intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Chia sẻ: SuSan Weddy | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:100

33
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở nghiên cứu về phát triển nền kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay luận văn đƣa ra định hướng và giải pháp phát triển nền kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ --------------***-------------- NGUYỄN THỊ THÚY PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2009
  2. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ..................................................................................................................1 Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .......................................................................6 1.1. Những vấn đề lý luận chung về kinh tế tri thức ................................................6 1.1.1. Khái niệm và đặc trƣng của kinh tế tri thức ...................................................6 1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của kinh tế tri thức .................................16 1.1.3. Tiêu chí nhận biết trình độ kinh tế tri thức...................................................25 1.2. Những nhân tố ảnh hƣởng đến phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam ............28 1.2.1. Chất lƣợng nguồn nhân lực và giáo dục đào tạo .....................................28 1.2.2. Tiềm lực khoa học - công nghệ ...................................................................30 1.2.3. Vai trò của Nhà nƣớc đối với sự phát triển kinh tế tri thức ..........................32 1.2.4. Tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế..........................................35 1.3. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tri thức ở một số nƣớc, một số bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam ........................................................................36 1.3.1. Kinh tế tri thức ở các nƣớc phát triển ..........................................................36 1.3.2. Kinh tế tri thức ở các nƣớc châu Á đang phát triển ......................................39 1.3.3. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam .................................................43 Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM ................48 2.1. Sự cần thiết phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam .........................................48 2.1.1. Thực trạng của nền kinh tế trong thời kỳ đổi mới ........................................48 2.1.2. Những thuận lợi và khó khăn trong việc phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam ............................................................................................................58 2.2. Thực trạng hình thành các nhân tố kinh tế tri thức ở Việt Nam ......................60 2.2.1. Chất lƣợng nguồn nhân lực và hệ thống giáo dục đào tạo............................60 2.2.2. Tiềm năng khoa học công nghệ và cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật ...................68 2.2.3. Năng lực điều hành và quản lý của Nhà nƣớc..............................................70 2.3. Những thành tựu và hạn chế trong quá trình phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam 71 2.3.1. Những thành tựu và nguyên nhân ................................................................71 2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân...................................................................74 1
  3. 2.3.3. Những vấn đề đặt ra đối với kinh tế tri thức ở Việt Nam .............................78 Chƣơng 3. NHỮNG PHƢƠNG HƢỚNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM .............................................. 81 3.1. Những phƣơng hƣớng cơ bản .........................................................................81 3.1.1. Thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng bƣớc phát triển kinh tế tri thức .....................................................................................81 3.1.2. Xây dựng tiềm lực tri thức và sử dụng lực lƣợng lao động tri thức .....................83 3.1.3. Một số quan điểm cơ bản về phát triển của kinh tế tri thức ở Việt Nam ......85 3.2. Các giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam ......................86 3.2.1. Xây dựng cơ chế chính sách và cải cách nền hành chính quốc gia phù hợp với phát triển kinh tế tri thức .......................................................................86 3.2.2. Phát triển các ngành công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ thông tin ...........88 3.2.3. Đổi mới giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức 91 3.2.4. Xây dựng thị trƣờng lao động đáp ứng theo nhu cầu của xã hội .......................... 93 3.2.5. Sử dụng nguồn nhân lực phải đảm bảo tạo điều kiện để nguồn nhân lực phát huy đƣợc tính linh hoạt và khả năng sáng tạo ..............................................95 3.2.6. Tăng cƣờng bảo vệ sở hữu trí tuệ ................................................................96 KẾT LUẬN ........................................................................................................... 101 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................... 102 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây kinh tế tri thức là đề tài đƣợc nhiều cuộc hội thảo quốc tế nhiều công trình nghiên cứu quan tâm. Sự phát triển nhƣ vũ bão của công nghệ thông tin, sự tƣơng tác giữa tin học, vi điện tử và sinh học đã tạo ra những tiến bộ thần kì trong kinh tế. Những tiến bộ đó sẽ tiếp tục cung cấp nguyên liệu cho sự tăng trƣởng của thế giới trong những năm tới. Sự phát triển không ngừng có tính bùng nổ của lực lƣợng sản xuất trong đó tri thức đóng vai trò nhƣ lực lƣợng sản xuất chủ yếu đã dẫn đến sự hình thành một nền kinh tế mới, nền kinh tế tri thức. Xu hƣớng chung trong sự phát triển kinh tế của các nƣớc trên thế giới là phát triển kinh tế tri thức. Việt Nam cũng không nằm ngoài ngoại lệ đó. 2
  4. Nhận thức đƣợc xu thế nêu trên, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã khẳng định: “Chúng ta tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nƣớc ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc theo định hƣớng XHCN gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển mạnh các ngành kinh tế và các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa vào tri thức”. Trong giai đoạn hiện nay kinh tế thế giới đang trong giai đoạn chuyển sang nền kinh tế tri thức, một trình độ phát triển cao của LLSX. Việt Nam cũng nhƣ một số nƣớc đang phát triển đang đứng trƣớc những cơ hội và thách thức rất lớn để có thể tận dụng ƣu thế của ngƣời đi sau để có thể định hƣớng, nắm bắt khoa học công nghệ, đi tắt đón đầu xu hƣớng phát triển của nhân loại. Chỉ có nhƣ vậy chúng ta mới có thể theo kịp các nƣớc phát triển. Bên cạnh đó, khi cả thế giới đang chuyển mình sang giai đoạn phát triển kinh tế tri thức, nếu chúng ta không có đƣợc sự chuẩn bị tốt nhất cả về nhận thức lẫn hành động thì chắc chắn chúng ta không theo kịp sự phát triển của nhân loại. Lúc đó thì việc hội nhập quốc tế sẽ không còn ý nghĩa quan trọng, bởi vì khi đó chúng ta không thể tận dụng và học hỏi các kinh nghiệm, công nghệ tiên tiến và ngƣợc lại các nƣớc khác cũng chẳng hợp tác đƣợc gì từ chúng ta. Có chăng chúng ta chỉ là thị trƣờng tiêu thụ các công nghệ lạc hậu, tiêu thụ các sản phẩm của các nƣớc khác. Kinh tế tri thức đang ở trong giai đoạn bắt đầu, khái niệm về kinh tế tri thức còn chƣa đƣợc thống nhất, sự nghiên cứu kinh tế tri thức cũng chƣa có nhiều, đặc biệt ở Việt Nam. Nhƣng có thể khẳng định đó là một xu hƣớng phát triển tất yếu của LLSX, của mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của nhân loại. Xuất phát từ những lý do đó, tác giả chọn đề tài “Phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” nhằm góp phần hoàn thiện về lý luận và các giải pháp phát triển kinh tế tri thức ở nƣớc ta trong quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, góp phần hiện thực hóa mục tiêu đi tắt, đón đầu mà Đảng đã đề ra. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 3
  5. Trong một vài năm qua, đã có một số tác phẩm trong và ngoài nƣớc nghiên cứu về kinh tế tri thức. Cụ thể ở nƣớc ta có một số tác phẩm nhƣ: - “Phát triển kinh tế tri thức: rút ngắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa” xuất bản năm 2001 của GS.VS. Đặng Hữu. - Kinh tế tri thức xu thế mới của xã hội thế kỷ XXI của Ngô Quý Tùng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. - “Kinh tế tri thức: Những khái niệm và vấn đề cơ bản” xuất bản năm 2002 của Đặng Mộng Lân. - Kinh tế tri thức vấn đề và giải pháp: Kinh nghiệm của các nƣớc phát triển và đang phát triển của Takaski Kiuchi, Tianzhongging, Cheonsikwoo Nxb. Thống kê, Hà Nội. 2001. - Bƣớc chuyển sang nền kinh tế tri thức ở một số nƣớc trên thế giới hiện nay của Lƣu Ngọc Trịnh, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2003. - Kinh tế tri thức ở Việt Nam - quan điểm và giải pháp phát triển của Vũ Trọng Lâm, Nxb. Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 2004. - Kinh tế tri thức thời cơ và thách thức đối với sự phát triển ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004. - Nhà nƣớc với phát triển kinh tế tri thức trong bối cảnh toàn cầu hóa, của Nguyễn Thị Luyến, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2005. - Hành trang thời đại kinh tế tri thức của Thế Trƣờng, Nxb. Văn hóa Tƣ tƣởng, Hà Nội, 2005. - Đổi mới tƣ duy về giai cấp công nhân kinh tế tri thức và công nhân tri thức của Văn Tạo, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008. - Các công trình, bài viết kể trên đã đƣa ra những khái niệm cụ thể phản ánh tình hình, xu hƣớng phát triển, những thành công cũng nhƣ những tồn tại, bất cập của nền kinh tế tri thức ở nƣớc ta trong thời gian qua. Tuy nhiên, vấn đề kinh tế tri thức vẫn đang trong quá trình hình thành và phát triển ở nƣớc ta để góp phần vào việc phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay thì vẫn còn cần nhiều nghiên cứu hơn nữa vào lĩnh vực này để có thể vạch ra 4
  6. những con đƣờng, bƣớc đi ngắn nhất, phù hợp nhất cho Việt Nam trên con đƣờng phát triển và hội nhập. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài * Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu về phát triển nền kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay luận văn đƣa ra định hƣớng và giải pháp phát triển nền kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay. * Nhiệm vụ: - Luận văn tập trung nghiên cứu, tìm hiểu và làm rõ khái niệm, bản chất và xu hƣớng phát triển của kinh tế tri thức, các tác động về kinh tế, xã hội, thời cơ, thách thức và những vấn đề đặt ra với Việt Nam trƣớc xu thế phát triển của kinh tế tri thức. Đồng thời phân tích thực trạng nền kinh tế và các yếu tố tiền đề của kinh tế tri thức để từ đó đề xuất các hƣớng chiến lƣợc, các giải pháp để phát triển nền kinh tế nƣớc ta theo kịp sự phát triển của thế giới với trình độ phát triển cao, trình độ kinh tế tri thức. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề về lý luận và thực tiễn trong việc phát triển kinh tế tri thức của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. * Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu về lý luận kinh tế tri thức và việc ứng dụng phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, không gian nghiên cứu là tầm vĩ mô của nền kinh tế Việt Nam, về thời gian tập trung vào thời kỳ 1995 đến nay. 5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn * Nguồn tài liệu: Tác phẩm kinh điển, hệ thống văn kiện của Đảng, các bài viết của Đảng và Nhà nƣớc, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ và các công trình nghiên cứu khoa học. * Phương pháp nghiên cứu: Về cơ bản tác giả sử dụng phƣơng pháp duy vật biện chứng, phƣơng pháp trừu tƣợng hóa khoa học và phƣơng pháp lôgíc kết 5
  7. hợp với lịch sử để nghiên cứu và khảo sát sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp: tổng hợp, thống kê, phân tích,... để làm rõ những luận điểm đƣợc đề cập trong luận văn. 6. Đóng góp và ý nghĩa của luận văn - Hệ thống hóa lý luận về kinh tế tri thức. - Phân tích, đánh giá những yếu tố ban đầu về kinh tế tri thức. - Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất những quan điểm và giải pháp nhằm xây dựng kinh tế tri thức ở Việt Nam trong thời gian tới. 6
  8. 7. Kết cấu luận văn Ngoài mục lục, mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3 chƣơng, 8 tiết: Chƣơng 1. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay. Chƣơng 2. Thực trạng phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Chƣơng 3. Những phƣơng hƣớng quan điểm cơ bản và các giải pháp phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. 7
  9. Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. Những vấn đề lý luận chung về kinh tế tri thức 1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của kinh tế tri thức Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó khoa học công nghệ trở thành lực lƣợng sản xuất trực tiếp, là yếu tố quyết định hàng đầu việc sản xuất ra của cải, sức cạnh tranh và triển vọng phát triển. Có thể nói: Khoa học công nghệ là lực lƣợng sản xuất thứ nhất. Chính vì thế thuật ngữ “Kinh tế tri thức”, “Nền kinh tế tri thức” là những thuật ngữ đƣợc sử dụng phổ biến trong mấy năm gần đây trên sách báo nƣớc ta. Trong Văn kiện Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam, thuật ngữ “Kinh tế tri thức” cũng đƣợc chính thức sử dụng và trở thành một nội dung quan trọng trong chiến lƣợc phát triển kinh tế của nƣớc ta. Trên thế giới, thuật ngữ “Kinh tế tri thức” đƣợc sử dụng trên các sách báo kinh tế khoảng hơn 20 năm qua và vào năm 1996, tổ chức Hợp tác phát triển kinh tế OECD chính thức sử dụng thuật ngữ này. Theo OECD, kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.[14 tr21] Mặc dù thuật ngữ “Kinh tế tri thức” hoặc “Nền kinh tế tri thức” đã đƣợc sử dụng một cách phổ biến nhƣng nội hàm của khái niệm này về cơ bản vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau. Tổng hợp các quan niệm về kinh tế tri thức, có hai cách hiểu chính do có hai cách tiếp cận khác nhau. Cách hiểu thứ nhất: Coi kinh tế tri thức là một “Nền kinh tế”, thuộc xã hội “Hậu công nghiệp”. Đây là cách hiểu xuất phát từ góc độ phân tích lịch sử nhân loại tiến triển theo lý thuyết các nền văn minh mà A. Toffler - một nhà xã hội học ngƣời Mỹ - là đại biểu nổi tiếng. Lý thuyết về lịch sử các nền văn minh có ảnh hƣởng rất lớn tới các học giả phƣơng Tây khi phân tích về nền kinh tế tri thức. Theo lý thuyết này, lịch sử nhân loại tiến triển qua ba giai đoạn (ba nền văn minh): 8
  10. văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp và văn minh hậu công nghiệp. Giai đoạn văn minh hậu công nghiệp chính là giai đoạn phát triển của nền kinh tế tri thức. Cách hiểu thứ hai: Không coi kinh tế tri thức là một “Nền kinh tế tri thức”. Đây là cách hiểu phổ biến của những nhà nghiên cứu hiện nay ở Việt Nam và Trung Quốc. Cách hiểu này có điểm xuất phát là phƣơng pháp luận mácxít về hình thái kinh tế - xã hội. Theo lý luận về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác thì lịch sử nhân loại phát triển qua các giai đoạn lịch sử: xã hội nguyên thủy, xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tƣ bản và xã hội cộng sản chủ nghĩa. Mỗi xã hội đó là một cơ cấu kinh tế - xã hội thống nhất, vận động theo các quy luật nội tại khách quan, mà trƣớc hết và cơ bản nhất là hệ thống các quy luật kinh tế. Các quy luật này phụ thuộc về bản chất của hệ thống cơ cấu kinh tế trong mỗi giai đoạn lịch sử, là hệ thống cơ cấu của mỗi phƣơng thức sản xuất đặc thù. Tƣơng ứng với các giai đoạn phát triển kinh tế của xã hội C.Mác đã đƣa ra mô hình các hình thái kinh tế đó là kinh tế tự nhiên tƣơng đƣơng với nền kinh tế nông nghiệp và xã hội nông dân cổ truyền, hình thái thị trƣờng, tƣơng đƣơng với nền kinh tế thị trƣờng của thời đại công nghiệp cơ khí và xã hội công nghiệp, hình thái cộng sản chủ nghĩa, tƣơng đƣơng với nền kinh tế có trình độ phát triển rất cao và xã hội tự do chân chính. Qua lý luận của C.Mác ta có thể thấy sự tƣơng đồng cơ bản của nền kinh tế tri thức với hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa. Nhƣ vậy kinh tế tri thức là một khái niệm mới, không chỉ đối với Việt Nam hay các nƣớc đang phát triển mà đối với toàn thế giới. Khái niệm này là nhân lõi của một hệ phạm trù đang hình thành nhƣng phát triển rất nhanh chóng trong đời sống thực tế và cả trong lý luận. Đứng trên lập trƣờng của phƣơng pháp luận mác xít, tác giả cũng đồng ý với cách hiểu thứ hai. Rõ ràng, theo lý luận này, không thể nói tới khái niệm (và thuật ngữ) “Nền kinh tế tri thức” mà chỉ có thể là “Kinh tế tri thức” hoặc nền kinh tế phát triển tới giai đoạn kinh tế tri thức. 9
  11. Vậy nội hàm của khái niệm kinh tế tri thức là gì? Chúng ta chỉ có thể khái quát nội hàm của khái niệm này trên cơ sở nhận dạng các đặc trƣng của kinh tế tri thức. * Các đặc trưng chủ yếu của kinh tế tri thức Kinh tế tri thức đã đƣợc hình thành và phát triển ở một số quốc gia và đã đƣợc nhiều nhà khoa học trong và ngoài nƣớc nghiên cứu. Từ những nghiên cứu đó có thể khái quát thành một số đặc điểm đặc trƣng sau đây: Thứ nhất, nền kinh tế dựa chủ yếu vào tri thức mà căn bản là tri thức khoa học - công nghệ hiện đại. Công nghệ cao chủ yếu bao gồm công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lƣợng mới và năng lƣợng tái sinh, khoa học kỹ thuật không gian, khoa học kỹ thuật hải dƣơng. Trong đó, khoa học - công nghệ cao đóng vai trò là nền tảng của kinh tế tri thức. Nếu trong giai đoạn kinh tế tài nguyên (kinh tế công nghiệp), các yếu tố của sản xuất chủ yếu là tài nguyên, lao động, vốn, thì ngƣợc lại, trong giai đoạn kinh tế tri thức, nhân tố tri thức đƣợc xếp ở hàng đầu của những nhân tố tăng trƣởng kinh tế. Tri thức đƣợc hiểu là những hiểu biết có hệ thống về một khách thể (đối tƣợng) nhất định. Nói một cách cụ thể, tri thức là sự hiểu biết về một cụm thông tin và biết sử dụng thông tin đó một cách tốt nhất, trong đó quan trọng nhất là tri thức về khoa học - kỹ thuật, quản lý và thực hành. Tri thức gồm bốn loại: biết nó là gì (hiểu biết về sự vật), biết vì sao (hiểu biết về quy luật và nguyên lý của sự vật), biết làm thế nào (có năng lực hoặc kỹ năng làm việc gì), biết ở đâu (ai và ở đâu có thông tin đó, tri thức này rất quan trọng trong xã hội tin học). Hiện nay ở các nƣớc công nghiệp phát triển đang diễn ra sự chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, các ngành dựa vào tri thức và ứng dụng công nghệ cao đang phát triển nhanh. Sự chuyển dịch này nhằm chuyển nền kinh tế từ giai đoạn kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức. Thứ hai, nhân tố sáng tạo trở thành động lực trực tiếp của sự phát triển Điểm nhấn quan trọng nhất là ở sự khác biệt chất lƣợng quyết định của nền kinh tế tri thức so với nền kinh tế tri thức trƣớc đó: thay vì các nguồn lực truyền 10
  12. thống (tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động rẻ và vốn) - đã từng đóng vai trò là những lợi thế phát triển quyết định trƣớc đây, trong nền kinh tế tri thức, lần đầu tiên trong lịch sử loài ngƣời, tri thức, trí tuệ con ngƣời và kỹ năng lao động trở thành lợi thế phát triển lớn nhất, quyết định nhất). Khoa học công nghệ đƣợc nhất trí thừa nhận là lực lƣợng sản xuất thứ nhất theo nghĩa là yếu tố quan trọng và quyết định tiến trình phát triển kinh tế. Điểm nhấn này chứa đựng những hàm ý rất có ý nghĩa thực tiễn. Ngày nay, thay vì các yếu tố vật chất - kỹ thuật truyền thống (máy móc cơ khí, đƣờng sắt, ruộng đất, hầm mỏ) con ngƣời trí tuệ và có kỹ năng cao đang trở thành lực lƣợng sản xuất quan trọng nhất, quyết định thành công của nỗ lực phát triển. Tƣơng ứng với sự thay đổi này là sự thay đổi trong trật tự ƣu tiên của các nỗ lực phát triển. Để giành thắng lợi trong cuộc đua tranh phát triển toàn cầu, chiến lƣợc khôn ngoan nhất, có triển vọng nhất trong dài hạn chính là giành ƣu tiên cao nhất cho nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực theo hƣớng mà nền kinh tế tri thức quy định. Đó là nguồn nhân lực trí tuệ (nhân lực khoa học công nghệ, trí thức) là lực lƣợng lao động kỹ năng cao. Vì tri thức và công nghệ cao đóng vai trò là lực lƣợng sản xuất quan trọng nhất, do tri thức, kỹ năng, nguồn phát minh và công nghệ hiện đại đã trở thành lợi thế cạnh tranh quết định nên một cách hiển nhiên, việc nâng cao năng lực sáng tạo và sử dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học công nghệ trở thành nhiệm vụ trọng tâm nhất của các nỗ lực phát triển. Công thức “ƣu tiên phát triển tƣ liệu sản xuất để sản xuất ra các tƣ liệu sản xuất” mà V.I.Lênin đề ra trƣớc đây và đƣợc các nƣớc XHCN vận dụng trong suốt mấy chục năm tồn tại của mình trong thời đại hiện nay mang những nội dung rất mới: sản xuất và sử dụng tri thức khoa học và công nghệ cao là loại hình sản xuất quan trọng nhất, quyết định nhất. Diễn đạt một cách khác, điều đó có nghĩa là để giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh, đua tranh phát triển, trƣớc hết, phải tạo ra lợi thế cạnh tranh quyết định. Đó là lợi thế về tri thức và kỹ năng lao động, là lợi thế về nguồn nhân lực chất lƣợng cao. Các lĩnh vực từng là quan trọng nhất ở giai đoạn trƣớc (ví dụ nhƣ luyện kim, cơ khí, hoá chất…) đặt trong logic của nền kinh tế tri thức, chỉ còn đóng vai trò là những nhiệm vụ quan trọng thứ cấp và tƣơng đối ngắn 11
  13. hạn so với nhiệm vụ phát triển khoa học công nghệ. Trong nền kinh tế công nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh chủ yếu là bằng cách tối ƣu hóa, tức là hoàn thiện cái đã có, để giảm chi phí sản xuất, còn trong kinh tế tri thức, cái quyết định năng lực cạnh tranh chính là sự sáng tạo ra cái mới có chất lƣợng cao hơn đó là thành công của doanh nghiệp. Công nghệ đổi mới rất nhanh, vòng đời công nghệ rất ngắn. Các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải luôn đổi mới công nghệ và sản phẩm, phải tìm chọn các công nghệ mới nẩy sinh, cái chín muồi là cái sắp tiêu vong. Có thể nói sáng tạo là linh hồn của kinh tế tri thức. Thứ ba, các ngành công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ thông tin được áp dụng trong mọi lĩnh vực kinh tế và đời sống xã hội. Công nghệ thông tin dựa vào hai lĩnh vực chủ lực là công nghệ tin học và công nghệ viễn thông, tạo ra mạng Internet. Hầu hết các quốc gia đều xếp các lĩnh vực sau đây vào danh mục công nghệ thông tin và viễn thông: lĩnh vực “tin học” bao gồm tất cả các ngành sản xuất thiết bị và các dịch vụ đi kèm, chủ yếu là dịch vụ vận hành, khai thác, bảo trì; lĩnh vực “điện tử” cùng với hoạt động sản xuất linh kiện điện tử và một số loại máy móc; lĩnh vực “viễn thông” bao gồm các hoạt động dịch vụ và sản xuất thiết bị. Quá trình tin học hóa các khâu sản xuất, dịch vụ, và quản lý là cốt lõi của quá trình chuyển sang kinh tế tri thức. Ngƣời ta coi tin học là ngành hạt nhân của các ngành mới nổi lên và gọi là ngành sản xuất thứ tƣ. Chức năng của tin học là chuyển hóa tri thức khoa học và kỹ thuật thành sức sản xuất. Tỷ trọng của nó tăng lên không ngừng và sẽ phát triển thành ngành chủ đạo. Có thể nói tin học quyết định sự thành bại, hƣng vong của tất cả mọi hoạt động kinh tế. Xã hội tin học hóa và tin học hiện đại hóa là dấu hiệu của một quốc gia phát triển. Công nghệ thông tin nói chung đem lại năng suất và chất lƣợng lao động cao trong công tác quản lý kinh tế - xã hội. Mọi ngƣời đều có nhu cầu thông tin và đƣợc truy cập vào các kho thông tin cần thiết cho mình. Mọi lĩnh vực hoạt động trong xã hội đều có sự tác động của công nghệ thông tin để nâng cao năng suất, chất lƣợng và hiệu quả. Cũng chính vì vậy nhiều ngƣời gọi giai đoạn phát triển kinh tế tri thức là nền kinh tế số hay kinh tế mạng. Thƣơng mại điện tử, thị trƣờng ảo, tổ chức ảo, xí nghiệp ảo, 12
  14. làm việc từ xa... đƣợc thiết lập làm cho các hoạt động sản xuất kinh doanh rất nhanh nhạy, linh hoạt, khoảng cách địa lý giảm dần, ý nghĩa của vị trí địa lý giảm đi. Nhiều quốc gia trên thế giới (không chỉ những nƣớc công nghiệp phát triển mà cả một số nƣớc đang phát triển), đã coi công nghệ thông tin là ngành kinh tế mũi nhọn thúc đẩy sự phát triển. Công nghệ thông tin đã và sẽ mang lại những biến đổi kỳ diệu trong cả đời sống kinh tế và đời sống xã hội. Hiện nay mạng internet đã liên kết trên 200 quốc gia và khu vực. Nƣớc Mỹ là quốc gia làm chủ internet đang tiến hành một dự án đầy tham vọng phát triển xa lộ thông tin với các máy tính tý hon cài ở tất cả mọi nơi, điều khiển mọi hoạt động, từ đó đi tới xã hội tự động. Dự kiến nửa sau thế kỷ XXI, một xã hội nhƣ vậy sẽ ra đời ở Mỹ. Trung Quốc đang có kế hoạch phát triển mạng công nghệ thông tin. Các chuyên gia đầu ngành về công nghệ thông tin trên thế giới đáng giá: vào khoảng năn 2010, Trung Quốc có thể theo kịp công nghệ thông tin của Mỹ. Hồng Công đang lập cảng thông tin. Các nƣớc đang hƣớng mạnh tới xã hội thông tin. Thứ tư, kinh tế tri thức được tổ chức quản lý theo mô hình phi tập trung, mô hình mạng. Nền kinh tế thế giới hiện đại đang đƣợc cấu trúc thành một mạng lƣới toàn cầu. “Mạng” là thuộc tính phân biệt chủ yếu hệ thống này với các hệ thống trƣớc. Đây là cơ sở để nói đến tính cách mạng hay bƣớc ngoặt lịch sử của quá trình chuyển sang kinh tế tri thức đang diễn ra. Mạng lƣới toàn cầu của nền kinh tế tri thức đang diễn ra đƣợc kiến tạo bởi: các “chất liệu” phát triển cơ bản khác trƣớc (những công cụ mới, nhƣ máy tính, mạng viễn thông, mạng internet, các loại vật liệu mới, công nghệ “gen”, thƣơng mại điện tử,...) những nhân vật mới (nhà lao động trí thức, các “siêu” công ty xuyên quốc gia...) vận động theo nguyên lý mới. Hệ thống phân công quốc tế toàn cầu thay cho hệ thống phân công lao động quốc tế, quốc gia. Đây là một cấu trúc mới về nguyên tắc. Nó vận động theo những quy tắc sản xuất thƣơng mại và tài chính mới trong không gian toàn cầu hóa. Đặc trƣng của không gian toàn cầu hóa là thời gian ngắn lại, không gian thu hẹp và các đƣờng biên giới mất dần. 13
  15. Quá trình phi tập trung hóa cấu trúc kinh tế - xã hội. Cấu trúc mạng gắn với quá trình phi tập trung hóa cấu trúc. Quá trình đô thị hóa diễn ra theo những xu hƣớng và quy tắc mới. Các đô thị khổng lồ không còn là sự lựa chọn duy nhất và dƣờng nhƣ ngày càng không còn là sự lựa chọn chủ yếu. Khái niệm văn phòng, chỗ làm việc tập trung hàng chục, hàng trăm, thậm chí hàng nghìn ngƣời kiểu công xƣởng đã thay đổi mạnh mẽ khi công việc chủ yếu của xã hội là sản xuất tri thức, đƣợc tiến hành trong môi trƣờng tự động hóa cao trên cơ sở mạng thông tin, với các công cụ chính là máy vi tính nối mạng. Sự thay đổi cơ cấu quyền lực trong nền kinh tế. Hình thái phát triển dựa trên quan hệ lệ thuộc cai trị của các nền kinh tế trƣớc đây đƣợc thay thế bằng quan hệ tham dự - bình đẳng về chức năng trong cơ cấu của các thành tố. Lực lƣợng nắm giữ tri thức sẽ là động lực phát triển của xã hội. Sự không thuần nhất cấu trúc của nền kinh tế tri thức trên phạm vi toàn cầu. Trong mạng lƣới kinh tế toàn cầu, vẫn tồn tại những mảng, vùng cấu trúc (khu vực, quốc gia, ngành) có trình độ phát triển thấp xa với các mảng, vùng khác. Do đó sự bình đẳng về nguyên tắc của các bộ phận cấu trúc mạng không có nghĩa là sự bình đẳng trên thực tế giữa chúng tại từng thời điểm xác định và trong những quan hệ xác định. Điều này có nghĩa khả năng vƣợt bỏ hay tụt hậu của mỗi quốc gia (hay của bất cứ yếu tố cấu trúc nào) tùy thuộc vào vị trí, vị thế của nó trong mạng kinh tế toàn cầu, tức là tùy thuộc vào khả năng xác lập quan hệ với các nhân vật mới, công cụ mới để có đƣợc các điều kiện phát triển (các lợi thế phát triển do thời đại tạo ra). Có thể diễn đạt điều này nhƣ là năng lực “hòa” mạng của chủ thể đó. Điều đó có nghĩa rằng muốn phát triển thì phải gia nhập mạng toàn cầu, phải trở thành thành viên của mạng. Gia nhập mạng hàm chứa khả năng phải chịu “rủi ro” toàn cầu. Sự rủi ro này có nguồn gốc từ tính không thuần nhất của cấu trúc mạng (vị thế không tƣơng đƣơng của các yếu tố) nguyên nhân gây ra sự bất bình đẳng thực tế giữa các yếu tố khi tham gia mạng. Trình độ phát triển càng cách xa trình độ chung của mạng thì độ rủi ro càng lớn. Song kinh nghiệm thực tế cho thấy rằng trong khi những rủi ro tham gia mạng gây ra là mang tính tiềm thế thì rủi ro không tham gia mạng là chắc chắn và lớn hơn bất kỳ rủi ro nào khi tham gia mạng. 14
  16. Nhƣ vậy mô hình kinh tế chỉ huy tập trung, có đẳng cấp không còn phù hợp với giai đoạn phát triển kinh tế tri thức. Mà nó đƣợc tổ chức theo mô hình phi tập trung, mô hình mạng, trong đó quan hệ ngang là chủ yếu. Mô hình này phát huy đƣợc tính năng động sáng tạo của mọi ngƣời, của các doanh nghiệp, vì thế nó dễ thích nghi và đổi mới. Hiện nay, các doanh nghiệp của các nƣớc công nghiệp phát triển đƣợc trang bị các thiết bị thông tin hiện đại lập nên một mạng lƣới các doanh nghiệp, mọi ngƣời có thể làm việc ở các địa điểm khác nhau tại các công ty con, nhƣng mối liên kết trong mạng lƣới công ty rất chặt chẽ; công tác quản lý, thiết kế, tiêu thụ sản phẩm, việc giao nhận hàng hóa nhanh chóng và kịp thời. Thứ năm, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế học hỏi. Cũng nhƣ ở bất kỳ trình độ phát triển nào của nền kinh tế thế giới, trong kinh tế tri thức con ngƣời vẫn là nhân tố quyết định sự phát triển, nhƣng không phải con ngƣời với bất kỳ tri thức và năng lực nào, mà buộc phải là con ngƣời có tri thức khoa học, có năng lực sáng tạo. C.Mác đã nói đến nhân tố con ngƣời trong kinh tế tri thức là con ngƣời sáng tạo chứ không phải là một bộ phận của hệ thống máy móc trên dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp. Tri thức là vốn quý nhất và là nguồn lực hàng đầu của sự tăng trƣởng kinh tế. Quyền sở hữu đối với tri thức trở thành quan trọng nhất. Ai chiếm hữu đƣợc nhiều tài sản tri thức hơn thì ngƣời ấy sẽ thắng. Để có tri thức thì phải học tập, vì thế nền kinh tế tri thức đòi hỏi con ngƣời phải không ngừng học tập, học suốt đời dƣới mọi hình thức. Thứ sáu, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa là đặc trƣng nổi bật của nền kinh tế thế giới ngày nay, nó đƣợc thực hiện thông qua quốc tế hóa thƣơng mại, quốc tế hóa vốn, quốc tế hóa sản xuất. Kinh tế tri thức sẽ thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa, hợp tác kinh tế quốc tế. Với tốc độ phát triển khoa học - công nghệ cao nhƣ hiện nay, không một quốc gia nào có thể đi đầu trong tất cả các kỹ thuật công nghệ cao và mới, vì thế chuyên môn hóa sản xuất trở nên sâu sắc, do đó đòi hỏi sự hợp tác sản xuất quốc tế, rất ít có sản phẩm do một nƣớc sản xuất ra, mà là kết quả hợp tác của nhiều nƣớc. Công nghệ thông tin, nhất là mạng Internet, làm cho không gian trở nên nhỏ bé. Tri thức, công nghệ, vốn, lao động 15
  17. đƣợc luân chuyển trên phạm vi toàn cầu. Thị trƣờng và sản phẩm mang tính toàn cầu. Thứ bảy, đóng góp của tri thức (thông qua các ngành sản xuất, dịch vụ ứng dụng công nghệ cao và sử dụng lao động tri thức) chiếm trên 2/3 giá trị sản phẩm và tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Giá trị (GT) của mỗi sản phẩm (hàng hóa hay dịch vụ) đƣợc đo ví dụ bằng tiền, bao gồm giá trị của hai thành tố: Giá trị của vật liệu tạo ra sản phẩm (GTvl). Giá trị của công sức con ngƣời tạo ra sản phẩm (GTcs) phần này lại gồm hai phần: Giá trị của công lao động chân tay (GTct). Giá trị của công lao động trí tuệ (GTtt). Nếu GTtt chiếm phần lớn của giá trị, ví dụ GTtt > 50% GT ta nói sản phẩm có hàm lƣợng trí tuệ cao. Hay Tổng GT = tổng GTvl + Tổng GTct + Tổng GTtt Khi tổng GTtt chiếm phần lớn của Tổng GT ví dụ quá 50% ta nói nền kinh tế đó là nền kinh tế tri thức. Hơn nữa hiện nay các ngành dựa vào tri thức và ứng dụng công nghệ cao đang phát triển nhanh. Do đó nguồn lực cũng có sự thay đổi rõ rệt về chất. Trƣớc chiến tranh thế giới thứ hai, ở các nƣớc phát triển, nông dân chiếm đa số. Ngày nay ở đó nông dân chỉ còn dƣới 1/5 (về dân số). Nông dân sản xuất chỉ chiếm 2% lực lƣợng lao động và cũng không còn là nông dân đúng nghĩa nữa. Thực ra họ là những nhà kinh doanh nông nghiệp. Số lƣợng công nhân nói chung tăng lên, nhƣng công nhân áo xanh giảm đi, công nhân áo trắng tăng lên đặc biệt là sự xuất hiện công nhân tri thức. Tính chung ở những nƣớc phát triển công nhân áo xanh trong công nghiệp chỉ còn 20%. Hiện nay trong nhiều ngành không còn phân biệt giữa công nhân với nhà khoa học nữa. Ví dụ trong ngành sản xuất phần mềm những ngƣời viết chƣơng trình máy tính là công nhân tri thức, trong các ngành công nghiệp dịch vụ dựa vào công nghệ cao, phần lớn những ngƣời lao động là công nhân tri thức. Nhƣ vậy trong nền kinh tế tri thức, vai trò của ngƣời công nhân 16
  18. áo trắng, công nhân tri thức là hết sức quan trọng. Họ là lực lƣợng chủ yếu tạo ra của cải xã hội, tiêu biểu cho lực lƣợng sản xuất mới. Thứ tám, kinh tế tri thức bảo đảm sự phát triển bền vững, không hủy hoại môi trường, sinh thái. Kinh tế công nghiệp với kỹ thuật - công nghệ truyền thống phát triển dựa trên sự tận dụng hết các nguồn tài nguyên thiên nhiên để thu lợi nhuận cao nhất, gần nhƣ không chú ý gì tới lợi ích môi trƣờng, sinh thái, vì thế dẫn đến thảm họa môi trƣờng nhƣ ngày nay. Ngƣợc lại, kinh tế tri thức dựa trên cơ sở kỹ thuật - công nghệ cao sử dụng một cách khoa học, hợp lý, hiệu quả các nguồn tài nguyên, không gây ô nhiễm môi trƣờng sống của con ngƣời. Các khu công nghệ cao đã đƣợc hình thành là những khu công nghệ sạch khác xa với khu sản xuất truyền thống trƣớc đây. Khái niệm kinh tế tri thức, trƣớc hết là khái niệm phản ánh trình độ phát triển của các nhân tố trong LLSX của xã hội hiện đại. Có thể khẳng định đó là sự thay đổi về chất của LLSX do khoa học đã trở thành và ngày càng trở thành LLSX trực tiếp - điều mà C.Mác và Ănghen đã từng dự báo cách đây hơn một thế kỷ. Tổng quát lại, theo quan điểm triết học và kinh tế chính trị học mác xít, kinh tế tri thức là khái niệm dùng để chỉ một trình độ phát triển cao hơn của LLSX mà trong nền tảng LLSX chủ yếu của nó là các ngành kỹ thuật công nghệ cao; khoa học đã trở thành LLSX trực tiếp và có vai trò quyết định đối với nền kinh tế . 1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của kinh tế tri thức Sự phát triển của kinh tế trong lịch sử của nhân loại đã trải qua những giai đoạn khác nhau. Trƣớc hết là kinh tế săn bắn và hái lƣợm tồn tại trong hàng trăm nghìn năm. Tiếp đó là kinh tế nông nghiệp kéo dài khoảng mƣời nghìn năm. Rồi đến kinh tế công nghiệp xuất hiện lần đầu tiên ở Anh vào nửa đầu sau thế kỷ XVIII. Sau đó là kinh tế tri thức lúc đầu thƣờng gọi là kinh tế thông tin, đã ra đời lúc đầu ở Mỹ vào đầu những năm 1970 và rồi ở nhiều nƣớc công nghiệp phát triển và ngày nay cả những nƣớc công nghiệp mới. Kinh tế tri thức theo một số dự báo, đối với nƣớc Mỹ có thể sẽ kết thúc vào khoảng năm 2020 để nhƣờng chỗ cho một nền kinh tế mới khác - kinh tế sinh học. 17
  19. Bảng 1.1.1. Sự khác biệt giữa kinh tế tri thức so với các nền kinh tế khác trong lịch sử Yếu tố Kinh tế Kinh tế Kinh tế tri thức nông nghiệp công nghiệp Đầu vào của sản Lao động, đất Lao động, đất Lao động, đất đai, xuất đai, vốn đai, vốn, công vốn, công nghệ, thiết nghệ, thiết bị bị, tri thức, thông tin. Cách thức sản xuất Trồng trọt, Chế tạo, gia Thao tác, điều khiển, chăn nuôi công kiểm soát Đầu ra của sản xuất Lƣơng thực Lƣơng thực, Lƣơng thực, hàng tiêu hàng hóa tiêu dùng chất lƣợng cao, dùng, các xí công nghiệp tri thức, nghiệp nền công vốn tri thức, công nghiệp nghệ mới Cơ cấu ngành kinh Nông nghiệp Công nghiệp và Các ngành kinh tế tri tế dịch vụ thức thống trị Công nghệ chủ đạo Cơ giới hóa Cơ giới hóa, hóa Công nghệ cao, điện đơn giản học hóa, điện tử tin học, siêu xa lộ khí hóa thông tin Cơ cấu xã hội chính Nông dân Công nhân Công nhân tri thức Vai trò của khoa Không đáng Rất quan trọng Có ý nghĩa quyết định học và công nghệ kể Tầm quan trọng của ít quan trọng Rất quan trọng Có ý nghĩa quyết định giáo dục Trình độ văn hóa Tỷ lệ mù chữ Trung học Sau trung học trung bình cao Vai trò của công Không lớn Lớn Quyết định nghệ thông tin và truyền thông Ý tƣởng về tầm quan trọng của tri thức trong kinh tế không phải là mới. Từ thế kỷ thứ XVIII, Adam Smith có nói đến những thế hệ chuyên gia mới đã góp phần quan trọng vào việc sản sinh ra tri thức có ích cho kinh tế. Và thế kỷ thứ XIX, C.Mác đã nhiều lần nhấn mạnh rằng sản xuất ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào khoa học và công nghệ. Hiện nay, trong sự phát triển của nhiều nƣớc công 18
  20. nghiệp, tri thức đã trở thành nhân tố hàng đầu trong tăng trƣởng kinh tế, vƣợt lên trên các nhân tố sản xuất cổ truyền vốn và lao động, và chính đây là đặc điểm cơ bản của nền kinh tế đƣợc gọi là kinh tế tri thức hay kinh tế dựa trên tri thức. Những nghiên cứu về kinh tế tri thức đã có một lịch sử hơn bốn chục năm bắt đầu từ công trình của Fritz Machlup Sản xuất và phân phối tri thức ở Mỹ xuất bản năm 1962. Công trình này lần đầu tiên đã đƣa ra khái niệm “công nghiệp tri thức” và lƣu ý mọi ngƣời về tầm quan trọng và đặc biệt là sự tăng trƣởng nhanh chóng của khu vực kinh tế này. Fritz Machlup lần đầu tiên đã nhận ra một sự thay đổi quan trọng trong nền kinh tế của nƣớc Mỹ: Các hoạt động sản xuất, phân phối, và sử dụng tri thức trong một số lĩnh vực rộng lớn đang phát triển nhanh hơn rất nhiều sự tăng trƣởng chung của nền kinh tế. Phát hiện của Fritz Machlup đã đƣợc các tác giả khác xác nhận và không lâu sau đó các nhà nghiên cứu còn chứng minh rằng hiện tƣợng tƣơng tự cũng xảy ra ở một số nƣớc khác nhƣ Anh, Đức, Pháp... Nhƣ vậy là theo ý kiến hiện nay đã đƣợc chấp nhận rộng rãi, bắt đầu từ đầu những năm 1970, trƣớc hết ở Mỹ sau đó là một số nƣớc khác nền kinh tế quốc gia đã chuyển từ giai đoạn công nghiệp sang một giai đoạn mới - kinh tế tri thức, tƣơng tự nhƣ trƣớc đây, vào đầu nửa sau thế kỷ XVIII, bắt đầu từ nƣớc Anh, đã có sự chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp. Một mốc lớn trong nghiên cứu về kinh tế tri thức là lý thuyết “xã hội hậu công nghiệp” do nhà tƣơng lai học ngƣời Mỹ Daniel Bell đƣa ra từ năm 1967 và đƣợc trình bày đầy đủ trong tác phẩm nổi tiếng “The coming of post - industrial society” (Sự xuất hiện của xã hội hậu công nghiệp) năm 1973. Trong tác phẩm này Bell đã chỉ ra vai trò trung tâm của các hoạt động biến đổi tri thức ở Mỹ và sự kiện nƣớc Mỹ đã chuyển từ xã hội công nghiệp của những công nhân “cổ áo xanh” sang một xã hội mới với vai trò quạn trọng thuộc về những ngƣời lao động “cổ áo trắng” - xã hội hậu công nghiệp. Đặc biệt là báo cáo của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) năm 1996 đã vạch ra khung các vấn đề của kinh tế tri thức có thể sử dụng làm cơ sở ban đầu cho việc tiếp tục nghiên cứu về sự phát triển của nền kinh tế này. Báo cáo viết: 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2