intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở huyện Cần Giờ thành phố Hồ Chí Minh, theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:119

31
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Trên cơ sở đó phân tích thực trạng, đề xuất quan điểm, phương hướng, giải pháp để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Cần Giờ theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở huyện Cần Giờ thành phố Hồ Chí Minh, theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ---------------------- NGUYỄN VĂN ĐỒNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Ở HUYỆN CẦN GIỜ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ HÀ NỘI - 2004
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ---------------------- NGUYỄN VĂN ĐỒNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Ở HUYỆN CẦN GIỜ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Chuyên ngành: KINH TẾ CHÍNH TRỊ Mã số: 5.02.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN MINH KHẢI HÀ NỘI - 2004
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thành Phố Hồ Chí Minh là một địa bàn có vị trí đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh quốc phòng trong vùng trọng điểm kinh tế phía nam và cả nước. Trong những năm gần đây tốc độ phát triển kinh tế - xă hội của Thành Phố khá cao, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Thành Phố Hố Chí Minh nói riêng đã đạt được những thành tựu quan trọng góp phần rất lớn vào sự phát triển chung của đất nước. Trong quá trình đó, Huyện Cần Giờ cũng có sự vươn lên nhất định. Là một huyện nghèo của Thành Phố có nhiều tiềm năng về kinh tế biển, kinh tế rừng, kinh tế du lịch... nhưng chưa được khai thác hợp lý, dẫn tới đời sống kinh tế - xã hội, văn hoá của nhân dân còn rất nhghèo nàn và lạc hậu, khoảng cách tụt hậu so với Thành Phố nói chung và các huyện ngoại thành nói riêng là rất lớn. Điều đó đang đặt ra những thách thức lớn đối với sự phát triển của Thành Phố và huyện Cần Giờ. Để thực hiện quan điểm Thành Phố Hồ Chí Minh đi đầu về sớm trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi Thành Phố phải phát triển nhanh, mạnh hơn nữa, trong đó công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở các huyện ngoại thành là nhiệm vụ kinh tế đặc biệt quan trọng và cần được ưu tiên. Xây dựng một cơ cấu kinh tế hiện đại là yêu cầu tất yếu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhằm phát huy tiềm năng, nguồn lực của mọi vùng, mọi miền, mọi ngành và mọi thành phần kinh tế để đảm bảo phát triển kinh tế, xã hội bền vững. Đối với từng vùng, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế như thế nào? Là tuỳ thuộc điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng của vùng đó. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải trên cơ sở phát huy tối đa lợi thế so sánh của vùng để đảm bảo cho kinh tế của vùng có thể phát triển nhanh và bền vững. 1
  4. Để rút ngắn chênh lệch về sự phát triển so với Thành Phố nói chung, các Huyện ngoại thành khác của Thành Phố nói riêng đòi hỏi huyên Cần Gìơ cần phải đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải phóng được mọi nguồn lực, phát huy được lợi thế để phát triển kinh tế của Huyện. Vì vậy, việc nghiên cứu tổng kết thực tiễn, giải đáp vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở huyện Cần Giờ là cần thiết cấp bách, đó chính là lý do tác giả lựa chọn đề tài: "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở huyện Cần Giờ Thành Phố Hồ Chí Minh, theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá" làm luận văn tốt nghiệp cao học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước từ lâu đã thu hút sự quan tâm rộng rãi của nhiều nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách kinh tế. Đã có nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài được công bố trong các cuộc hội thảo khoa học, các tạp chí , báo chí trung ương và Thành Phố Hồ Chí Minh, cũng như trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và địa phương. Tuy nhiên, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở huyện Cần Giờ Thành Phố Hồ Chí Minh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì cho tới nay chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến một cách có hệ thống, trực tiếp và toàn diện. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Trên cơ sở đó phân tích thực trạng, đề xuất quan điểm, phương hướng, giải pháp để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Cần Giờ theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 2
  5. Nhiệm vụ: - Phân tích làm rõ phạm trù cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sự cần thiết khách quan, yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nói riêng. - Phân tích đặc điểm kinh tế - xã hội, thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở huyện Cần Giờ trong những năm qua, thành tựu, hạn chế, những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết trong thời gian tới. - Đề xuất một số quan điểm, phương hướng và giải pháp để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Cần Giờ. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin; Đường lối quan điểm của Đảng về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; Mặt khác luận văn dựa vào lý luận lợi thế so sánh của kinh tế học thị trường. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp biện chứng duy vật và duy vật lịch sử Mác-Lênin, đồng thời kết hợp phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị và các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: Phân tích, tổng hợp, thống kê, khảo sát thực tế, so sánh, phương pháp chuyên gia... 5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Về không gian: Lấy địa bàn huyện Cần Gìơ để nghiên cứu là chính trong chỉnh thể không gian các Huyện ngoại thành và Thành Phố Hồ Chí Minh. Về thời gian: Luận văn nghiên cứu từ khi Thành phố quyết định thành lập một số Quận mới và thực trạng của huyện Cần Gìơ từ 10 năm trở lại đây. 3
  6. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Luận văn góp phần làm rõ thêm tính tất yếu khách quan và đòi hỏi chủ quan phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở huyện Cần Giờ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Luận văn có thể là tài liệu tham khảo trong hoạch định chính sách, giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Cần Giờ. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục kèm theo, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết. Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chương 2: Đặc điểm kinh tế - xã hội và thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Cần Giờ thành phố Hồ Chí Minh. Chương 3: Những phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở huyện Cần Giờ. 4
  7. Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CẤU KINH TẾ VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ 1.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế 1.1.1 Các quan niệm khác nhau về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thực tiễn lịch sử đã chỉ rõ rằng để thủ tiêu tình trạng nghèo nàn lạc hậu, khai thác tối ưu các nguồn lực và lợi thế, đảm bảo nhịp độ tăng trưởng nhanh và ổn định, giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội bức bách, mỗi quốc gia, mỗi vùng, mỗi địa phương đều tất yếu phải trải qua quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa mà một trong những nội dung quan trọng của nó là phải xác định được một cơ cấu kinh tế hợp lý thực hiện sự chuyển dịch cơ cấu tiến bộ. Trên thực tế vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về phạm trù cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế - có thể nêu tóm tắt một số quan niệm chính sau đây: Có quan niệm cho rằng: Cơ cấu kinh tế là tổng hữu cơ các mối quan hệ tác động qua lại giữa các yếu tố và trong từng yếu tố của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong điều kiện kinh tế-xã hội cụ thể với những giai đoạn phát triển nhất định. Ở một khía cạnh khác có người lại quan niệm: Cơ cấu kinh tế là cấu trúc bên trong của quá trình tái sản xuất mở rộng của nền kinh tế quốc dân, là tổng thể những mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành của nền kinh tế: Các lĩnh vực sản xuất, phân phối, tiêu dùng; các ngành kinh tế quốc dân; các thành phần kinh tế; các vùng kinh tế. 5
  8. Quan điểm thứ ba nói gọn hơn : Cơ cấu kinh tế quốc dân là tổng thể các cơ cấu kinh tế ngành, vùng và các thành phần kinh tế, giữa chúng có mối quan hệ mang tính cơ cấu thống nhất của nền kinh tế quốc dân. Các quan niệm trên tuy không có sự khác biệt cơ bản, tuy nhiên góc độ tiếp cận của mỗi một quan niệm là khác nhau, có thể thấy: Quan niệm thứ nhất: Nhấn mạnh các yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong điều kiện kinh tế-xã hội nhất định. Quan niệm thứ hai: Nhấn mạnh yếu tố cấu trúc của nền kinh tế trong quá trình tái sản xuất và các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội. Quan niệm thứ 3: Nhấn mạnh tính cơ cấu thống nhất của các yếu tố tạo thành chỉnh thể nền kinh tế. Từ cách hiểu khác nhau về cơ cấu kinh tế, xung quanh khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng có cách hiểu khác nhau , có thể nêu lên vài ví dụ sau: Có người cho rằng: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi cấu trúc kinh tế-xã hội dựa trên sự biến đổi của các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế. Quan niệm khác lại khẳng định: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi cấu trúc, quy mô tỷ trọng, tốc độ của cơ cấu kinh tế nhằm đạt tới một cơ cấu kinh tế hợp lý và hiện đại tạo thế và lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội. 1.1.2. Quan niệm của tác giả về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Quan niệm của tác giả về cơ cấu kinh tế. Để có một quan niệm đúng về cơ cấu kinh tế trước hết tác giả nhận thấy cần phải chỉ rõ nội hàm của khái niệm cơ cấu kinh tế. 6
  9. Một là: Cơ cấu kinh tế là các bộ phận cấu thành nền kinh tế. Giữa các bộ phận đó thống nhất trong chỉnh thể nền kinh tế. Hai là: Mỗi bộ phận cấu thành cơ cấu kinh tế có tỷ trọng, vị trí, vai trò khác nhau trong nền kinh tế quốc dân. Ba là: Xem xét cơ cấu kinh tế phải được đặt trong những điều kiện hoàn cảnh kinh tế-xã hội và trong những giai đoạn lịch sử xác định. Bốn là: Xem xét cơ cấu kinh tế là xem xét nó trong sự vận động phát triển theo một thể chế kinh tế tương ứng. Năm là: Cơ cấu kinh tế là tổng thể hữu cơ các bộ phận cấu thành nền kinh tế (ngành kinh tế, vùng kinh tế và các thành phần kinh tế) trong một nước, một địa phương, các bộ phận đó có vai trò, vị trí, tỷ trọng khác nhau xét cả về mặt định tính và định lượng, song có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, phản ánh trình độ phân công lao động xã hội và tính chất của lực lượng sản xuất trong những điều kiện kinh tế - xã hội xác định. Quan niệm của tác giả về chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Các quan niệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nêu ở phần trên, phần nào đã nói lên được nội dung cơ bản, cốt lõi của chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, theo tác giả khi nói đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần xem xét nó ở cả hai góc độ: Thứ nhất: Là xây dựng mới để hình thành cơ cấu kinh tế theo một thiết chế kinh tế hợp lý. Thứ hai: Chuyển đổi cơ cấu kinh tế hiện có theo thiết chế kinh tế hợp lý. Tác giả cho rằng: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình hình thành và chuyển đổi cơ cấu kinh tế làm thay đổi cấu trúc, tỷ trọng quy mô, tốc độ của cơ cấu kinh tế nhằm đạt tới một cơ cấu kinh tế hợp lý hiện đại, tạo thế và lực mới cho tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội. 7
  10. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Thành phố Hồ Chí Minh nói chung, huyện Cần giờ nói riêng không thể tách rời thiết chế kinh tế chung của vùng và của cả nền kinh tế, song ở mỗi vùng, tỉnh, thành phố, huyện nó có tính đặc thù riêng, lợi thế và điều kiện kinh tế-xã hội cũng có khác biệt. Vì vậy, không nhất thiết việc chuyển dịnh cơ cấu kinh tế ở một huyện, tỉnh, thành phố phải dập khuôn theo một chuẩn mực sẵn có hay định trước. Đối với huyện Cần giờ, Thành phố Hồ Chí Minh cũng vậy. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở huyện Cần Giờ chính là quá trình xây dựng và chỉnh đổi cơ cấu kinh tế hiện có nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội để hòa nhập vào cơ cấu kinh tế chung của Thành phố Hồ Chí Minh và khu vực miền Đông, miền Tây Nam bộ. Việc xác định phạm vi lãnh thổ của cơ cấu kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng, cơ cấu kinh tế của cả nước trên toàn bộ lãnh thổ của quốc gia khác với cơ cấu kinh tế của một vùng, một địa phương được xác định trên một phạm vi địa chính nhất định, nó là một bộ phận trong cái chỉnh thể thống nhất của nền kinh tế quốc dân. Trên cơ sở đó mà cơ cấu kinh tế ngành của từng địa phương cũng có khác nhau. Có địa phương với phương hướng là phát triển Dịch vụ, Công nghiệp, Nông nghiệp. Có địa phương xác định phương hướng là Nông nghiệp, Công nghiệp, Dịch vụ hay Công nghiệp, Dịch vụ, Nông nghiệp... Tất nhiên sự đa dạng của từng địa phương vẫn chịu sự quy định của cơ cấu kinh tế chung của cả nước. Đây chính là cơ sở phương pháp luận trong việc xác định cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng địa phương cụ thể, trong đó có huyện Cần Giờ Thành phố Hồ Chí Minh. 1.2. Tính tất yếu khách quan, yêu cầu của chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc 1.2.1. Tính tất yếu khách quan của chuyển dịch cơ cấu kinh tế 1.2.1.1. Do đòi hỏi của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cùng với đổi mới công nghệ của nền sản xuất xã hội, xây dựng cơ cấu kinh tế mới tiến bộ là nội dung của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Có thể thấy rằng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ là hệ quả tất 8
  11. yếu mà quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá mang lại, mà nó còn là nguyên nhân, là điều kiện, là lực đẩy để thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ cơ cấu kinh tế lạc hậu, phiến diện, kém hiệu quả sang một cơ cấu kinh tế phù hợp, hiện đại có hiệu quả. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện nền kinh tế bao gồm các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế-xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại tạo ra năng xuất lao động xã hội cao. Bất cứ một phương thức sản xuất xã hội nào hình thành và phát triển cũng phải dựa trên một cơ sở vất chất-kỹ thuật thích ứng. Nước ta đi lên Chủ nghĩa xã hội với mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”, do vậy nó phải là một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại. Cơ sở vật chất kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội phải dựa trên những thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ, có khả năng sử dụng mọi nguồn lực của nền kinh tế một cách có hiệu quả nhất trong sự phân công lao động quốc tế gắn với xu hướng khu vực và toàn cầu hóa kinh tế quốc tế. Điều cốt lõi của cơ sở vật chất của Chủ nghĩa xã hội là phải tạo ra một năng suất lao động cao hơn phương thức sản xuất trước nó. Việt Nam quá độ lên Chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, lại chịu hậu quả nặng nề của nhiều năm chiến tranh. Cái cần nhất của nước ta là có được một lực lượng sản xuất phát triển, một cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại của Chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa chính là con đường duy nhất để nước ta có được cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại. Do vậy thực chất của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là quá trình tạo ra những tiền đề vật chất, kỹ thuật, con người, công nghệ phương tiện, phương pháp sản xuất tiên tến cho chủ nghĩa xã hội. 9
  12. Nội dung cơ bản của Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đó là phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất trước hết là việc cơ khí hóa toàn bộ nền sản xuất xã hội trên cơ sở áp dụng các thành tựu khoa học và công nghệ. Đó là quá trình cải tiến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng công cụ lao động tiên tiến hiện đại đem lại năng xuất lao động xã hội cao. Quá trình đó là quá trình cơ khí hóa, điện khí hóa và tự động hóa sản xuất nhằm mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất phải gắn liền với xây dựng một quan hệ sản xuất phù hợp. Gắn chặt một cách hữu cơ với sự phát triển phân công lao động xã hội, với quá trình hình thành các ngành kinh tế, các thành phần kinh tế và các vùng chuyên môn hóa sản xuất trong tổng thể nền kinh tế thống nhất. Các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế đó tồn tại và hoạt động trong mối liên hệ tất yếu khách quan dưới những hình thức tổ chức sản xuất nhất định tạo thành cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc dân thống nhất. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế xây dựng một cơ cấu kinh tế phù hợp tương ứng với cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội không chỉ là hệ quả của chính quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật mà còn là nhận thức chủ quan của chủ thể kinh tế, có thể tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế để mở đường thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển. Điều đó được thể hiện ở chiến lược kinh tế với những kế hoạch cụ thể phù hợp với điều kiện tự nhiên, điều kiện dân số, lao động và trình độ khả năng của cả nước cũng như từng vùng đáp ứng với xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa kinh tế quốc tế. Đảm bảo cân đối giữa phát triển kinh tế với khả năng quốc phòng, giữa tiêu dùng và tích lũy, giữa các nguồn lực, giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. 10
  13. Đất nước ta đã tiến hành công nghiệp hóa từ những năm 60, hiện nay Đảng ta tiếp tục khẳng định:”Phát triển kinh tế, Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trọng tâm” [9, tr.25] “Phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng Công nghiệp hóa, hiện đại hóa”[9, tr.25]. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hóa, hiện đại hóa vừa là đòi hỏi của quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đồng thời nó là điều kiện để đảm bảo cho thắng lợi của sự nghiệp Công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt nam đã khẳng định tính tất yếu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đồng thời chỉ ra nội dung phương hướng cơ bản, toàn diện cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc dân, để nước ta đến năm 2020 trở thành nước công nghiệp. Đường lối, chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc dân của Đảng ta là cơ sở để các cấp, các ngành, các địa phương xác định kế hoạch, biện pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong phạm vi địa phương mình nhằm tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý có hiệu quả. 1.2.1.2. Do đòi hỏi của nền kinh tế thị trường Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá phát triển cao mà trong đó toàn bộ các yếu tố đầu vào, đầu ra của sản xuất đều được thông qua thị trường. Như vậy, thực chất kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá phát triển mà ở đó đã hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường. Trong nền kinh tế thị trường tất cả các quan hệ kinh tế của các chủ thể kinh tế đều được thể hiện thông quan hệ mua-bán hàng hoá dịch vụ trên thị trường. Động lực thúc đẩy các chủ thể kinh tế là tìm kiếm lợi ích, lợi nhuận cho chính mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường. Kinh tế thị trường ra đời là một tất yếu kinh tế trên cơ sở kinh tế hàng hoá và ở trình độ cao hơn. Cho tới nay kinh tế thị trường phát triển với 11
  14. ba mô hình: Kinh tế thị trường tự do, kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước và kinh tế hỗn hợp. Như vậy kinh tế thị trường là một bước tiến của lịch sử nhân loại, mặc dù nó có mặt trái và hạn chế song nó không đối lập với chủ nghĩa xã hội. Nó không những tồn tại trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội mà nó tồn tại cả trong chủ nghĩa xã hội “Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện tư duy quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ lực lượng sản xuất. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của cả nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”[9, tr.88] . Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nhằm giải phóng sức sản xuất, tập trung và động viên mọi nguồn lực để thực hiện thắng lợi công nghiệp hoá, hiện đại hóa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Phát triển kinh tế nhiều thành phần với đa dạng các hình thức sở hữu trên cơ sở nền tảng là sở hữu toàn dân. Sự tồn tại của kinh tế thị trường dựa trên hai nền tảng cơ bản là có sự phân công lao động xã hội và có sự độc lập tương đối của các chủ thể sản xuất kinh doanh, chính những tiền đề đó đòi hỏi muốn phát triển kinh tế thị trường cần phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ một nền kinh tế phi thị trường như ở nước ta thì chuyển dịch cơ cấu kinh tế càng là một tất yếu mà chúng ta phải thực hiện. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức kinh tế-xã hội mà tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội đều gắn liền với thị trường, và được thực hiện thông qua thị trường. Kinh tế thị trường không chỉ là cách thức con đường phát triển kinh tế mà còn là tổng thể các mối quan hệ kinh tế-xã hội tức là hệ thống quan hệ sản xuất thích hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Tổng thể các mối quan hệ kinh tế vừa là đòi hỏi vừa là điều kiện để phát triển kinh tế thị trường phù hợp với mỗi quốc gia 12
  15. dân tộc. Để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế gắn với sự hình thành đồng bộ các loại thị trường, tạo nên thị trường thống nhất trong cả nước và chủ động xâm nhập vào thị trường khu vực và quốc tế. Thực hiện nhất quán chính sách phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, nâng cao hiệu quả của kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể làm cho nó thực sự là nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế thị trường ra đời phát triển trên cơ sở phân công lao động xã hội phân bố lại dân cư và lao động trong từng địa phương, từng vùng và phạm vi cả nước theo hướng hợp tác hoá, chuyên môn hoá nhằm khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực để phát triển nhiều ngành nghề mới tạo nhiều việc làm cho người lao động và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Việc mở rộng phân công lao động xã hội trong nước đồng thời phải mở rộng phân công lao động quốc tế, gắn thị trường trong nước và quốc tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động phải đảm bảo cho việc phân bổ và sử dụng các yếu tố đầu vào, đầu ra của quá trình sản xuất phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 1.2.1.3. Từ thực tiễn xác định cơ cấu kinh tế sai lầm trước đây và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta trong thời kỳ đổi mới Sau năm 1954 miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, chúng ta tiến hành cải cách ruộng đất, thực hiện mục tiêu "Người cày có ruộng". Trong những năm 1957 đến 1960 chúng ta tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa nhằm xác lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đã xác định sự cần thiết tiến hành công nghiệp hoá đất nước, nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội và coi đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Mặc dù còn là một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, hậu quả của chiến tranh rất nặng nề, song chúng ta đã thực hiện quá trình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa theo mô hình của Liên Xô, và đã xác định 13
  16. nội dung của công nghiệp hoá là: Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ để nhanh chóng biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại. Nhưng do mục tiêu chung của cách mạng nước ta lúc đó là thực hiện giải phóng miền Nam thống nhất tổ quốc hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, do đó quá trình công nghiệp hoá thực hiện chưa được nhiều. Mặt khác mục tiêu đó rất khó thực hiện đối với một nước có điểm xuất phát rất thấp, nền kinh tế chưa có tích luỹ, chủ yếu phát triển dựa vào sự viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa. Sau năm 1975 đất nước được thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, dưới ánh sáng của đường lối phát triển kinh tế do Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đề ra. Trong đường lối xác định: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp thành một cơ cấu công-nông nghiệp, vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất, phát triển lực lượng sản xuất, kết hợp với xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất mớià Như vậy về thực chất ở giai đoạn này nông nghiệp và công nghiệp nhẹ được coi là cơ sở để phát triển công nghiệp nặng. Song với tính đặc thù của nông nghiệp và công nghiệp nhẹ nó không thể tự thân phát triển mạnh mẽ nếu bản thân nó không được công nghiệp hóa. Trên cơ sở đường lối chung đó kế hoạch năm năm lần thứ II (1976- 1980) xác định nhiệm vụ phát triển như sau: Tập trung cao độ lực lượng của cả nước tạo một bước phát triển vượt bậc về nông nghiệp, ra sức đẩy mạnh lâm nghiệp, ngư nghiệp, phát triển công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm nhằm tạo tích lũy cho công nghiệp hóa 14
  17. và nâng cao đời sống của nhân dân. Trong giai đoạn này chúng ta phát triển thí điểm với quy mô đồng bộ ở hai huyện Nam Ninh và Quỳnh Lưu gắn với tập thể hóa cao độ. Đối với công nghiệp nặng: phát huy năng lực sẵn có xây dựng thêm nhiều cơ sở mới về cơ khí, mở mang giao thông vận tải, tăng nhanh xây dựng cơ bản và từng bước hình thành cơ cấu kinh tế mới công-nông nghiệp, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương. Chủ trương xây dựng huyện thành đơn vị kinh tế nông - công nghiệp, kết hợp kinh tế với quốc phòng. Với đường lối trên và cơ chế kế hoạch hóa tập trung; ưu tiên phát triển công nghiệp nặng để từng bước hình thành cơ cấu kinh tế công-nông nghiệp. Chúng ta đã tập trung quá nhiều vốn, vật tư kỹ thuật cho công nghiệp nặng mà không chú ý quan tâm đến phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ dẫn tới làm mất cân đối trong đầu tư, từ đó nền kinh tế lâm vào tình trạng thiếu lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, đời sống khó khăn và lâm vào khủng hoảng kinh tế năm 1979. Tháng 3 năm 1982 Đại hội Đảng lần thứ V rút kinh nghiệm đường lối công nghiệp hóa trong giai đoạn trước. Đảng ta đã điều chỉnh đường lối công nghiệp hóa. Trong đường lối đó chúng ta coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, tập trung vào phát triển nông nghiệp, công nghiệp nhẹ nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách và thiết yếu về lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng nhằm ổn định đời sống xã hội. Trong Đại hội này Đảng ta đã xác định được điểm xuất phát của đất nước là nước ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Với sự điều chỉnh cơ cấu kinh tế đó đã tạo ra một bước phát triển đột phá trong nông nghiệp, công nghiệp và hàng tiêu dùng. Đối với nông nghiệp Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương đã thực sự cởi trói tạo ra một sức sống mới cho nông nghiệp và nông thôn. Song do sai lầm trong quản lý kinh tế với chính sách cải cách Giá-Lương-Tiền năm 1985 làm cho nền kinh tế càng lún sâu vào khủng hoảng và đẩy lạm phát tới mức phi 15
  18. mã 774% năm 1986, đời sống kinh tế xã hội vô cùng khó khăn, nhiều tỉnh có người chết đói. Trước bối cảnh đó Đảng ta xác định phải đổi mới toàn diện mà trước hết là đổi mới tư duy kinh tế. Công cuộc đổi mới toàn diện sâu sắc ở nước ta được đánh dấu bằng Đại hội Đảng lần thứ VI (Tháng 12 năm 1986), trong đó đổi mới tư duy kinh tế là trọng tâm. Về công nghệp hóa là khắc phục các thiếu sót trước đây về ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, ham quy mô lớn và thiên về xây dựng mới. Đảng ta chủ trương điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng tập trung mọi nguồn lực cho ba chương trình kinh tế lớn là: Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Về cơ cấu thành phần kinh tế Đảng ta chủ trương chuyển sang cơ cấu kinh tế nhiều thành phần coi đó là vấn đề có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn và chính sách này có ý nghĩa chiến lược, lâu dài đồng thời là một đặc trung của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ba chương trình kinh tế là sự cụ thể hóa nội dung của công nghiệp hóa trong chặng đường đầu tiên, định hướng sự phát triển cho tất cả các ngành, vùng, các hoạt động kinh tế nhằm xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý. Khẳng định vị trí hàng đầu của nông nghiệp và vai trò của công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp. Đối với công nghiệp nặng phải phát triển một cách có chọn lọc, hợp với khả năng của nền kinh tế nhằm phục vụ đắc lực cho yêu cầu phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Với đường lối công nghiệp hóa do Đại hội VI đề ra đã tạo ra một sức sống mới cho nền kinh tế và đã thu được nhữnng thành tựu cực kỳ quan trọng. Đại hội VII và Đại hội VIII Đảng ta tiếp tục hoàn thiện đường lối đổi mới. Trong giai đoạn này Đảng ta chủ trương chuyển dịch một cách căn bản và toàn diện cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do vậy trong thời gian 10 năm gần đây việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế 16
  19. theo hướng Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đem lại những thành tựu cực kỳ to lớn. Nền kinh tế hình thành cơ cấu ba ngành rõ rệt, tỷ trọng GDP tương đối hợp lý. GDP tăng gấp đôi, tích lũy nội bộ nền kinh tế đạt 25% GDP, kim ngạch xuất khẩu tăng 6 lần, đầu tư nước ngoài chiếm 35% tổng đầu tư toàn xã hội... Từ thực tiễn của 18 năm đổi mới, với thực tiễn kinh tế xã hội của đất nước và bối cảnh quốc tế Đại hội IX của Đảng đã bổ sung phát triển một cách sâu sắc và toàn diện hơn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta đến năm 2010 và 2020 để nước ta trở thành một nước công nghiệp. Dưới ánh sáng của Nghị quyết đại hội IX của Đảng, trong 3 năm qua cơ cấu kinh tế nước ta tiếp tục có bước chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Năm 2003 tăng trưởng kinh tế đạt mức cao nhất trong 06 năm qua: Bảng 1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế từ năm 1998 - 2003 (Đơn vị tính %) Năm 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Tăng trưởng GDP 5,71% 4,77% 6,79% 6,89% 7,04% 7,24% Nguồn: Nguyễn Sinh Cúc, Tổng quan kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2003. Bảng 2. Tỷ trọng các ngành kinh tế trong GDP: (%GDP) Năm 2000 2001 2002 2003 Công nghiệp 36,73 38,13 38,55 40,00 Nông nghiệp 24,53 22,24 22,99 21,60 Dịch vụ 38,74 38,63 38,46 38,40 Nguồn: Nguyễn Sinh Cúc. Tổng quan kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2003 [4]. 17
  20. 1.2.2 Yêu cầu xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý trong quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng một nền kinh tế có cơ cấu kinh tế hợp lý có các đặc trưng cơ bản như: Tính khoa học, tính thị trường, tính hiện đại và tính hiệu quả kinh tế - xã hội. Một là: Tính khoa học: Xây dựng cơ cấu kinh tế phải tuân thủ các quy luật khách quan như : quy luật tự nhiên, kỹ thuật, kinh tế và xã hội mà đặc biệt là các quy luật kinh tế. Chúng ta đều biết lịch sử của loài người trước hết là lịch sử của sản xuất mà thực chất là sự phát triển kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất xã hội. Sự phát triển đó là quá trình lịch sử tự nhiên tuân theo các quy luật kinh tế vốn có của nó. Cơ cấu kinh tế cũng vậy, nó phát triển cũng phải tuân theo các quy luật của chính nó. Sự hình thành và hoàn thiện của các cơ cấu kinh tế chịu sự quy định của trình độ lực lượng sản xuất, trình độ của sự phân công lao động xã hội, mặt khác cơ cấu kinh tế còn chịu sự quy định của thể chế chính trị xã hội, xu hướng quốc tế và khu vực. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay nó chịu sự quy định mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng tuân theo quy luật của chính nó. Trong nội dung của cơ cấu kinh tế thì cơ cấu kinh tế ngành là quan trọng nhất, đồng thời phản ánh tính rõ nét nhất tính quy luật của sự chuyển dịch. Đối với cơ cấu ngành kinh tế: chuyển dịch từ cơ cấu nông nghiệp thành cơ cấu kinh tế Công nghiệp -Nông nghiệp -Dịch vụ chuyển dịch thành cơ cấu kinh tế Dịch vụ - Công nghiệp - Nông nghiệp hiện đại. Trong cơ cấu kinh tế nội bộ của từng ngành quá trình chuyển dịch cũng mang tính quy luật. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2