intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Đồng tiền chung ASEAN - Sự cần thiết cho phát triển khu vực

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:127

62
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài có cấu trúc gồm 3 chương trình bày vấn đề đồng tiền chung; thực trạng kinh tế tài chính ASEAN; đồng tiền chung ASEAN sự cần thiết phát triển khu vực.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Đồng tiền chung ASEAN - Sự cần thiết cho phát triển khu vực

  1. .BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM NGUYỄN THANH NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP. Hồ Chí Minh – Năm 2005
  2. Trang : 1 CHƯƠNG I: VẤN ĐỀ ĐỒNG TIỀN CHUNG 1.1 Tiền tệ 1.1.1 Bản chất : Tiền tệ là một hàng hoá đặc biệt, đóng vai trò vật ngang giá chung để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả các hàng hoá khác; đồng thời nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất. Bản chất này xuất phát từ việc ra đời là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của các hình thái giá trị : • Ở hình thái giá trị giản đơn ngẫu nhiên của giá trị, giá trị của một vật được biểu hiện bằng giá trị sử dụng của một vật khác đóng vai trò là vật ngang giá. • Ở hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng, giá trị của một vật được biểu hiện ở giá trị sử dụng của nhiều hàng hoá khác có tác dụng làm vật ngang giá. • Ở hình thái chung của giá trị, giá trị của tất cả hàng hoá được biểu hiện bằng giá trị của một hàng hoá đóng vai trò là vật ngang giá chung. Vật ngang giá chung này được chọn tùy theo tập quán địa phương mang ý nghĩa tượng trưng như lông thú, da thú, vòng đá, vỏ sò…. • Ở hình thái tiền tệ, khi lực lượng sản xuất phát triển, việc tồn tại nhiều vật ngang giá chung gây khó khăn cho thị trường trao đổi hàng hoá. Điều này dẫn đến sự ra đời của vật ngang giá chung bằng kim loại thay thế dần cho các vật ngang giá chung khác, mà đáng kể nhất đó là bạc, sau đó là vàng (kim tệ) Như vậy, tiền tệ là một sản phẩm tự phát và tất yếu. nó gắn liền vời sự tồn tại và phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Không những thế, nó còn chứa đựng và biểu hiện nhiều mối quan hệ xã hội giữa người với người. 1.1.2 Chức năng : Tiền tệ có 5 chức năng như sau : a./ Chức năng thước đo giá trị : Đây là chức năng cơ bản của tiền tệ. Chức năng này được thể hiện thông qua việc tiền dùng để đo lường và biểu hiện giá trị cho các hàng hoá khác và chuyển giá trị hàng hoá thành giá cả hàng hoá. Để thực hiện chức năng này, tiền tệ đòi hỏi phải có giá trị đầy đủ, có tiêu chuẩn giá cả, và được thể
  3. Trang : 2 hiện trong tư duy, ý niệm. Việc giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá đã tạo mối tương quan nghịch giữa giá trị tiền tệ và giá cả hàng hoá, đồng thời cho thấy rằng tiền tệ là một công cụ đặc biệt quan trọng để thực hiện quy luật giá trị, quy luật phổ thông của nền sản xuất hàng hoá. b./ Chức năng phương tiện lưu thông : Thể hiện ở việc tiền được dùng làm phương tiện trung gian cho quá trình trao đổi hàng hoá (H-T-H) và phương tiện để thực hiện giá trị của hàng hoá. Điều này thể hiện ở việc hàng hoá sẽ không được phép trao đổi trực tiếp (H-H), mà trước tiên, giá trị của hàng hoá được biểu hiện thành giá trị tiền tệ thông qua việc bán hàng hoá (H-T) ; rồi sau đó, hàng hoá đựợc mua lại với giá trị tương đương với giá trị tiền tệ (T-H). Như vậy, tiền tệ không phải là mục đích của trao đổi, mà chỉ đóng vai trò trung gian. Tuy nhiên, để tạo một sự lưu thông hàng hoá được mạch lạc, cần thiết phải có một khối lượng tiền thật sự và tiền này cũng không nhất thiết phải là tiền có đầy đủ giá trị như vàng, nó được thay thế bằng các loại tiền ký hiệu. c./ Chức năng phương tiện cất trữ : Chức năng này được thể hiện ở việc tiền được đưa ra khỏi quá trình lưu thông nhằm mục đích cất trữ và sử dụng sau này. Xuất phát từ khả năng có thể trực tiếp chuyển hoá thành bất kỳ một loại hàng hoá nào, tiền cất trữ phải có đầy đủ giá trị và tạm thời không phục vụ cho quá trình lưu thông hàng hoá. Tuy nhiên, người ta cũng có thể sử dụng tiền ký hiệu cho việc cất trữ, các loại tiền này được đảm bảo bằng vàng của quốc gia sản xuất tiền giấy ký hiệu đó. d./ Chức năng phương tiện thanh toán: Chức năng này đựợc thể hiện ở việc tiền đựơc dùng làm phương tiện để thanh toán các khoản nợ phát sinh trong trao đổi hàng hoá, dịch vụ và các lĩnh vực khác. Khi thực hiện chức năng này, tiền vận động tương đối độc lập so với hàng hoá, dịch vụ thậm chí giữa chúng với nhau cũng có một sự tách rời nhau cả về không gian và thời gian. Do đó, tiền ở đây có thể là tiền vàng, hoặc tiền ký hiệu, hay tiền ghi sổ. Mặc dù vậy, tiền vẫn không nằm ngoài quá trình lưu thông, mà còn có tác dụng tích cực thúc đẩy quá trình tiêu thụ hàng hoá ; từ đó, giúp cho sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển.
  4. Trang : 3 e./ Chức năng tiền tệ thế giới: Chức năng này thể hiện ở việc tiền thực hiện các chức năng trong phạm vi thế giới. Điều này đòi hỏi tiền phải được chấp nhận của các quốc gia trên thế giới. Do đó, tiền đầy đủ giá trị mới thực hiện được chức năng này. Tuy nhiên, hiện nay, tiền ký hiệu của một số nước cũng đựơc áp dụng hoặc chấp nhận rộng rãi ở nhiều nước. Do đó, cũng có quan điểm cho rằng các loại tiền này cũng có chức năng tiền tệ thế giới. Tóm lại 5 chức năng trên của tiền tệ không đơn lẻ mà chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trước tiên, tiền tệ thực chiện chức năng chuyển giá trị hàng hoá thành giá cả. Khi đó, hàng hoá chính thức bước vào lưu thông. Khi giá cả được thực hiện thì hàng hoá đã chuyển thành tiền, số tiền này có thể được cất trữ cho việc sử dụng trong tương lai hoặc dùng để thanh toán cho việc mua hàng hoá khác phục vụ cho nhu cầu sản xuất hoặc nhu cầu tiêu dùng. Khi quá trình trao đổi hàng hoá vượt ra ngoài biên giới của một quốc gia thì cũng là lúc tiền tệ thực hiện chức năng phạm vi thế giới. 1.1.3 Vai trò của tiền tệ : • Tiền tệ là phương tiện không thể thiếu để mở rộng và phát triển kinh tế hàng hoá. Thông qua chức năng thước đo giá trị, phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán, việc trao đổi hàng hóa diễn ra thuận lợi và thống nhất hơn. Nó góp phần giúp đỡ người sản xuất kinh doanh hạch toán được rõ ràng chi phí và hiệu quả sản xuất mà họ thực hiện; đồng thời tiến hành tích lũy tiền tệ để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. • Tiền tệ là phương tiện để thực hiện và mở rộng các quan hệ quốc tế. Xuất phát từ nhu cầu phát triển của nền kinh tế, thị trường quốc nội đã dần mở cửa hướng ra thị trường thế giới lớn hơn thông qua con đường ngoại thương. Nhờ ngoại thương, mà các chức năng thanh toán và chức năng tiền tệ thế giới của tiền tệ đã phát huy triệt để vai trò của mình. Từ đó, mối quan hệ giữa các quốc gia không chỉ đơn thuần về mặt kinh tế mà còn lan sang các lĩnh vực khác như chính trị, văn hoá….
  5. Trang : 4 • Tiền tệ là công cụ để phục vụ cho mục đích của chủ sỡ hữu. Khi mà các quan hệ kinh tế – xã hội đều bị tiền tệ hoá thì cũng là lúc tiền tệ trở thành công cụ để xử lý và giải quyết mọi mối quan hệ phát sinh cả trong phạm vi quốc gia và quốc tế. Chính vì vậy, người chủ sỡ hữu tiền tệ có thể sử dụng nó để thoả mãn mọi nhu cầu của mình. Chừng nào còn tồn tại nền kinh tế hàng hoá, thì chừng đó dòng tiền sẽ còn phát huy mạnh mẽ sức mạnh vạn năng của nó. 1.2 Liên minh tiền tệ : Nền tảng cho việc hình thành đồng tiền chung ở Châu Âu có thể tính bằng việc ra đời của các liên minh tiền tệ: Liên minh tiền tệ Latinh, Liên minh tiền tệ Đức, Bản vị vàng . . . vào khoảng đầu thế kỷ 19. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vào những năm 30 của thế kỷ 19 thúc đẩy các nước Châu Âu hình thành ý tưởng đồng tiền chung nhằm ổn định nền kinh tế chung của toàn khối. Tuy nhiên cho đến năm 1950 thì liên minh tiền tệ vẫn chưa được đề cập tới trong các chương trình nghị sự. Trong khi đó hệ thống tỷ giá cố định Bretton Woods đang tồn tại và gây ảnh hưởng đến nền kinh tế chung, biểu hiện của nó là Pháp và Đức đã lần lượt phá giá đồng tiền của mình (đồng Franc và đồng Mác) trong năm 1969, điều này đe dọa đến sự ổn định của các đồng tiền khác trong khối đến nỗi Thủ tướng Đức lúc đó Ông W.Brandt đã đề nghị phải khôi phục lại các kế hoạch về Liên minh tiền tệ Châu Âu. Năm 1970, kế hoạch thành lập một đồng tiền chung Châu Âu do Thủ tướng Luýchxămbua lúc đó, Ông Werner đưa ra, trong đó báo cáo này lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ Liên minh tiền tệ (EMU – Economic and Monetary Union), kế hoạch Werner chia ra làm 2 giai đoạn: Giai đoạn I: Thành lập đơn vị tiền tệ thống nhất gọi là đơn vị tiền tệ Châu Âu (ECU – European Currency Unit) phối hợp thực hiện chính sách tiền tệ giữa các quốc gia trong khối. Giai đoạn II: Chuyển đồng ECU thành đồng tiền chung được sử dụng song song với các đồng tiền khác trong khối và dần trên phạm vi quốc tế. Báo cáo Werner chưa được triển khai thì Châu Âu phải đối đầu với sự sụp đổ của của hệ thống Bretton Woods và ngày 24-04-1972 Châu Âu thành lập “con rắn
  6. Trang : 5 tiền tệ ” nhằm mục đích giới hạn sự dao động của các đồng tiền Châu Âu ở dưới mức dao động quốc tế. Tuy nhiên hệ thống này hoạt động không mấy thành công, bằng chứng là chỉ trong 2 năm 1974 - 1975 Pháp và Đức, hai nước chủ chốt trong hệ thống, đã lần lượt rút khỏi hệ thống này đến hai lần. Không thành công với hệ thống tỷ giá cố định, Châu Âu đã tìm sự ổn định mới cho hệ thống tiền tệ của mình, bắt đầu với việc này là ngày 07-07-1978, hiệp ước Breme (Đức) về việc thành lập hệ thống tiền tệ Châu Âu (SME – Système Monétaire Européenne). Năm 1979, hệ thống này bắt đầu hoạt động với cơ chế quy định giới hạn sự biến động của tỷ giá trong biên độ dao động 2.25%, riêng đồng peseta Tây Ban Nha và livre là 6%. Tuy nhiên, hệ thống này cũng không đáp ứng được yêu cầu thực tế khi Pháp và Ý liên tục phá giá đồng tiền của mình. Tháng 06/1988, Hội đồng Châu Âu ký quyết định giao cho Ông Jacques Delors, Chủ tịch Ủy ban Châu Âu đương thời, chịu trách nhiệm chuẩn bị và đề xuất các bước đi cụ thể về việc thành lập Liên minh kinh tế tiền tệ Châu Âu (EMU). Năm 1989 tại Madrid Hội đồng Châu Âu phê chuẩn báo cáo Delor. Giai đoạn I của Liên minh tiền tệ bắt đầu vào tháng 7/1990, báo cáo Delor cũng là nền tảng cho Hiệp ước Maastricht, được ký vào năm 1992, xác định chính thức các vấn đề liên quan đến khối đồng tiền chung duy nhất Châu Âu, cơ chế vận hành các Tổ chức thiết chế Châu Âu, chính sách đối ngoại và an ninh chung, chương trình hợp tác Tư pháp và cũng đã đưa ra những tiêu chí để gia nhập đồng tiền chung Châu Âu. 1.3 Thuyết khu vực đồng tiền tối ưu. Lý thuyết khu vực tiền tệ tối ưu do các nhà kinh tế Mỹ R.Mundell và R.Mc.Kinnon đưa ra vào đầu thập kỷ 1960. Xuất phát từ định hướng khi đó của cộng đồng kinh tế Châu âu (EEC) là nhằm đạt được tự do hoàn toàn trong việc lưu chuyển hàng hoá, dịch vụ, vốn và sức lao động, tức là lưu chuyển tự do các “yếu tố sản xuất”. Lý thuyết này đề cập những cơ sở của sự thống nhất tiên tệ Châu Âu và gây được sự chú ý lớn : • Định nghĩa Khu vực tiền tệ tối ưu : là lãnh thổ bao gồm những nước cùng chung những điều kiện, khả năng thích hợp nhất để sử dụng một loại tiền thống
  7. Trang : 6 nhất, hoặc chung những khả năng để thiết lập một đồng giá vững chắc giữa các đồng tiền quốc gia của mình. Vài khu vực tiền tệ sẽ là “tối ưu” nếu trong lãnh thổ đó tồn tại khả năng cơ động giữa các “yếu tố sản xuất” ( bao gồm cả sự cơ động bên trong và bên ngoài). Ví dụ nội bộ EEC được tự do hoàn toàn việc giao lưu hàng hoá, vốn và sức lao động và có sự thoả hiệp giữa các nước thành viên về các vấn đề kinh tế, chính trị, sự phối hợp các thể chế, chính sách kinh tế. • Khu vực tối ưu phải đảm bảo tiêu chí là : Các nước thành viên sẵn sàng chấp nhận hy sinh tính độc lập của mình trong việc giải quyết các vấn đề về tiền tệ – tín dụng. Khu vực tiền tệ tối ưu là khu vực trong đó không một bộ phận cấu thành nào của nó đòi quyền có đồng tiền riêng và chính sách tiền tệ độc lập. Những điều kiện cho tồn tại của khu vực tiền tệ tối ưu là tốc độ lạm phát giữa các nước thành viên ít nhiều phải đồng đều để có thể thực thi ngân sách, kinh tế và tiền tệ có hiệu quả. Đồng thời, các nước này phải đạt được những mục đích như ổn định giá cả, tỷ lệ thất nghiệp thấp và sự cân bằng trong cán cân thanh toán. Chẳng hạn khu vực đồng tiền chung Châu Âu, quy định các nước phải có thâm hụt ngân sách dưới 3% và nợ quốc gia phải dưới 60% tổng sản lượng quốc gia. 1.4 Đồng EURO – Mô hình đầu tiên của liên minh tiền tệ. 1.4.1 Quá trình thực hiện đồng tiền chung EURO: gồm 3 giai đoạn : Giai đoạn 1 (tư ̀năm 1990 đến 1993) : Thống nhất chính sách tiền tệ quốc gia, rút ngắn sự cách biệt giữa các nền kinh tế của các nước thành viên. Thực hiện tự do hoá lưu thông vốn thanh toán qua việc hoàn thành thị trường thống nhất vào ngày 1/1/1993. Các ngân hàng trung ương các nước thành viên thông qua Ủy ban thống đốc của mình phối hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ để giữ ổn định tỷ giá cố định giữa các đồng tiền trong hệ thống tiền tệ Châu Âu. Giai đoạn 2: (1994 – 1999) : cùng với sự ra đời của viện tiền tệ Châu Âu (EURO pean monetary Instituse – EMI), EMI không có trách nhiệm thực hiện chính sách tiền tệ cũng như can thiệp hối đoái trong toàn liên minh, hai nhiệm vụ chủ yếu của EMI là :
  8. Trang : 7 1./ Thúc đẩy sự phối hợp hoạt động giữa các ngân hàng trung ương quốc gia trong việc thực hiện chính sách tiền tệ. 2./ Chuẩn bị cho việc hình thành hệ thống ngân hàng trung ương Châu Âu và liên minh kinh tế – tiền tệ Châu âu. Tháng 12/1995, hội đồng Châu Âu nhất trí đơn vị tiền tệ chung của liên minh là đồng EURO. Tháng 12/1996, EMI hoàn thành dự thảo các yếu tố nên tảng cho cơ chế tỷ giá mới và được thông báo vào tháng 6/1997. Chi tiết mệnh giá của đồng EURO đã được thông qua. 5/1998, 11nước thành viên đủ tiêu chuẩn được lựa chọn tham gia khu vực đồng EURO đợt đầu. Tỷ giá chuyển đổi song phương giữa các đồng tiền quốc gia thành viên được ấn định căn cứ vào cơ chế tỷ giá của EMI. Đồ̀ng thời, Chủ tịch, Phó chủ tịch và Ban giám đốc điều hành của ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) đã được chỉ định. Tháng 6/1998 , ECB thành lập và cùng các ngân hàng khác hình thành hệ thố́ng ngân hàng trung ương Châu Âu (ESCB). Đến lúc này, EMI đã hoàn thành nhiệm vụ và ngừng hoạt động. Tháng 6/1998 đến 12/1998 là giai đoạn kiểm tra cuối cùng các hệ thống và thủ tục cho việc xuất hiện đồng EURO. Giai đoạn 3 (từ ngày 1/1/1999): EMU bắt đầu hoạt động với một chính sách tiền tệ thống nhất toàn khu vực. Tuy vậy, giai đoạn này có thể chia thành 3 bước chính : Bước 1 : Bước chuẩn bị , ngày 2/5/1998 và kết thúc 1/1/1999. Hội nghị thượng đỉnh đặc biệt của EU tại Brussels (Bỉ). Các nhà lãnh đạo Châu Âu sẽ quyết định nước nào trong số 15 nước thành viên sẽ tham gia liên minh tiền tệ. Ngay khi hội đồng Châu âu chính thức công bố danh sách những nước đủ điều kiện tham gia đồng tiền chung, tỷ giá hối đoái song phương cố định vĩnh viễn giữa đồng tiền các nước thành viên cũng được công bố. Đây là bước đi táo bạo góp phần tạo nên ổn định, tránh đồng EURO khỏi những đầu cơ ngay từ những ngày đầu tiên phát hành.
  9. Trang : 8 Hội nghị công bố quyết định thành lập ngân hàng Trung ương Châu âu (ECB). Giống như cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED), ECB chịu trách nhiệm vận hành chính sách tiền tệ chung trong toàn bộ khu vực đồng EURO. Bắt đầu từ 1/1/1999 ECB có vai trò cung cấp chính sách tiền tệ ổn định và đáng tin cậy, thực thi và kiểm soát chính sách tiền tệ ổn định và đáng tin cậy, thực thi và kiểm soát chính sách tiền tệ thống nhất của cộng đồng. ECB hoàn toàn độc lập với các nhà nước thành viên và ủy ban Châu Âu trong việc hoạch định , tổ chức và điều hành chính sách tiền tệ. Bước hai, diễn ra trong 3 năm 1999, 2000 và 2001 : Thời kỳ chuyển đổi hoặc thời kỳ quá độ. Bắt đầu bằng việc giới thiệu đồng EURO là đồng tiền của 11 nước thành viên. Tuy nhiên trong khoảng thời gian 3 năm này, EURO chỉ tồn tại như đồng tiền ghi sổ, nghĩa là chưa lưu hành tiền giấy và tiền xu EURO trên thực tế. Đồng EURO có thể được sử dụng trong mọi hoạt động từ séc cá nhân, bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp các hệ thống kế toán cho đến các hoá đơn có giá trị hàng triệu USD, các bảng báo cáo tài chính của các công ty xuyên quốc gia. Liên minh áp dụng chính sách “ không bắt buộc, không ngăn cấm” sử dụng EURO trong giao dịch. Tuy nhiên, tầm quan trọng của đồng tiền ghi sổ này không phải là thấp vì giao dịch thanh toán bằng tiền mặt chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong các hoạt động kinh doanh. Bằng chứng là tổng giá trị tiền mặt lưu thông ở Châu Âu chỉ chiếm tỷ lệ chưa đầy 6% GDP của khu vực này. Đến đầu năm 1999 tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền quốc gia và đồ̀ng EURO mới được xác định. Các tỷ giá này đựơc tính toán dựa trên cơ sở so sánh giá trị giao dịch của đồng tiền trong liên minh kinh tế tiền tệ với đồng USD vào ngày giao dịch cuối cùng của năm 1998 và được cố định kể từ ngày đó trở đi. Chuyển giao quyền tự chủ trong chính sách tiền tệ của các nước cho ECB, chịu sự chỉ đạo của ECB. Tất cả trái phiếu của chính phủ những nước tham gia đồng EURO đều phải phát hành bằng đồng EURO. Các thị trường tiền tệ, thị trường ngoại hối, hệ thống thanh toán bù trừ chuyển sang sử dụng đồng EURO. Bước 3 : Tiến hành đổi tiền thực sự bằng tiền giấy và tiền xu được phát hành vào lưu thông sau năm 2002. Đồng tiền này đơn vị là Cent các loại sau :
  10. Trang : 9 Tiền xu : 1, 2, 5,10, 20, 50 cent và loại 1, 2 EURO. Tiền giấy : 5, 10, 20, 50, 100, 200 và 500 EURO. Ước tính có khoảng 13 tỷ tiền giấy đã đựơc phát hành vào năm 2002. Vào tháng 6/2002 các đồng tiền quốc gia thành viên cuối cùng đã loại bỏ khỏi lưu thông nhường chỗ cho đồng EURO. 1.4.2 Các quy tắc khi thực hiện đồng tiền chung. Các quy tắc khi thực hiện đồng tiền chung được tiến hành theo thoả thuận của hiệp ước Maastricht, nó đặt ra cho các nước muốn tham gia đồng EURO là : Thứ nhất, lạm phát phải ở cùng một mức trung bình dưới 2,72%, lạm phát ngắn hạn không vượt quá 1,5% so với mức lạm phát bình quân của 3 nước thành viên có tỷ lệ lạm phát thấp nhất. Thứ hai, tỷ lệ lãi suất tiết kiệm của các nước thành viên không được khác nhau quá nhiều. Tỷ lệ lãi suất dài hạn và trung hạn không vượt quá 2% so với mức lãi suất bình quân của 3 nước thành viên có tỷ lệ lãi suất thấp nhất. Thứ ba, các khoản thâm hụt ngân sách của chính phủ không đựơc vượt quá 3 % GDP. Thứ tư, nợ chính phủ không được vượt quá 60% GDP. Thứ năm, phải duy trì một tỷ giá trao đổi ổn định nằm trong khuôn khổ cho phép của cơ chế tỷ giá hối đoái (ERM) ít nhất là 2 năm. Khi hiệp ước Maastricht đã được ký kết, chỉ có một vài nước đủ điều kiện và tiêu chuẩn để tham gia đồng EURO. Theo thống kê của ECB năm 1995 thì thâm hụt ngân sách bình quân của EU là 4,7% GDP. Tuy nhiên các nước EU vẫn quyết tâm xây dựng một đồng tiền chung nhờ các chính sách cải tổ cần thiết nhất để giảm thâm hụt ngân sách của chính phủ . Italia đã phải tạo ra khoảng 12 nghìn tỷ lia “thuế EURO” để giảm thâm hụt ngân sách. Đức đã bán vài nghìn tấn dầu trong quỹ dự trữ chiến lựơc. Pháp đã thay đổi các quy định kế toán đối với khoản tiền 37,5 nghìn tỷ Frc trong quỹ hưu trí của tập đoàn France Telecom và chuyển chúng vào ngân sách của chính phủ. Tiếp đó Pháp còn tăng mức thuế. Đối với công ty lớn nhất nước, thậm chí còn áp dụng cả với lợi nhuận thu được từ năm trước đó. Phần Lan cắt giảm
  11. Trang : 10 mạnh thâm hụt ngân sách Chính phủ khoảng 45 tỷ Markla từ năm 1991 đến 1996. Tuy nhiên, Hiệp ước Maastrict cũng cho phép có mức độ linh hoạt nhất định khu đánh giá tiêu chí hội tụ của các nước thành viên. Nó không chỉ đơn thuần dựa vào các chỉ tiêu đạt được mà còn dựa vào triển vọng kinh tế của các nước thành viên thông qua giải pháp đựơc sử dụng một cách tích cực và hiệu quả nhằm đạt được các chỉ tiêu của hiệp ước. Cuối cùng thì những năm tháng cải tổ cũng đã kết thúc thành công. Ngày 5/12/1998, hội đồng Châu Âu đã đưa ra danh sách những nước thoả mãn 5 quy tắc của hiệp ước. Đó là 11 trong số 15 thành viên EU sẽ tham gia đồng EURO đợt đầu bao gồm : Đức , Pháp, Italia, Bỉ, Hà lan, Lucxămbua, Tay Ban Nha, Bồ Đào Nha, Áo , Phần Lan và Ailen. Bốn nước chưa tham gia gia đợt đầu là Anh, Thụy Điển , Đan Mạch và Hy Lạp. Sau đó, Hy lạp đã hội đủ điều kiện tham gia đồng EURO, và gọi là EURO 12. Việc tuân thủ những thoả thuận của hiệp ước không chỉ diễn ra một lần. Các kiến trúc sư của đồng EURO biết rằng, trách nhiệm với chính sách tài khoá chỉ có ý nghĩa khi có được duy trì liên tục nên EU đã soạn thảo “Hiệp ước tăng trưởng và ổn định” hiệp ước này nhằm trừng phạt những nước trong khu vực đồng EURO có thâm hụt ngân sách quá mức. Nếu một nước có thâm hụt ngân sách vượt quá 3% GDP thì nước này sẽ phải đặt cọc một khoản tiền không được hưởng lãi tại ECB trong suốt thời gian tiến hành điều chỉnh. Số tiền phaṭ bằng 0,2% GDP năm phát sinh thâm hụt ngân sách quá mức cộng với 0,1% số chênh lệch thâm hụt ngân sách vi phạm. Giới hạn tối đa của khoản tiền này là 0,5% GDP. Nếu như sau hai năm nước này cải thiện đựoc tình trạng thâm hụt ngân sách quá mức thì số tiền này sẽ được ECB hoàn trả lại. Còn nếu không cải thiện được tình hình thì Ủ̉y ban Châu âu sẽ coi đó là khoản tiền nộp phạt vĩnh viễn đóng góp cho ngân sách liên minh. Tuy vậy, nước vi phạm sẽ được hưởng trường hợp ngoại lệ nếu như nước này đang trong thời kỳ suy thoái.
  12. Trang : 11 1.4.3 Ảnh hưởng của đồng EURO đối với nền kinh tế thế giới. Khi đồng EURO ra đời, các quốc gia trên thế giới đều tin rằng đồng EURO sẽ là đồng tiền mạnh dựa vào thực lực của nền kinh tế Châu Âu. Việc ra đời của đồng EURO là một sự thiết lập rõ ràng thế 3 cực của nền kinh tế thế giới: Mỹ – Tây Âu – Nhật Bản. Việc đồng EURO ra đời đã chia sẻ thế độc tôn của đồng đô la Mỹ vốn đã bá chủ trong thanh toán quốc tế từ mấy chục năm qua. Vậy đồng EURO sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế tài chính của thế giới như thế nào. Sau đây là những xem xét cụ thể. a. Tác động đến đầu tư quốc tế. Trên khía cạnh đầu tư quốc tế, đồng EURO ra đời đã đem lại rất nhiều tiềm năng thu hút vốn đầu tư, mở rộng sản xuất trong nội khối cũng như sang các khu vực khác trên thế giới. Lý do là: • Đồng EURO được hình thành đã tạo ra một thị trường rộng lớn ở Châu Âu với hơn 300 triệu dân, là thị trường chiếm 19.4% tổng sản phẩm của thế giới và 18.6% thương mại quốc tế, tất cả điều này sẽ là cơ hội tốt cho các nhà đầu tư trong khối cũng như ngoài khối Châu Âu. • Khi tham gia đồng tiền chung, các quốc gia trong khối phải thực hiện những điều kiện kiểm soát chặt chẽ về lãi suất và lạm phát, điều này giúp cho đồng tiền ổn định, do đó hấp dẫn các nhà đầu tư quốc tế vốn coi Châu Âu là một nơi an toàn kể từ khi nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á. Một mức lãi suất thấp cũng sẽ làm tăng nguồn vốn đầu tư từ trong chính các nước thành viên. Hơn nữa, việc thực hiện một đồng tiền duy nhất sẽ giúp cho việc thẩm định, đánh giá các dự án đầu tư vào các nước thành viên trở nên dễ dàng hơn do không phải nhức đầu với vấn đề tỷ giá. Việc thực hiện đồng tiền chung cũng giúp cho việc quản lý trở nên đơn giản, giảm đi các chi phí giao dịch ngoại tệ … do vậy kích thích khả năng hấp dẫn của thị trường EU đối với các nhà đầu tư ngoài khối lẫn trong khối. * Tác động tới các nước Châu âu nằm ngoài khu vực đồng euro. Đối với những nước mong muốn gia nhập EMU, sẽ có sự nghiên cứu thị trường một cách kỹ lưỡng, với phản ứng đột ngột về sự chênh lệch lãi suất gia tăng
  13. Trang : 12 nếu những diễn biến như sự trượt dốc của chính sách ngân sách đưa một quốc gia đi chệch hướng các tiêu chuẩn cho việc gia nhập khu vực đồng EURO. Nếu như việc phối hợp chính sách của khu vực đồng EURO trở thành một điểm nóng trong giai đoạn đầu của EMU thì điều đó cũng có thể tác động lên thị trường và làm thay đổi các tỷ giá cân bằng trong ERM II. Những nước không tham gia ERM II có thể tiếp tục điều hành các chính sách tiền tệ của mình một cách linh hoạt trong việc điều tiết các cú sốc không cân xứng giữa họ và khu vực đồng EURO, bao gồm cả tiến trình chuyển sang sử dụng đồng EURO. Một số nước trong số này có thị trường tài chính rất quan trọng (ví dụ như Anh, Thụy sĩ) có thể phải đối mặt với những khó khăn về mặt tài chính nếu không chắc chắn về quan điểm chính sách của khu vực đồng EURO làm nảy sinh các luồng vốn lớn ra và vào. Nauy và Thụy Sĩ, mặc dù không phải là thành viên của EU và không đủ tiêu chuẩn để tham gia, sẽ trực tiếp chịu tác động của liên minh tiên tệ do vị trí gần gũi về địa lý và các liên hệ về tài chính, thương mại với khu vực sử dụng đồ̀ng EURO. b. Tác động đến thị trường tài chính tiền tệ thế giới. Khi đồng EURO ra đời, các nhà phân tích kinh tế đều cho rằng đồng EURO sẽ là một đối trọng với đồng đô la Mỹ, dự đoán này dựa trên cơ sở về tiềm lực kinh tế, chính trị, thị trường của các nước thực hiện đồng tiền chung so với Mỹ. BẢNG 1.1 SO SÁNH TIỀM LỰC 3 CỰC KINH TẾ THẾ GIỚI năm 1997 EU Hoa kỳ Nhật Bản Dân số (triệu người) 289,4 271 125 Tốc độ tăng trưởng (%) 2,5 3,8 0,9 GDP (tỷ ECU) 5,546 6,846 3,712 Tỷ trọng trổng GDP thế giới (%) 19,4 19,6 7,7 Tỷ trọng trong thương mại quốc tế (%) 18,6 16,6 8,2 Mức tiết kiệm tuyệt đối (tỷ USD) 600 275 685 Tiết kiệm trong GDP (%) 8,7 3,8 15 Hàm lượng dùng đồng tiền trên thế giới ECU USD Yên + Dự trữ ng̣oại tệ (%) 25,8 56,4 7,1 + Giao dịch ngoại hối (%) 35 41,5 12 Thương mại quốc tế (%) 31 40 5 + Nợ của các nước ĐPT (%) 15,8 50,2 18,1
  14. Trang : 13 + Nợ qua phát hành trái phiếu (%) 34,5 37,2 17 Qua bảng ta thấy, Châu Âu (EU-12) với dân số hơn 320 triệu, GDP đạt 8.000 tỷ USD năm 2004 so với Mỹ dân số hơn 250 triệu, GDP đạt 10.000 tỷ USD, với tiềm lực kinh tế như thế, trong tương lai thì chỉ có đồng EURO mới có thể sánh ngang với đồng USD, vì sức mạnh của khu vực các nước đồng EURO đã cao hơn so với Nhật Bản - là một cực trong nền kinh tế thế giới. Kể từ khi ra đời và được ấn định tỷ giá ban đầu là 1 EURO = 1.1667 USD, đồng EURO đã liên tục dao động và tỏ ra suy yếu. Có những lúc 1 EURO chỉ đổi được 0.85 – 0.9 USD, mất giá tới 25% so với đồng USD. Tuy nhiên, trong năm 2003, 2004 đồng EURO lại dần dần lấy lại được ưu thế và có những lúc đã đạt đến 1 EURO = 1.2 USD. Theo Ông Yves Thibault Silguy – Cao ủy Châu Âu về tiền tệ thì giá trị thực của đồng EURO so với đồng USD Mỹ phụ thuộc vào lòng tin của thế giới đối với Châu Âu. Đồng Euro ra đời đã tạo ra thế “chân vạc” trong hệ thống tiền tệ thế giới đó là đồng USD Mỹ, đồng EURO và đồng Yên Nhật Bản. Đồng EURO đạt được điều này là bởi vì : thứ nhất, trong lĩnh vực thương mại, các nước EU chiếm 60% thương mại toàn cầu vì thế tất yếu các nước sẽ sử dụng đồng EURO trong thanh toán; thứ hai, bản thân các quốc gia cũng muốn sử dụng đồng EURO nhằm phân tán bớt rủi ro và bớt phụ thuộc vào đồng USD cũng như nền kinh tế Mỹ. Đồng EURO ra đời đã làm thay đổi cơ cấu dự trữ ngoại tệ của nhiều quốc gia, điều này là hoàn toàn có thể xảy ra vì như đã đề cập ở trên, các quốc gia trên thế giới trong nhiều thập niên qua đã gắn việc dự trữ ngoại tệ của mình vào một đồng tiền chủ yếu đó là đồng USD. Điều này khiến cho các quốc gia gặp rủi ro nếu sự biến động của đồng USD không theo như ý mong đợi. Việc đa dạng hóa đồng tiền dự trữ sẽ giúp cho các quốc gia giảm thiểu bớt rủi ro và tự chủ nhiều hơn trong hoạch định ngân sách. Trên thực tế đã có nhiều quốc gia thực hiện việc này, chẳng hạn như trong cuộc hội thảo quốc tế về ngân hàng tại Saint Peterburg, thống đốc ngân hàng Trung ương Nga Sergei Ignatyev thông báo dự trữ ngoại tệ của Nga đến tháng 06 năm 2003 đạt 64,9 tỷ USD, trong đó tỷ trọng đồng EURO trong dự trữ ngoại tệ của Nga đã vượt con số 25%. Thứ trưởng tài chính Nga Alexe Ulyukayev
  15. Trang : 14 cũng cho biết dự trữ ngoại tệ bằng đồng EURO của Nga sẽ tiếp tục tăng nhằm đảm bảo sự đa dạng trong dự trữ ngoại tệ. Còn tại Trung Quốc, hiện nay dự trữ ngoại tệ cũng đã có những thay đổi so với trước. Nếu như trước đây dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc chủ yếu bằng đồng USD , thì nay cơ cấu đó là 62% bằng đồng USD, 8% đồng Yên Nhật Bản và 19% bằng đồng EURO, trong thời gian tới Trung Quốc dự tính sẽ tăng dự trữ ngoại tệ bằng đồng EURO lên tới 30 % - 40% trong dự trữ ngoại tệ của mình. Hàn Quốc, Singapore, Malaixia cũng thay đổi tỷ lệ dự trữ ngoại tệ bằng đồng EURO. Đồng EURO ra đời cũng là động lực thúc đẩy cho những khu vực kinh tế hình thành ý tuởng thiết lập đồng tiền chung. Ý tưởng này đã xuất hiện ở nhiều nơi từ Châu Phi đến Châu Á. Một trong những ý tưởng đó hình thành ở các nước Châu Phi khi ngày 22-12-2001, các nhà lãnh đạo các nước tham dự Hội nghị cấp cao ECOWAS đã quyết định lấy từ “ECO” làm tên gọi cho đồng tiền chung sẽ được sử dụng tại 5 nước thuộc khu vực tiền tệ thứ 2 của ECOWAS là : Gambia, Ghana, Guinea, Nigeria, Sierra Leon. Tiếp đến bàn cãi chung quanh việc sử dụng đồng tiền chung giữa Ú́c và NiuZilân khi viện nghiên cứu chính sách Niu Zilân đã mở một điều tra trên 400 công ty tại Niu Zilân cho thấy đại đa số (60%) ủng hộ mạnh mẽ việc sử dụng đồng tiền chung, chỉ có 14% phản đối. Tranh cãi quanh đồng tiền chung của khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ NAFTA. c. Tác động đến quan hệ thương mại toàn cầu Sự xuất hiện của đồng Euro với tư cách là đồng tiền chung của một thực thể kinh tế quan trọng với gần 300 triệu dân, chiếm 19,4% tổng sản phẩm của thế giới và 18,6% thương mại quốc tế, sẽ tăng cường hội nhập và phúc lợi kinh tế của các nứơc thành viên EU và chắc chắn sẽ đem lại những cơ hội cũng như những thử thách mới cho các nước trên thế giới.
  16. Trang : 15 Kết luận chương I. Có thể nói thế giới chúng ta đang chứng kiến một xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá hết sức mạnh mẽ trong lĩnh vực tài chính. Chính xu thế này đã góp phần nâng cao hiệu quả nguồn vốn đầu tư quốc tế bằng cách chuyển chúng đến những nơi hứa hẹn có nhiều lợi nhuận nhất. Sự ra đời của đồng EURO đang được là một đối thủ cạnh tranh đáng gờm của đồng USD. Ảnh hưởng đến vị trí độc tôn của đồng USD trên thị trường thanh toán quốc tế. Do đó, cũng không khó hiểu khi đồng EURO ra đời đã vấp phải nhiều sự phản ứng từ phía Mỹ. Từ lúc ra đời cho đến nay, đồng EURO đang biến động khá phức tạp. Lúc đầu, nó liên tiếp giảm giá trị so với đồng USD nhưng sau đó lại vượt lên mạnh mẽ và vượt qua luôn cả mức quy định ban đầu. Điều này xuất phát từ xu hướng muốn cải thiện cán cân thương mại đang bị thâm hụt lớn của Mỹ bằng cách giảm giá đồng USD để kích thích xuất khẩu cộng với tình hình tăng trưởng chậm chạp và kém ổn định của các nước EU. Nhưng dù sao, với sự ra đời của đồng EURO, bản đồ tài chính quốc tế kể từ đó đang được vẽ lại, hứa hẹn sự sôi động hơn và bình đẳng hơn trong các giao dịch tài chính trên thế giới. Trong tương lai, các đồng tiền đựơc sử dụng quốc tế và được chấp nhận rộng rãi trong thanh toán quốc tế sẽ không còn là sự độc tôn của USD mà ít nhất sẽ có một người đồng hành là EURO.
  17. Trang : 16 CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG KINH TẾ TÀI CHÍNH ASEAN 2.1 Tổng quan về tình hình kinh tế của các quốc gia ASEAN. Tình hình kinh tế năm 2003, Chiến tranh và dịch bệnh khiến cho tình hình trở nên ảm đạm đến mức vào giữa năm nhiều chính phủ trong khu vực phải hạ thấp dự báo mức tăng trưởng. Nhưng rồi những nổ lực mới đã cải thiện tình hình. Tốc độ tăng trưởng khu vực Châu Á Thái Bình Dương ( bao gồm ASEAN và Đông Bắc Á) được coi là nhanh nhất thế giới với 6,1 % vào năm 2003 và đạt đến 6,4% năm 2004 (số liệu cuả Ngân Hàng Thế Giới). Bên cạnh những nổ lực cải thiện môi trường du lịch, từ tháng 10-2003, những dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế Mỹ, Nhật Bản hưá hẹn khả năng tăng cường xuất khẩu cuả nền kinh tế ASEAN, nhờ đó tốc độ tăng trưởng kinh tế có thể thay đổi nhiều . Các chỉ số kinh tế cơ bản đã nêu phản ánh tình hình kinh tế vĩ mô khá lành mạnh cuả nền kinh tế khu vực. Tuy nhiên, Các thành viên ASEAN vẫn tiếp tục thực hiện tích cực tiến trình hợp nhất khu vực , coi đó là việc cấp thiết trước những thách thức toàn cầu hiện nay. Mục tiêu mới bây giờ là tiến tới 2010 xoá bỏ thuế nhập khẩu giữa các thành viên cũ và tới năm 2015 đối với các thành viên mới bao gồm Campuchia, Lào, Myanmar và Việt nam. Thương mại giữa các thành viên ASEAN đã tăng từ 44 tỷ USD năm 1993 lên 87 tỷ USD năm 2001 nhờ giảm thuế theo AFTA. Với những mục tiêu đặt ra như thế, các nước thành viên đang xúc tiến thúc đẩy nhanh quá trình kinh tế, thông qua hàng loạt chính sách kinh tế khu vực như khu vực đầu tư ASEAN (AIA), hợp tác công nghiệp (AICO)…. tạo thuận lợi thu hút đầu tư FDI từ cả các nước ASEAN lẫn ngoài ASEAN. Theo hiệp định AIA , các nước ASEAN cam kết dành ưu đãi huệ quốc cho các nhà đầu tư ASEAN. Thời hạn rút ngắn từ 2020 thành 2010.
  18. Trang : 17 2.2. Thực tiển phát triển khu vực trong giai đoạn hiện nay : Hợp tác ASEAN được thực hiện ở hai phạm vi : hợp tác của từng thành viên trong nội khối và hợp tác của ASEAN với tư cách là một khối độc lập với bên ngoài. Trong đó, phạm vi nội khối quy mô tương đối toàn diện : ngoại giao , kinh tế, an ninh…. 2.2.1 Liên kết và tự do hoá thương mại trong khu vực ASEAN : a. Hiệp định thành lập khu vực tự do thương mại (AFTA) Mặc dù tình trạng chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế giữa các thành viên ASEAN là khá lớn, nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước này trong những năm 1980 đầu những năm 1990 là rất cao và tương đối đồng đều, tạo điều kiện cơ sở thúc đẩy cho các nước ASEAN tăng cường hợp tác kinh tế sâu rộng mà bắt đầu là hiệp định thương mại thuế quan (PTA) tạo cơ chế tự do hoá buôn bán trong khu vực. Tuy nhiên, xu hướng hội nhập khu vực đòi hỏi một cơ chế hợp tác toàn diện hơn giữa các nước ASEAN và từ đó mậu dịch tư do ASEAN (AFTA) ra đời. Hiệp định thành lập khu vực tự do thương mại (AFTA) ký 28/1/1992. Khu mậu dịch tự do ASEAN được xây dựng nhằm mục đích sau : (i)Tăng cường buôn bán nội bộ các nước trong khu vực thông qua việc dỡ bỏ hàng rào; (ii) Thuế quan và phi thuế quan, giảm bớt lệ thuộc thị trường bên ngoài; (iii) Tạo điều kiện thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Đây là mục tiêu chính. (iv) Tăng cường củng cố tiến trình hội nhập kinh tế . Nếu xét về lộ trình hội nhập kinh tế theo chiều dọc, thì AFTA là chiếc cầu nối để các nước thành viên ASEAN tham gia một cách đầy đủ và hiệu quả vào các tổ chức thương mại quốc tế, như diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC), tổ chức thương mại thế giới (WTO). Nếu xét về chính sách kinh tế đối ngoại, đối tác chủ yếu của các nước thành viên trong hiệp hội thì vẫn là hướng vào các nước lớn, các cường quốc kinh tế trên thế giới. Do vậy , mục tiêu chủ yếu của các thành viên không chỉ đơn thuần là AFTA, mà thông qua tổ chức này, tạo ra được những lợi thế mới để tham gia vào nền kinh tế toàn cầu.
  19. Trang : 18 So với EU hoặc NAFTA, thể chế AFTA còn đơn giản và lộ trình thực hiện theo từng bước với những mốc kết thúc của các nước thành viên không đồng nhất. AFTA tạo cho ASEAN một không gian mới, một thị trừơng thống nhất từ đó giúp các nước thành viên tăng khả năng thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, tạo dựng ASEAN thành một cơ sở sản xuất, cạnh tranh hướng ra thị trường thế giới. BẢNG 2.2 : TỶ LỆ ÁP DỤNG CEPT TRUNG BÌNH CÁC NƯỚC ASEAN (%) NƯỚC 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Brunei 1,37 1,55 1,26 1,17 0,96 1,04 Indonesia 7,06 5,36 4,76 4,27 3,69 2,17 Malaysia 3,46 3,2 3,32 2,71 2,62 1,95 Philipines 7,72 7,34 5,18 4,48 4,13 3,82 Singapore 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 Thailand 10,24 9,58 6,12 5,67 4,97 4,63 ASEAN – 6 5,22 4,79 3,64 3,22 2,89 2,39 Cambodia 10,39 10,39 8,89 7,94 Lao 5,00 7,54 7,07 7,08 6,72 5,86 Myanmar 2,39 4,45 4,43 4,57 4,72 4,64 Vietnam 3,95 7,11 7,25 6,75 6,92 6,43 ASEAN – 10 4,91 5,01 4,43 4,11 3,84 3,33 Nguồn : Ban thư ký ASEAN Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khởi phát từ Thái lan (7/1997) lan nhanh nhiều nước khác và đã để lại nhiều hậu quả tới tất cả các nước ASEAN. Làm suy giảm đà tăng trưởng kinh tế khu vực, ảnh hửơng không nhỏ đến thành tựu Kinh tế –
  20. Trang : 19 Xã hội của nhiều nước trong hiệp hội và các hoạt động hợp tác kinh tế ASEAN. Một trong những hậu quả là kim ngạch thương mại nội khối và FDI giảm đáng kể . Chủ trương thực hiện “ các biện pháp táo bạo“ của các nước ASEAN nhằm đẩy mạnh việc thực hiện CEPT/AFTA xuống còn 9 năm (từ 1/93 – 1/2002) đối với nhóm 6 nước ASEAN cũ, còn đối với các thành viên mới sẽ tối đa số dòng thuế có thuế suất 0 – 5% vào 2003 ( Việt nam) 2005 (Lào và Mianma); tăng tối đa số dòng thuế suất 0% vào 2006 đối với Việt nam, 2008 đối với Lào và Mianma. Khi đó, thuế quan trong thương mại nội bộ ASEAN còn trong khoảng 0 – 5%. Đồng thời, các nước thành viên cũng thoả thuận loại bỏ dần các hạn chế về định lựơng và hàng rào phi thuế quan vốn đa dạng đang cản trở nhiều đến tự do hoá thương mại khu vực. b. Hiệp Định Thương Mại Tự Do Song Phương Và Liên Kết Asean (FTA) Sau cuộc khủng hoảng 1997 một xu thế mới xuất hiện trong các nước ASEAN đó là yêu cầu thiết lập hiệp định thương mại tự do (FTA). Sự phát triển mạnh mẽ sôi động của các FTA trong những năm gần đây bắt nguồn từ hàng loạt các nhân tố kinh tế, chính trị và chiến lược. Về những nhân tố kinh tế kỹ thuật, có thể kể ra là: Thứ nhất: Việc hình thành các FTA song phương bắt nguồn từ những khó khăn và bế tắc của các vòng đàm phán đa phương từ Seattle, đến Doha rồi Cacncun. Thứ hai: Những ưu thế mà FTA có được so với đàm phán đa phương được hiện rõ trên nhiều phương diện. Tốc độ của các cuộc đàm phán đa phương thường diễn ra chậm và dễ lâm vào bế tắc do sự tham gia của quá nhiều bên khiến cho các nước không thoả mãn được nhu cầu mở rộng thị trường cũng như gia tăng lợi ích của mình trong các hoạt động thương mại. Trong khi đó, việc các đàm phán và ký kết FTA song phương lại diễn ra theo chiều hướng thuận lợi nhiều hơn với các ưu thế như dễ chọn đối tác, dễ thảo thuận và họ có thể nhìn thấy rõ lợi ích. Thứ ba: Đối với các nước châu Á, cuộc khủng hoảng tài chính 1997 – 1998 đã đặt ra cho các nước những vấn đề phát triển mới nhằm ứng phó với những thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế toàn cầu. Nhật bản và Hàn quốc muốn thực hiện
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2