp nhận không thể với tới hiện thực tiếp nhận ở dạng nguyên thủy được mà chỉ có thể hiểu được qua thế giới nghệ thuật được sắp đặt, tổ chức bằng ngôn ngữ và trong ngôn ngữ. Theo Gađame con người sống trong ngôn ngữ và không thể bước ra ngoài dù là một phút giây nào. Tác phẩm văn học là một đối tượng nhận thức đặc thù vì nó là sản phẩm tinh thần đặc biệt. Muốn chiếm lĩnh, tiếp nhận không thể vận dụng những năng lực hoạt động nhận thức chung mà cần đến những năng lực đặc thù qua hình tượng thẩm mỹ vốn là một hình tượng nhận thức phát triển ở mức cao hơn những hoạt động nhận thức bằng lý luận. Tác phẩm văn học là một sáng tạo tinh thần của cá nhân người nghệ sĩ. Nó không phải là một vật thể thẩm mỹ cụ thể mà là một tồn tại phi vật thể thông qua hình tượng thẩm mỹ được vật chất hoá bằng hệ thống tín hiệu ngôn ngữ nghệ thuật. Tác phẩm văn chương nào cũng nhằm mục đích thông báo tình cảm thẩm mỹ. Nhà văn gửi đến cho người đọc nhiều xúc động mãnh liệt nhất về cuộc sống, con người dưới ánh sáng của một lý tưởng thẩm mỹ. Nội dung đó nó được thể hiện qua hình tượng thẩm mỹ được hệ thống hoá qua hệ thống
  17. ngôn ngữ nghệ thuật do nhà văn sáng tạo nên. Nó là một đặc trưng riêng trong sáng tác văn học và trong tiếp nhận văn học. Tiếp nhận chính là tìm hiểu những tình cảm thẩm mỹ bằng hình tượng thẩm mỹ qua hệ thống ngôn ngữ. Đây là một qui trình khép kín của tác phẩm văn học từ sáng tác đến bạn đọc và ngược lại. Từ qui trình tác động của tác phẩm văn học đối với bạn đọc, chúng ta nhận thấy qui trình tiếp nhận tác phẩm là quá trình tiếp thu, lĩnh hội những giá trị mà văn bản tác phẩm văn học mang đến cho người đọc. Nó đòi hỏi người đọc phải có những năng lực cụ thể. Quá trình đó diễn ra theo một chiều duy nhất đó đọc văn và tri giác ngôn ngữ. “Tiếp nhận văn học là một quá trình, vì nó chỉ thực sự diễn ra theo một hoạt động duy nhất là đọc văn”[34, tr.35]. Tiếp nhận văn học là giai đoạn hoàn tất qua trình sáng tác - giao tế của tác phẩm: Nghệ sĩ sáng tạo tác phẩm là để truyền đạt những khát quát, rung cảm của mình về cuộc sống cho người đọc, chỉ khi người đọc tiếp nhận tác phẩm thì quá tình sáng tạo mới hoàn tất. Muốn hiểu rõ bản chất của quá trình tiếp nhận, cần thấy rõ hình tượng nghệ thuật tồn tại như một quá trình có nhiều giai đoạn. trước tiên nó nảy sinh trong ý đồ tác giả, sau đó được vật chất hóa qua tác phẩm. Tác phẩm chỉ được tồn tại khi đến tay độc giả, hình tượng văn học bước vào giai đoạn chuyển nội dung văn bản thành yếu tố tinh thần, biến tác phẩm thành một yếu tố của đời sống ý thức xã hội. Sự tiếp nhận văn học không phải là việc sử dụng từ ngữ, tìm kiếm kiến thức xã hội, văn hóa, lịch sử, kinh tế, chính trị… mà là sự tiếp nhận, giao thoa giữa người đọc với tác phẩm, là những kết tinh kinh nghiệm, tư tưởng tình cảm mà người đọc có được từ tác phẩm.
  18. Tiếp nhận đòi hỏi người đọc phải biết tri giác, cảm thụ tác phẩm, phải hiểu tình tiết, ngôn ngữ, cốt truyện, thể loại cảm nhận hình tượng văn học toàn vẹn. Người đọc thâm nhập vào hệ thống hình tượng tác phẩm và đưa hình tượng tác phẩm vào văn cảnh đời sống và kinh nghiệm sống của mình để thể nghiệm, đồng cảm. Mức độ cuối cùng của quá trình tiếp nhận là người đọc lí giải tác phẩm, hiểu được vị trí của tác phẩm trong lịch sử văn hóa, tư tưởng và truyền thống nghệ thuật. Tiếp nhận văn học đòi hỏi sự tham gia của tri giác, cảm giác, trực giác, tưởng tượng; và bộc lộ cá tính của người tiếp nhận, lập trường của người đọc với giá trị tác phẩm. Tính khách quan của tiếp nhận văn học: Tiếp nhận văn học xuất phát từ người đọc. Mỗi người đọc có một suy nghĩ chủ quan riêng, và việc tiếp nhận tùy thuộc vào những suy nghĩ, độ tinh tế, kiến thức, vốn sống của người đó. Cùng một tác phẩm nhưng có người thì say mê ngôn ngữ của tác phẩm, người thì tìm kiếm trong đó sự đồng cảm, đồng điệu trong cuộc sống, có người thì chú trọng khai thác tác phẩm trên các quan điểm nghệ thuật. Có nhiều trường hợp cùng một câu chữ nhưng mỗi người lại có mỗi cách tiếp cận khác nhau, lý giải khác nhau tùy thuộc vào thị hiếu, vào vốn sống, vào năng lực thẩm mỹ của mỗi người. Tuy nhiên, tiếp nhận văn học lại là hoạt động mang tính lịch sử xã hội và khách quan. Có rất nhiều quan niệm về tiếp nhận văn học như vấn đề tri âm, người tri âm là người thấu hiểu nỗi lòng của người sáng tạo. Nhưng trong đời sống văn học nghệ thuật, có được bao nhiêu Bá Nha với Chung Tử Kỳ? Quan niệm đọc văn lấy lòng mình mà đọc không quan tâm đến dụng tâm của tác giả giải phóng sức sáng tạo, liên tưởng của người đọc. Có lẽ nhờ cách đọc văn, bình văn như thế mà Tây Sương Ký trở thành tuyệt tác qua lời bình của Kim Thánh Thán. Tuy nhiên, cách tiếp nhận này dễ khiến người đọc rơi vào chủ quan và có thể xuyên tạc tác phẩm.
  19. Văn học phản ánh đời sống xã hội nên vốn mang tính khách quan. Nội dung tinh thần của tác phẩm được sáng tạo trên cơ sở ngôn ngữ toàn dân và các phương tiện tạo hình, biểu hiện nên hoàn toàn có thể truyền đạt những yếu tố, nội dung tương đồng từ tác giả đến người đọc. Đó là những cơ sở định hướng tiếp nhận của người đọc. Bằng chứng Lỗ Tấn sau khi xuất bản AQ chính truyện đã bị rất nhiều độc giả gởi thư mắng chửi tại sao ông lại đưa họ vào tác phẩm của ông. Thành công của Lỗ Tấn là đã xây dựng một hình tượng nhân vật phổ chúng, mọi tầng lớp người đều như thấy dáng dấp của mình trong tác phẩm. Tiếp nhận là hoạt động khách quan. Người tiếp nhận phải dựa trên những định hướng giới hạn về nội dung, nghệ thuật tác phẩm để tránh chủ nghĩa cá nhân và xuyên tạc nội dung tác phẩm. Một tác phẩm luôn có giá trị tự thân của nó, người đọc phải cảm thụ khách quan và tôn trọng. Không phải nói tiếp nhận là chủ quan của người đọc thì anh muốn hiểu thế nào cũng được. Tính sáng tạo của tiếp nhận văn học: Như ta đã biết, tiếp nhận văn học là hoạt động chủ quan của người đọc, người đọc lí giải tác phẩm bình giảng tác phẩm vì thế nó là một hoạt động tích cực. Tùy vào tri thức, kinh nghiệm sống của mỗi người mà việc lý giải có thể sâu sắc, cũng có thể hời hợt, phiến diện tác phẩm văn học khi mới đến tay người đọc tự bản thân nó mang những ý tưởng mà tác giả thể hiện. Thế nhưng, khi người đọc bắt đầu can thiệp vào tác phẩm bằng những suy nghĩ cá nhân thì tác phẩm không còn ý nghĩa như ban đầu nữa. Tiếp nhận văn học không chỉ đọc tác phẩm, mà còn phân tích, bình giải những nội dung ý tưởng của tác phẩm. Do tính tương tác, do những yếu tố tự thân của tác phẩm, do trình độ của người đọc mà sự sáng tạo trong tiếp nhận cũng đa dạng và phong phú. Người đọc có thể phát hiện ra những tầng bậc ý nghĩa mà ngay cả tác giả
  20. cũng sẽ bất ngờ. Đỉnh cao của sáng tạo trong tiếp nhận văn học là những kiến giải bình giảng tác phẩm còn sâu sắc hơn bản thân tác phẩm, thẩm bình về Tây Sương Ký của Kim Thánh Thán là một ví dụ. Hay như hoạt động sáng tạo lại tác phẩm từ nguyên tác Đoạn trường tân thanh, Nguyễn Du đã để lại cho dân tộc Việt Nam một tuyệt tác bất hủ - Truyện Kiều. 1.1.2. Tính chất tác động của hình tượng văn học – cơ sở của lý thuyết tiếp nhận. Tác động là một tính chất của quá trình tiếp nhận. Tác phẩm văn học thông qua các phương tiện biểu đạt như ngôn từ, cú pháp, biện pháp tu từ… tạo nên những hình tượng âm thanh, hình ảnh, nhịp điệu… tác động lên tri giác, xúc giác của người đọc, bắt đầu một quá trình chuyển hóa tác phẩm từ văn bản đến nội dung ý nghĩa trong tư duy của người đọc. Quá trình tác động có tính chất tương tác. Hình tượng văn học tác động lên tri giác, xúc giác của người đọc, khai mở những giác quan, tư duy. Ngược lại, người đọc tiếp nhận các hình tượng lại tác động ngược lại hình tượng, gắn cho nó những cung bậc ý nghĩa mới. Hình tượng văn học vốn phong phú, đa dạng. Một tác phẩm nghệ thuật luôn chứa trong mình cả một hệ thống hình tượng. Màu sắc, âm thanh, nhịp điệu, nhạc tính… là những biểu hiện sinh động thể hiện hình tượng tác phẩm xây dựng nên. Tại sao trái tim ta cũng như ngừng đập, tĩnh lặng theo Xuân Diệu để lắng nghe, để cảm giác mùa thu đang về đâu đây? Có phải do những hình tượng hoa lá, những âm thanh, sắc màu của cảnh vật, những rung cảm rất tinh tế, nhạy cảm của tác giả kéo chúng ta vào tác phẩm, vào cùng cảm giác giao mùa? Vì sao rất nhiều chàng trai muốn mình được một lần “mắt trừng gởi mộng qua biên giới”? Có phải do tác động của hình tượng người anh hùng Tây Tiến quá bay bổng, quá lãng mạn trong lòng người đọc?
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2