intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Lao động trí thức nữ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam

Chia sẻ: SuSan Weddy | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:98

28
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, đánh giá thực trạng lao động trí thức nữ ở Việt Nam; đánh giá các chính sách cơ bản thời gian qua đối với lao động nữ nói chung, trí thức nữ nói riêng, từ đó đề xuất các phương hướng và giải pháp cơ bản về chính sách đối với trí thức nữ trong điều kiện mới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Lao động trí thức nữ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ Nguyễn Thị Thanh Hải LAO ĐỘNG TRÍ THỨC NỮ TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM Luận văn ThS. Kinh tế: 60.31.01 Nghd. : PGS.TS. Nguyễn Đình Kháng 1
  2. MỤC LỤC Mở đầu .................................................................................................................. 1 Chƣơng 1. Trí thức nữ- Khái niệm, đặc điểm và vai trò của lao động trí thức nữ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam .... 9 1.1. Lao động trí thức nữ khái niệm và đặc điểm của họ...................................... .9 1.1.1. Khái niệm trí thức- Lao động trí thức nữ .................................................... 9 1.1.2. Đặc điểm của lao động trí thức nữ ............................................................ 13 1.2. Vai trò của lao động trí thức nữ và những nhân tố tác động đến họ ........... 19 1.2.1. Vai trò của lao động trí thức nữ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam ................................................................................... 19 1.2.2. Những nhân tố tác động đến đội ngũ trí thức nữ ...................................... 24 Chƣơng 2. Thực trạng lao động trí thức nữ Việt Nam và những vấn đề đặt ra ........................................................................................................ 33 2.1. Thực trạng lao động trí thức nữ Việt Nam .................................................. 33 2.1.1. Vài nét về sự phát triển đội ngũ trí thức nữ nước ta trong lịch sử ............. 33 2.1.2. Thực trạng lao động trí thức nữ nước ta hiện nay .................................... 38 2.2. Những đóng góp và hạn chế của lao động trí thức nữ Việt Nam ................ 46 2.2.1. Những đóng góp........................................................................................ 46 2.2.2. Những hạn chế của đội ngũ lao động trí thức nữ....................................... 51 2.3. Những vấn đề đặt ra đối với việc phát triển lao động trí thức nữ ................ 54 2.3.1. Nước ta đang chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.... 55 2.3.2. Về nhận thức xã hội với vai trò của phụ nữ và lao động trí thức nữ ........ 56 2.3.3. Về hệ thống chính sách ............................................................................. 61 Chƣơng 3. Phƣơng hƣớng và giải pháp chính sách cơ bản phát triển lao động trí thức nữ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc ................................................................................................... 67 3.1.Phương hướng phát triển lao động trí thức nữ ở nước ta.............................. 67 3.1.1. Bối cảnh phát triển của kinh tế- xã hội ở Việt Nam trong thời gian tới ... 67 3.1.2. Quan điểm, phương hướng xây dựng đội ngũ trí thức nữ ........................ 69 3.2. Một số giải pháp cơ bản phát triển lao động trí thức nữ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ................................................... 71 3.2.1. Tăng cường công tác tuyên truyền trong xã hội về bình đẳng nam - nữ .. 71 3.2.2. Phát triển giáo dục- đào tạo, nâng cao dân trí cho phụ nữ........................ 72
  3. 3.2.3. Chính sách hợp lý trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ trí thức nữ .................................................................................................. 74 3.2.4. Có chính sách phù hợp trong sử dụng nữ trí thức..................................... 78 3.2.5. Cần cải tiến chính sách lương đối với trí thức .......................................... 80 3.2.6. Cần có chính sách tôn vinh phù hợp ......................................................... 82 3.2.7. Tuổi về hưu của trí thức nữ ....................................................................... 83 3.2.8. Tăng cường các chính sách xã hội đối với gia đình ................................. 84 3.2.9. Nâng cao ý chí phấn đấu vươn lên của bản thân nữ trí thức .................... 88 Kết luận ............................................................................................................... 91 Danh mục tài liệu tham khảo ............................................................................ 94 2
  4. BẢNG QUY ƢỚC VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN Công nghiệp hoá, hiện đại hoá: CNH, HĐH Cao đẳng: CĐ Đại học: ĐH Khoa học và công nghệ: KH&CN Giáo dục: GD Giáo dục và đào tạo: GD&ĐT Giáo sư: GS Phó giáo sư: PGS Tiến sĩ: TS Thạc sĩ: ThS Xã hội chủ nghĩa: XHCN Nhà xuất bản: Nxb 3
  5. MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài Ở Việt Nam, trí thức nói chung và trí thức nữ nói riêng là nguồn nhân lực có đóng góp quan trọng vào công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Kinh nghiệm và thực tiễn các nước có nền kinh tế phát triển cao cho thấy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước đòi hỏi phải có một đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, sức sáng tạo lớn, trong đó đội ngũ lao động trí thức nữ đóng vai trò không nhỏ. Có thể nói, đội ngũ trí thức nói chung và trí thức nữ nói riêng có vai trò quan trọng, là lực lượng xung kích, đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH. ở nước ta, để mục tiêu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp và xã hội ta là một xã hội công bằng, văn minh, có sự phát triển bền vững. Do đó, việc đào tạo, bồi dưỡng và phát huy năng lực sáng tạo mọi lực lượng lao động trong xã hội, trong đó có trí thức nữ là một nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định. Trí thức nữ có vị trí quan trọng trong đội ngũ trí thức nói chung không chỉ vì về mặt số lượng, mà còn do những đặc điểm về sinh lý, tâm lý. Chính những đặc điểm tâm - sinh lý này là những lợi thế hoặc yếu thế của nữ giới so với nam giới trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực hoạt động. Đảm bảo tính công bằng về giới là một quan điểm, một yêu cầu quan trọng của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, bên cạnh những chính sách chung, cần thiết phải đi sâu nghiên cứu đối tượng trí thức nữ để đề xuất những giải pháp, chính sách riêng hoặc trong chính sách chung có chú ý đến đặc điểm và điều kiện của trí thức nữ. Có vậy, đội ngũ trí thức nói chung, trí thức nữ nói riêng mới có thể phát triển mạnh về số lượng, nâng cao về chất lượng và phát huy được tiềm năng của mình trong sự nghiệp đổi mới. Từ những lí do trên, đề tài “Lao động trí thức nữ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam” được chọn làm luận văn thạc sỹ này. 4
  6. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến nay đã có nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề phụ nữ và trí thức nữ. Có thể kể ra một số công trình, bài báo tiêu biểu sau: - Phụ nữ Việt Nam trong quá trình đổi mới đất nước, vấn đề lao động, việc làm và hạnh phúc gia đình, gia đình và địa vị người phụ nữ trong xã hội, cách nhìn từ Việt Nam và Hoa Kỳ. Bùi Thị Kim Quỳ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995. - Phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đỗ Thị Thạch, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. - Chính sách đối với nữ trí thức khoa học và công nghệ - đánh giá thực trạng và đề xuất chính sách, giải pháp mới. Đề tài nhánh, do ThS. Nguyễn Đông Hanh chủ nhiêm, thuộc đề tài cấp nhà nước “Đổi mới chính sách đối với trí thức khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Mã số ĐTĐL - 2003/27 (2006). - Thực trạng tham gia của cán bộ giảng dạy nữ vào các hoạt động giảng dạy, nghiên cứu, quản lý trong nhà trường đại học và các giải pháp quản lý nhằm nâng cao vai trò của họ. Đề tài cấp bộ, do ThS. Trần Thị Bạch Mai làm chủ nhiệm, (2001). - Nghiên cứu thực trạng và những giải pháp phát huy tiềm năng đội ngũ nữ trí thức khoa học - công nghệ TP Hồ Chí Minh, do TS. Bùi Thị Minh Hằng làm chủ nhiệm (11/2000); - Cán bộ khoa học nữ với thời kì đổi mới. Thực trạng và một số kiến nghị. Phạm Thị Ngọc Anh. Tạp chí Cộng sản, tháng 10/1995. - Phụ nữ, giới và phát triển. Trần Thị Vân Anh - Lê Ngọc Hùng, Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 1996. - Vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế xã hội và tham gia quản lý đất nước và định hướng đến năm 2000, Trương Mỹ Hoa, Tạp chí Cộng sản, tháng 10/1995. - Một vài điểm về bước tiến của các nhà khoa học nữ trong thời kỳ qua - Mười năm bước tiến bộ của phụ nữ Việt Nam 1985 - 1995, Hoàng Thị Lịch. Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1995. 5
  7. - Từ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nghĩ về một số vấn đề của phong trào giải phóng phụ nữ ngày nay. Phan Văn Các, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1990. - Phụ nữ và khoa học. Dương Thị Duyên. Tạp chí Khoa học và Phụ nữ, tháng 2/1997... Như vậy đã có khá nhiều công trình nghiên cứu và bài viết về phụ nữ nói chung và trí thức nữ nói riêng. Song rõ ràng trong thực tiễn, nhất là trong điều kiện nước ta, bên cạnh những truyền thống tốt đẹp cần được phát huy, vẫn còn có những cách nhìn, cách ứng xử phong kiến nặng nề đối với phụ nữ. Đặc biệt là từ ngày đổi mới đến nay, khi nền kinh tế nước ta chuyển sang kinh tế thị trường, thực hiện CNH, HĐH, đã mang lại nhiều điều kiện mới, thuận lợi hơn đối với trí thức nữ, nhưng cũng lại xuất hiện những bất cập mới. Vì vậy, để các chính sách, giải pháp của Đảng và Nhà nước đối với phụ nữ và trí thức nữ đạt được hiệu quả, việc nghiên cứu thực trạng đội ngũ trí thức nữ, phân tích các điều kiện hiện nay và đề xuất các giải pháp mới phù hợp nhằm phát huy tiềm năng của đội ngũ này, thực hiện tốt hơn công bằng về giới, là công việc cần được tiếp tục. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích của luận văn - Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, đánh giá thực trạng lao động trí thức nữ ở Việt Nam. - Đánh giá các chính sách cơ bản thời gian qua đối với lao động nữ nói chung, trí thức nữ nói riêng, từ đó đề xuất các phương hướng và giải pháp cơ bản về chính sách đối với trí thức nữ trong điều kiện mới. * Nhiệm vụ của luận văn - Phân tích những vấn đề lý luận về trí thức nữ, làm rõ đặc điểm, vai trò của trí thức nữ trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta. - Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng về đội ngũ, về hoạt động của trí thức nữ trong thời gian qua; những ưu điểm và nhược điểm của hệ thống chính sách đối với sự phát triển trí thức nữ trong giai đoạn hiện nay. 6
  8. - Đề xuất phương hướng và các giải pháp chính sách phát triển đội ngũ trí thức nữ trong thời kì CNH, HĐH. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài * Đối tượng nghiên cứu Luận văn lấy hoạt động lao động của trí thức nữ và các chính sách của Đảng, Nhà nước đã ban hành làm đối tượng nghiên cứu. * Phạm vi nghiên cứu Do tình hình số liệu bị hạn chế, nên luận văn chỉ đi sâu phân tích vào hai lĩnh vực là Khoa học - công nghệ và giáo dục - đào tạo. Tuy nhiên, theo Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 1999, số lượng trí thức có trình độ cao ở 2 ngành trên có tỷ lệ lớn nhất trong tổng số các ngành kinh tế (Giáo dục - Đào tạo: TSKH - 42,6%, tiến sĩ - 37,9%, thạc sĩ - 42,9%, cử nhân/kỹ sư - 18,9%; Khoa học - công nghệ: TSKH - 21,1%, tiến sĩ - 17,7%,). Đồng thời, do hai lĩnh vực trên, nhất là giáo dục - đào tạo, số lượng và tỷ lệ lao động nói chung, trong đó trí thức nữ nói riêng khá đông, nên các kết luận rút ra có thể khái quát chung cho trí thức nữ Việt Nam (Theo niên giám thống kê năm 2005, tỷ lệ lao động nữ trong ngành GD&ĐT là 69,5%). Các giải pháp chính sách đưa ra đối với trí thức nữ nói chung là dưới góc độ kinh tế chính trị. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận Luận văn lấy lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam làm cơ sở nghiên cứu. Đồng thời, luận văn sử dụng một cách có lựa chọn những lý luận về giới, về tâm lý, về tổ chức lao động,… của thế giới làm luận cứ trong các phân tích, lý giải của mình. * Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở các phương pháp chung như: Phương pháp biện chứng duy vật, phương pháp trìu tượng hoá, phương pháp phân tích tổng hợp, hệ thống hoá, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp thống kê; phương pháp phỏng vấn sâu một số trí thức nữ. 7
  9. 6. Những đóng góp và ý nghĩa của luận văn * Đóng góp của luận văn - Luận văn góp phần làm rõ thêm những cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển đội ngũ trí thức nữ ở Việt Nam. - Đề xuất những phương hướng và giải pháp chính sách cơ bản thúc đẩy việc phát huy tiềm năng của đội ngũ trí thức nữ, thực hiện tốt hơn công bằng về giới trong quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam. * Ý nghĩa của luận văn - Kết quả luận văn góp thêm cơ sở khoa học cho việc định hướng và đưa ra những kế hoạch phát triển lao động trí thức nữ ở Việt Nam giai đoạn hiện nay. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu các vấn đề về phụ nữ, trí thức nữ, giảng dạy các môn khoa học về nguồn nhân lực trong các trường Đại học và Cao đẳng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương như sau: Chương 1: Trí thức nữ: Khái niệm, đặc điểm và vai trò của họ trong sự nghiệp CNH, HĐH ở Việt Nam Chương 2: Thực trạng đội ngũ trí thức nữ ở Việt Nam hiện nay và những vấn đề về chính sách đối với đội ngũ này. Chương 3: Phương hướng và giải pháp chính sách nhằm phát triển trí thức nữ trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. 8
  10. Chƣơng 1 TRÍ THỨC NỮ - KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA LAO ĐỘNG TRÍ THỨC NỮ TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM 1.1. Lao động trí thức nữ: Khái niệm và đặc điểm của họ 1.1.1. Khái niệm trí thức, lao động trí thức nữ 1.1.1.1. Khái niệm trí thức Có nhiều quan niệm, định nghĩa về trí thức ở nhiều cấp độ khác nhau. Theo từ điển tiếng Việt: “Trí thức: người chuyên làm việc lao động trí óc và có tri thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp của mình”. Trong từ điển tiếng Nga (1991), viết “Trí thức - đó là những người có học vấn và có kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, văn hoá và đang làm nghề lao động trí óc”. Theo đại từ điển bách khoa Xô Viết: “Trí thức là tầng lớp xã hội của những người làm nghề nghiệp, bằng trí óc, chủ yếu là lao động phức tạp, sáng tạo, là phát hiện và phổ biến văn hoá”. Qua các định nghĩa trên có thể thấy định nghĩa thứ ba cho ta cách hiểu rõ hơn trên bình diện xã hội, đó là: Trí thức là một nhóm, một tầng lớp xã hội với những đặc điểm chung như làm nghề nghiệp, bằng trí óc, chủ yếu là lao động phức tạp, họ có chức năng xã hội là sáng tạo, phát hiện, truyền bá, phổ biến văn hoá. Tuy nhiên, ở định nghĩa thứ nhất và thứ hai cũng cho ta cách nhận biết người trí thức, đó là người có học vấn và tri thức chuyên môn cần thiết thuộc lĩnh vực nghề nghiệp của mình. Xét trong cơ cấu xã hội, V.I.Lênin cho rằng trí thức “không hợp thành một giai cấp độc lập về kinh tế, mà là một tầng lớp bao hàm không chỉ các nhà trước tác mà thôi, mà còn bao hàm tất cả những người có học thức, các đại biểu của các nghề tự do nói chung, câc đại biểu của lao động trí óc phức tạp”; và theo ông, trí thức là một “tầng lớp này trong hệ thống phân công lao động xã hội, từ tính chất và nội dung lao động của họ do trình độ học vấn và 9
  11. trình độ chuyên môn quy định. Vị trí ấy và tính chất nội dung ấy làm nên nét nổi bật của người trí thức - người lao động sáng tạo” [22, tr.372]. Ở nước ta, khái niệm trí thức cũng được nhiều người, nhất là các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu quan tâm. Đã có nhiều cách tiếp cận và lý giải khác nhau, song tất cả đều thống nhất ở một số đặc trưng: Người trí thức là khái niệm dùng để chỉ tất cả những người lao động trí óc, có trình độ học vấn, có khả năng sáng tạo và phẩm chất đạo đức cá nhân. Theo Hồ Chí Minh, người tốt nghiệp ĐH, nhưng nếu chỉ thuộc kiến thức sách vở, không biết vận dụng vào thực tế, thì đó chỉ là “trí thức học sách”, “trí thức một nửa”, “chưa phải là trí thức hoàn toàn” [24, tr.235]. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, ở người trí thức không chỉ cần có kiến thức chuyên môn, mà một dấu hiệu cơ bản khác phải có là biết vận dụng sáng tạo những kiến thức đó vào thực tế cuộc sống.. Trên cơ sở quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê nin cũng như quan niệm của một số nhà nghiên cứu ở nước ta về trí thức, có thể đi tới một quan niệm chung về trí thức như sau: Trí thức là một tầng lớp xã hội đặc biệt, có trình độ học vấn cao; trình độ chuyên môn sâu, có phẩm chất; lương tri; lao động trí óc phức tạp; sáng tạo, phổ biến và nghiên cứu ứng dụng tri thức khoa học trong hoạt động thực tiễn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Với khái niệm trí thức này chúng ta có thể nhận biết trí thức trên một số đặc điểm cơ bản sau: Một là, trí thức không phải là một giai cấp mà là một tầng lớp xã hội. Theo V.I.Lênin, khi xã hội phân chia thành giai cấp, cái quyết định cho tính chất giai cấp của các lực lượng xã hội là quan hệ sở hữu. Trong xã hội đó, trí thức không có quan hệ riêng và trực tiếp với sở hữu về tư liệu sản xuất, trí thức “không hợp thành một giai cấp độc lập về kinh tế” mà là tầng lớp xã hội trung gian. Căn cứ vào quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có thể khẳng định rằng, trí thức là một tầng lớp xã hội. 10
  12. Hai là, trí thức là người có trình độ học vấn cao, trình độ chuyên môn sâu. Trình độ học vấn của người trí thức phải được hiểu ở trình độ khoa học cơ bản và trình độ khoa học chuyên ngành. Trình độ học vấn và chuyên môn cao ở mức độ nào để được gọi là trí thức thì tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội và văn hoá của mỗi quốc gia tại mỗi thời điểm lịch sử. Ngày nay, trình độ chuẩn mực về học vấn ở nước ta là bậc CĐ, ĐH trở lên. Tuy nhiên, bằng cấp mới chỉ là tiêu chí ban đầu; bởi vì trong thực tế, không ít người có bằng cấp đó nhưng lại không tham dự vào lao động trí óc phức tạp, không thể hiện được họ có trình độ đó. Cùng với trình độ học vấn cơ bản cao, người trí thức còn phải được trang bị kiến thức sâu về chuyên ngành. Đó là cơ sở, điều kiện cho lao động sáng tạo khoa học của trí thức. Để tham gia vào quá trình lao động sáng tạo khoa học, người trí thức phải đi sâu nghiên cứu chuyên ngành được đào tạo hoặc tham gia nghiên cứu khoa học. Có kiến thức sâu về chuyên ngành thì họ mới có thể sáng tạo ra những sản phẩm đích thực, được xã hội thừa nhận. Ba là, người trí thức chân chính phải là người có đạo đức, lương tâm. Người trí thức chân chính phải là người có đạo đức, phục vụ lợi ích cho toàn dân tộc, luôn đặt lợi ích dân tộc, lợi ích của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân của mình. Người trí thức trong giai đoạn CNH, HĐH đất nước đương nhiên phải là những người sáng tạo ra những thành tựu khoa học - công nghệ (KH - CN), những sản phẩm văn hoá có giá trị đích thực, đóng góp cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bốn là, người trí thức là người lao động trí óc phức tạp và sáng tạo. Đây là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất phân biệt trí thức với bộ phận lao động khác. Lao động trí óc có nhiều dạng khác nhau, từ đơn giản đến phức tạp. Tiêu chí để phân biệt hai dạng thức lao động này là sự hao phí trí lực, hàm lượng chất xám ít hay nhiều trong quá trình lao động. Lao động trí óc giản đơn như những người làm công việc hành chính, sự vụ, nhiệm vụ chủ yếu của họ là làm thông suốt các qui trình hành chính qua công văn, giấy tờ thì sự hao phí năng lượng trí lực không phải là cơ bản. Lao động của người trí thức là sự tìm tòi, khám phá, 11
  13. sáng tạo cái mới, cái tiến bộ đòi hỏi phải tư duy ở mức độ cao, và ở đây, sự hao phí năng lượng thần kinh trung ương là chủ yếu. Lao đông trí óc phức tạp của trí thức là lao động sáng tạo. Sự sáng tạo thường có mầm mống và tích luỹ dần qua giáo dục, đào tạo và nảy sinh trong quá trình nghiên cứu, tìm tòi. Với bốn đặc trưng cơ bản trên guíp chúng ta nhận thức rõ hơn về khái niệm trí thức. Quan niệm đúng và đầy đủ về trí thức sẽ là cơ sở quan trọng cho việc xây dựng, phát triển và phát huy tiềm năng đội ngũ trí thức, nhờ đó, khai thác có hiệu quả tiềm năng này trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Xét theo quan điểm hệ thống, lao động trí thức nữ là một bộ phận hợp thành của trí thức Việt Nam. Với vị thế to lớn của mình, cùng với các bộ phận lao động khác, nếu được hiểu đúng, từ đó có chính sách đào tạo và phát huy tiềm năng, họ sẽ là lực lượng quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 1.1.1.2. Khái niệm về lao động trí thức nữ Trí thức nữ, trước hết họ là trí thức và là bộ phận nằm trong cơ cấu hợp thành của tầng lớp trí thức nước ta. Họ có những đặc trưng cơ bản của người trí thức đã nói ở trên, nhưng đồng thời lao động trí thức nữ có những nét đặc thù riêng phân biệt với những người trí thức, bộ phận trí thức khác. Những nét đặc thù mang tính tự nhiên mà ngày nay khoa học diễn đạt bằng thuật ngữ giới tính (Sexual - Giới tính chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về mặt y - sinh học, liên quan đến chức năng tái sản xuất giống nòi) và những đặc thù mang tính xã hội được diễn đạt bằng thuật ngữ giới (Gender - Giới chỉ mối quan hệ và tương quan giữa địa vị xã hội của phụ nữ và nam giới trong một bối cảnh xã hội). Trong mỗi lao động trí thức nữ có sự gắn bó hữu cơ giữa tư cách trí thức và tư cách nữ. Do đó, để tiếp cận lao động trí thức nữ buộc chúng ta phải tiếp cận đồng thời từ hai phía: Họ là người trí thức đồng thời họ là người phụ nữ. Nếu hiều trí thức nữ chỉ với những đặc trưng người trí thức tuy là đúng nhưng chưa đủ, mà còn phải hiểu họ ở cả tư cách nữ, tức là từ góc độ giới tính. Họ có những đặc thù, những thiên chức giới tính khác với lao động 12
  14. trí thức nam. Xét cả mặt tự nhiên và xã hội, họ có những ưu thế và cũng có những yếu thế so với lao động trí thức nam trong quá trình hoạt động trí tuệ, sáng tạo của mình. Từ những cơ sở phân tích trên, chúng ta có thể hiểu lao động trí thức nữ, trước hết là người lao động trí thức, họ có đằy đủ đăc trưng của người trí thức, là một bộ phận của đội ngũ trí thức tham gia hoạt động lao động trên tất cả các lĩnh vực; đồng thời họ là một bộ phận tiêu biểu của phụ nữ với những phẩm chất của người phụ nữ như tinh thần cần cù, chịu khó, nhân hậu, đảm đang… và thiên chức làm vợ, làm mẹ. Như vậy, có thể quan niệm lao động trí thức nữ là những người phụ nữ có học vấn, có trình độ chuyên môn từ CĐ, ĐH trở lên, làm việc trong các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, thực hiện các chức năng của người trí thức nhằm phát triển kinh tế - xã hội. 1.1.2. Đặc điểm của lao động trí thức nữ 1.1.2.1. Đặc điểm của lao động trí thức Như đã phân tích trong phần khái niệm trí thức nữ, là một bộ phận của tầng lớp trí thức nên lao động trí thức nữ cũng có những đặc điểm cơ bản của lao động của trí thức nói chung. Vì vậy để hiểu được lao động trí thức nữ, ta cần hiểu đặc điểm của lao động của trí thức là như thế nào. Từ định nghĩa về người trí thức và thông qua tổng kết thực tiễn lao động của các nhà khoa học, người ta đưa ra những đặc điểm lao động khoa học nỏi riêng hay lao động của người trí thức nói chung so với những người lao động khác là ở các điểm: Tính sáng tạo, tính cá nhân, rủi ro cao, đòi hỏi sự tích luỹ lớn về kiến thức và môi trường thực sự dân chủ, tự do sáng tạo [36, tr.141-142]. Sau đây sẽ nói rõ hơn một số đặc điểm lao động của người trí thức. a) Tính sáng tạo Khác với người lao động trong lĩnh vực sản xuất, dựa vào thiết kế có sẵn và nắm bắt quy trình để thực hiện, người làm công tác nghiên cứu cũng 13
  15. như nhà văn, nhạc sĩ, tác phẩm là công trình của lao động, nhưng không chỉ là lao động cần mẫn mà là lao động đầy trí tuệ. Riêng với lao động sáng tạo khoa học không phải là một quá trình tùy tiện, mà được tiến hành theo một hệ thống các nguyên tắc và phương pháp nhất định. Các nguyên tắc và phương pháp đó đóng vai trò là phương tiện và công cụ để xử lý và lý giải các hiện tượng, các quy luật vận động của đối tượng nghiên cứu. Sáng tạo khoa học là một quá trình lao động gian khổ, đòi hỏi phải có kiến thức hệ thống và thế giới quan biện chứng để sử lý dữ liệu, sự kiện. Như vậy đối với người làm nghiên cứu khoa học phải có kiến thức hệ thống về một lĩnh vực đang nghiên cứu, đồng thời phải nắm vững hệ thống các phương pháp nghiên cứu với một thế giới quan biện chứng. Sự sáng tạo không phải ai cũng có và không phải xuất hiện bất kỳ lúc nào. Sự sáng tạo khoa học thường có mầm mống và tích luỹ dần qua giáo dục, đào tạo và nảy sinh trong quá trình nghiên cứu, tìm tòi. Mức độ trang bị kiến thức, môi trường hoạt động, điều kiện sống cũng như các quan hệ xã hội, tuổi tác,... là những yếu tố tác động mạnh đến lao động sáng tạo của những người làm nghiên cứu khoa học. b) Tính cá nhân Cũng chính từ tính sáng tạo, vai trò cá nhân, phẩm chất cá nhân của mỗi nhà khoa học, nhà văn,... nổi lên rõ rệt. Trong hoạt động nghiên cứu, không thể lấy số lượng để bù đắp cho sự yếu kém về chất lượng cán bộ. Để có hiệu suất cao trong hoạt động nghiên cứu, cần có sự chọn lọc kỹ để có được những người thực sự có khả năng nghiên cứu khoa học. Một tổ chức nghiên cứu, dù có đông đảo đến mấy nhưng thiếu những người có những suy nghĩ độc đáo, thông minh và sáng tạo, những người thực sự có tài năng, sáng tạo mạnh mẽ thì cũng không thể thành công trong hoạt động của mình. Do đó, dù là một công trình nghiên cứu khoa học do một tập thể tiến hành thì vai trò cá nhân trong hoạt động nghiên cứu cũng mang yếu tố quyết định. Tính cá nhân là sự thể hiện trong tư duy cá nhân và chủ kiến riêng của cá nhân.Tư duy và chủ kiến cá nhân thường gắn chặt với tính cách sáng tạo đơn nhất thể hiện ở các mặt: (1). Suy nghĩ độc lập. Đây là cơ sở của những nghi vấn khoa 14
  16. học và là nguồn gốc của những phát minh sáng chế; (2). Sự tìm tòi, ham hiểu biết và đam mê nghề nghiệp; (3). Tính cách thực nghiệm và phê phán nhằm để khẳng định những sáng tạo của cá nhân; (4). Dũng cảm, không sợ uy quyền, dù là uy quyền chính trị hay khoa học để phát hiện và bảo vệ chân lý. Tính cá nhân trong lao động sáng tạo không có nghĩa là vị kỷ cá nhân, mà là khả năng độc lập và tự chủ trong khám phá, sáng tạo mang đậm nét cá tính và năng lực của cá nhân nhà khoa học. Tuỳ theo trình độ học vấn, tư chất di truyền, thể lực và môi trường xã hội mà cá tính và năng lực cá nhân hình thành và phát huy khác nhau. Chính nhờ “Tính cá nhân” mà các trường phái khoa học hình thành và phát triển. c) Tính rủi ro Sản phẩm của lao động nghiên cứu của những nhà khoa học là cái mới, cái chưa biết, do đó mà cũng có thể thành công và cũng có thể thất bại. Sự thất bại thường gặp nhiều trong nghiên cứu khoa học. Sự thất bại này do rất nhiều nguyên nhân như do thiếu thông tin cần thiết và đủ tin cậy cho việc nghiên cứu; do trình độ kỹ thuật của thiết bị phục vụ nghiên cứu chưa đạt tới trình độ để kiếm chứng lý thuyết, giả thuyết đặt ra; do khả năng thực hịên của người nghiên cứu chưa đủ tầm để xử lý vấn đề; do môi trường xã hội không thuận lợi (thiếu dân chủ để khích lệ người nghiên cứu sáng tạo, do yếu tố văn hoá cản trở,...). Tuy nhiên, trong lao động khoa học, thất bại ở một khía cạnh khác cũng được xem là một kết quả. Nó là một bài học và kinh nghiệm cho người nghiên cứu tiếp tục về sau. Tính rủi ro cao đặt ra cho các nhà quản lý, nhất là các cơ quan nhà nước phải có chính sách đầu tư và hỗ trợ đối với những nghiên cứu có tính rủi ro cao nhưng cần thiết đối với sự phát triển, đặc biệt đối với các nghiên cứu cơ bản. Vai trò của nhà nước, trước hết là Chính phủ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong trường hợp này - nơi mà “thị trường bị thất bại”. d) Tính kế thừa và tích luỹ Nói chung, lao động sáng tạo thường xuất phát từ sự kế thừa những kết quả của những người đi trước. Mặt khác, để lao động sáng tạo, người nghiên cứu phải trải qua thời kỳ thu thập và tích luỹ một lượng thông tin liên quan 15
  17. nhất định. Trên cơ sở đó, bằng hệ thống các phương pháp khoa học, những ý tưởng, giả thuyết,... mới được khẳng định hoặc phủ định. Vì vậy, kế thừa và tích luỹ là một giai đoạn mang tính tất yếu. Trong giai đoạn này, người nghiên cứu phải lao động cần cù, gian khổ. Đồng thời, qua kinh nghiệm thực tế, người ta thấy rằng hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học phụ thuộc vào một cách đáng kể vào thông tin, vào các công cụ thí nghiệm và các công cụ nghiên cứu khác. Trong điều kiện khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ như hiện nay, đồng thời do việc tăng nhanh các nhu cầu của kinh tế - xã hội, một phần kiến thức của con người sẽ thường xuyên mất giá trị. Các chuyên gia cho rằng nhịp độ tiến bộ trung bình hằng năm của kiến thức nhân loại là trong khoảng từ 4% đến 6%. Do vậy, trên 50% kiến thức chuyên môn của con người sẽ phải được bổ sung thông qua con đường học tập thường xuyên, Thời gian dành cho việc này ở cán bộ trung cấp chuyên nghiệp là 24%; ở cán bộ ĐH là 28% toàn bộ thời gian có khả năng lao động [42]. Như vậy, việc tạo các điều kiện học tập, thu thập và trao đổi thông tin trong các tập thể khoa học là vô cùng quan trọng đối với nhà nghiên cứu, không những chỉ ở những thời gian nhất định mà phải liên tục, không ngừng. 1.1.2.2. Những đặc điểm giới tính và giới của lao động trí thức nữ Các kết quả nghiên cứu y - sinh học [40, tr.15] cho thấy: * Đặc điểm về cơ thể: Chân và tay của nữ tương đối ngắn hơn nam, xương và khớp chi nhỏ hơn nam, tổ chức cơ bắp ở chân tay của nữ kém hơn nam, phổi của nam lớn gấp rưỡi phổi nữ, mỗi phút tim của nữ đập trung bình 80 lần/phút, tim của nam đập 72 lần/phút; nữ trung bình có 3,6 lít máu, nam 4,5 lít máu; 40% cơ thể nam do cơ bắp tạo nên, trong khi nữ là 35%, sức mạnh cơ bắp của nam gấp 3 lần nữ… Qua một vài đặc điểm trên cho thấy, nữ không thể làm những công việc đòi hỏi thể lực ngang bằng như nam giới. Cần tránh cho nữ những lao động nặng nhọc, căng thẳng, kéo dài, nguy hiểm, trong môi trường độc hại… * Đặc điểm não bộ và giác quan: Bộ não của nam giới nặng hơn nữ 14%. Những sự liên kết giữa 2 bán cầu não của nữ tốt hơn nam và tình trạng 16
  18. cung cấp máu cho não của nữ tốt hơn nam. Thính giác, khứu giác của nữ tốt hơn nam. Gần đây các nhà khoa học Mỹ còn phát hiện thêm: Chất xám trong não của nam gấp 6 lần não của nữ, ngược lại chất trắng trong não nữ lại gấp 10 lần nam, mà chất xám là cơ sở chủ yếu cho các trung tâm phân tích, còn chất trắng có chức năng trội về liên kết các hoạt động thần kinh… Những đặc điểm nêu trên cùng với những trắc nghiệm, cho thấy: nam có khả năng làm việc tập trung chú ý cao độ vào đối tượng lâu bền hơn nữ; nhưng nữ có khả năng phân phối chú ý cùng lúc đến nhiều đối tượng tốt hơn; nam hoạt động phân tích trội hơn nữ, nhưng nữ có khả năng phối hợp các hoạt động linh hoạt hơn; nữ nhạy cảm hơn nam, nhất là về thính giác, khứu giác; còn thị giác thì nam nhìn vật ở xa tốt hơn, trong khi nữ nhìn các vật ở gần và nhỏ tốt hơn… Từ đó gợi ra rất nhiều điều có thể vận dụng vào bố trí công việc cho lao động trí thức nữ phù hợp với đặc điểm giới tính, phát huy được thế mạnh của mỗi giới trong các ngành nghề khác nhau. * Đặc điểm về hoạt động tâm lý: Ở trên đã đề cập một vài khía cạnh liên quan giữa đặc điểm thần kinh và tâm lý. Ở đây muốn nêu thêm vài điểm: Tư duy logic ở nam có phần nổi trội hơn nữ, vì nữ tư duy gắn liền với linh cảm và cảm xúc. Richard Hier, giáo sư Trường Đại học tổng hợp California đã tiến hành chụp ảnh cộng hưởng từ và phân tích cho thấy: nam suy nghĩ bằng tế bào xám nhiều hơn nữ, trong khi ở nữ các vùng não đảm trách sự lo sợ và tức giận phát triển hơn nam. Có lẽ vì thế trong quá trình tư duy, nữ thường “trộn lẫn” cảm xúc, tâm trạng và những linh cảm trực giác vào những suy nghĩ, ý kiến của mình… chứ không quá lý lẽ sách vở, khô khan, lạnh lùng như nam giới. Cũng vì thế nữ dễ cảm thông, xử lí các mối quan hệ có lí, có tình, dễ tạo mối quan hệ tình cảm với những người chung quanh… Đặc điểm trội về phát triển ngôn ngữ và hormone giao tiếp ở nữ so với nam cũng khiến cho nữ thường thích giao tiếp, linh hoạt trong giao tiếp, sử dụng ngôn ngữ phong phú, đa dạng trong giao tiếp và hay nói nhanh, nói nhiều, nói dài (Trong nghiên cứu đã dẫn của các nhà khoa học Mỹ cho thấy: nữ thường mất trung bình 20 phút cho một cuộc điện thoại, trong khi đó nam 17
  19. mất 6 phút). Cũng do đó việc học ngoại ngữ, phát triển kỹ năng giao tiếp ở nữ có phần thuận lợi hơn nam… Những đặc điểm giới tính nữ nói trên và nhiều đặc điểm khác nữa, nếu được nghiên cứu khai thác đúng người, đúng việc, đúng chỗ, đúng lúc, chắc chắn sẽ phát huy được những tiềm năng, lợi thế nữ tính một cách hiệu quả. * Những đặc điểm về giới do điều kiện xã hội - lịch sử chế ước cũng cần được quan tâm. Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách thúc đẩy sự bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ, nhưng vẫn còn nhiều sức ì, nhiều sự cản trở từ phía gia đình, xã hội và bản thân người phụ nữ trong quá trình thực thi bình đẳng giới nói chung và trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho lao động trí thức nữ nói riêng. Dưới dây đề cập đến một vài khía cạnh cụ thể: Gia đình có thể là hậu phương thuận lợi, nhưng cũng có thể là những khó khăn cản trở đối với lao động của trí thức nữ. Nữ trí thức cũng như mọi phụ nữ khác, đều có hạnh phúc làm vợ, làm mẹ. Và cái hạnh phúc đó ràng buộc, níu kéo, tiêu tốn của người phụ nữ rất nhiều thời gian và sức lực. Ở Việt Nam càng đòi hỏi người phụ nữ phải hy sinh nhiều hơn cho cuộc sống gia đình, do điều kiện sống còn nhiều khó khăn và do áp lực của các giá trị văn hoá về người “con thảo”, người “mẹ hiền”, “vợ đảm”, “phụ nữ ba đảm đang”… Dư luận xã hội là một áp lực lớn đối với người phụ nữ vốn nhạy cảm. Trong khi đó một số lĩnh vực như lao động KH&CN là loại lao động trí óc, phức tạp, có chuyên môn sâu, đòi hỏi phải tập trung cao độ vào đối tượng, phải say mê theo đuổi công việc đến cùng… Người phụ nữ phải thực hiện chức năng kép, phải giăng co đấu tranh, sắp xếp sao cho vẹn cả đôi đường: gia đình và sự nghiệp. Theo nghiên cứu của Trần Thị Bạch Mai thì nữ giảng viên ĐH, trung bình dành cho công việc gia đình 4,5 giờ, dành cho công việc của trường 9,2 giờ và cho nghỉ ngơi, giải trí 6,4 giờ/ngày; 54% số nữ giảng viên cảm thấy sức ép căng thẳng về thời gian, 55% cảm thấy sức ép căng thẳng do phải cân bằng các vai trò và trách nhiệm… [ 25, tr.43] Một nhận xét khác cho thấy: “Ở những giai đoạn bắt đầu vào sự nghiệp khoa học người phụ nữ trẻ phải học tập và chịu nhiều thử thách, thì 18
  20. cũng lại là lúc có con nhỏ và cuộc sống gia đình mới bắt đầu. Đây là giai đoạn mà nhiều chị em nổi lên mâu thuẫn giữa sự nghiệp và gia đình, điều mà ở nam giới ít gặp phải”. Những định kiến xã hội về giới đã dẫn đến những hệ quả sau: Một là, xã hội chưa thấy hết và dánh giá đúng những khó khăn của nữ trí thức; hai là, đánh giá chưa đúng mức vai trò và khả năng của nữ trí thức; ba là, về tổ chức, mạng lưới quan hệ xã hội cũng như những điều kiện hỗ trợ khác chưa tạo thuận lợi cho nữ trí thức phát triển và cống hiến… Những thành kiến xã hội nói trên một khi đã trở thành nếp nghĩ, thói quen ứng xử của xã hội, nhất là khi các cấp quản lí, các nhà hoạch định chính sách, những người đưa ra các quyết định, phần lớn là nam giới, thì sự cảm thông, tạo điều kiện cho nữ trí thức phát triển, không tránh khỏi có những khó khăn hữu hình và vô hình. Về phía bản thân người nữ trí thức. Do quá trình xã hội hoá đã có những hạn chế và do những ràng buộc về vai trò, trách nhiệm nghĩa vụ với gia đình và do những định kiến xã hội bị chế ước bởi những điều kiện xã hội - lịch sử cụ thể, người phụ nữ thường gặp phải những rào cản tâm lí nhất định. Đó là mặc cảm tự ti, thiếu tự tin vào bản thân; là sự lo ngại bị thất bại, thậm chí sợ hãi trước dư luận xã hội; đó còn là sự an phận, bằng lòng với vai trò, vị trí “nhân vật phụ” trong các hoạt động phức tạp như KH&CN… 1.2.Vai trò của lao động trí thức nữ và những nhân tố tác động đến họ 1.2.1.Vai trò của lao động trí thức nữ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam Chiến lược phát triển của nước ta đã được xác định trong các văn bản của Đảng và Nhà nước là đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, để từ nay đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Với khoảng thời gian 20 năm để thực hiện một công cuộc mà các nước tư bản phải mất hàng trăm năm, các nước công nghiệp mới (NIC) cũng phải mất 40 - 50 năm, đòi hỏi một sự nỗ lực phi thường của toàn dân tộc, trong đó đội ngũ trí thức có sứ mạng đặc biệt quan trọng. 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
40=>1