intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tỷ giá và tác động của tỷ giá đến cán cân thương mại của Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:88

38
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu tác động của tỷ giá lên cán cân thương mại, từ đó nghiên cứu khả năng có thể vận dụng chính sách tỷ giá nhằm gia tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu trong nước hay không? Kết quả sau khi phân tích sẽ cho ta thấy tầm quan trọng của chính sách điều hành tỷ giá ảnh hưởng như thế nào đến tình hình cán cân thương mại, ổn định kinh tế vĩ mô, hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tỷ giá và tác động của tỷ giá đến cán cân thương mại của Việt Nam

  1. 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM  NHÂM THỊ TUYẾT HẠNH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ ĐẾN CÁN CÂN THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP. HCM - Năm 2011
  2. 2 Bộ Giáo Dục và Đào Tạo Trường Đại học Kinh tế Tp. HCM  NHÂM THỊ TUYẾT HẠNH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ ĐẾN CÁN CÂN THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Ngành : Kinh tế Tài chính – Ngân Hàng Mã số : 60.31.12 Người Hướng Dẫn Khoa Học TS. LÊ THỊ KHOA NGUYÊN TP. HCM - Năm 2011
  3. 3 PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Trong một nền kinh tế mở, tỷ giá hối đoái là một biến số có vai trò quan trọng và việc hoạch định chính sách tỷ giá là một trong những trọng tâm của nhiệm vụ điều hành kinh tế vĩ mô của chính phủ các nước nhằm giảm thiểu tác động của những cú sốc do biến động kinh tế khách quan từ nền kinh tế thế giới trong quá trình hội nhập. Nền kinh tế Việt Nam từ khi gia nhập WTO cuối năm 2006 đến nay đang dần gỡ bỏ những rào cản thương mại cho phù hợp với điều kiện gia nhập WTO, cơ chế điều hành tỷ giá cũng phải phù hợp với thực trạng của nền kinh tế nhưng vẫn đảm bảo được các mục tiêu vĩ mô của Chính Phủ. Cơ chế và những chính sách điều hành tỷ giá là một nhân tố quan trọng tác động trực tiếp lên cán cân thương mại của Việt Nam. Phải công nhận rằng cơ chế điều hành và chính sách tỷ giá thời gian gần đây càng linh hoạt và theo sát với tình hình kinh tế trong và ngoài nước và đã đạt được nhiều thành công rất đáng khích lệ, đăc biệt những tác động tích cực của tỷ giá lên cán cân thương mại. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đạt được, Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong cạnh tranh thương mại cũng như luôn phải đối diện với căn bệnh “nhập siêu”. Đã có nhiều tranh luận đề cập về nguyên nhân trong đó có đề cập đến nguyên nhân là do chính sách tỷ giá chưa thật sự hợp lý. Chính vì vậy, với đề tài “Tỷ giá và tác động của tỷ giá đến cán cân thương mại Việt Nam” sẽ phản ánh rõ hơn tác động của tỷ giá hối đoái và mối tương quan giữa tỷ giá hối đoái vá cán cân thương mại như thế nào, từ đó đề xuất về chính sách tỷ giá nhằm cải thiện cán cân thương mại. 2. MỤC ĐÍCH VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN: a. Mục đích: Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu tác động của tỷ giá lên cán cân thương mại, từ đó nghiên cứu khả năng có thể vận dụng chính sách tỷ giá nhằm
  4. 4 gia tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu trong nước hay không? Kết quả sau khi phân tích sẽ cho ta thấy tầm quan trọng của chính sách điều hành tỷ giá ảnh hưởng như thế nào đến tình hình cán cân thương mại, ổn định kinh tế vĩ mô, hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam. b. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu những biến động của tỷ giá và thực trạng cán cân thương mại trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2010, trong đó phân tích sự biến động của tỷ giá và tác động của tỷ giá đến cán cân thương, phản ánh cơ chế, chính sách điều hành tỷ giá của Việt Nam trong quá khứ và hiện tại từ đó nêu lên một số gợi ý có thể định hướng cho chính sách điều hành tỷ giá hối đoái và với hy vọng chính sách điều hành tỷ giá hối đoái đúng đắn sẽ cải thiện được tình trạng thâm hụt cán cân thương mại và là đòn bẩy giúp nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng vững mạnh. Ngoài ra đề tài còn nêu lên một số ý kiến của chuyên gia, những quan điểm khác nhau về cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái của Việt Nam trong bối cảnh kinh tế hiện nay. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Đề tài vận dụng tổng hợp các phương pháp thống kê, hồi qui, so sánh, đối chiếu … với số liệu chủ yếu từ thống kê của IMF, tổng cục thống kê, Bộ thương mạivà Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam; đồng thời kết hợp các học thuyết kinh tế hiện đại, sử dụng mô hình nguyên bản của Rose and Yellen, được Bahmami Oskooee và Brooks phát triển: TBt =f(RERt ,DYt ,FYt) và kiểm định trên phần mềm Eview 6; vận dụng kinh nghiệm về điều hành chính sách tỷ giá ở các nước trên thế giới (chủ yếu là các nước đang phát triển). Kết hợp những kinh nghiệm này với đặc thù của nền kinh tế Việt Nam, lấy mối liên hệ giữa lý thuyết và thực tiễn làm phương pháp chủ đạo để phân tích.
  5. 5 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN: a. Đối tượng: Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là những biến động của tỷ giá và tình hình xuất nhập khẩu, từ đó phân tích tác động giữa tỷ giá hối đoái đến cán cân thương mại Việt Nam b. Ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở phân tích tác động của tỷ giá đến cán cân thương mại cho thấy thách thức về điều hành chính sách tỷ giá trong giai đoạn hiện nay ngày càng được quan tâm hơn trong bối cảnh nền kinh tế đã thực sự hội nhập vào đời sống kinh tế toàn cầu. 5. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN: Luận văn gồm có 4 chương: Chương 1: Tổng quan về tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại Chương 2: Thực trạng điều hành chính sách tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại ở Việt Nam Chương 3: Kiểm định mối quan hệ của tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại ở Việt Nam. Chương 4: Đề xuất các chính sách liên quan đến tỷ giá và cán cân thương mại ở Việt Nam
  6. 6 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI 1.1. Các quan điểm truyền thống về tỷ giá và cán cân thương mại: 1.1.1. Tỷ giá hối đoái và các loại tỷ giá: Đã từ lâu việc trao đổi, mua bán không chỉ giới hạn trong phạm vi một nước mà có sự tham gia của nhiều quốc gia khác nhau. Khi đó các quan hệ thanh toán, tín dụng trong giao dịch ngoại thương giữa các bên đòi hỏi phải sử dụng đơn vị tiền tệ của một trong hai nước nhưng cũng có thể là đồng tiền của một nước thứ ba. Muốn thực hiện việc chuyển đổi đó phải dựa vào một mức qui đổi xác định, hay nói các khác là phải dựa vào tỷ giá hối đoái. Theo quan điểm truyền thống, tỷ giá hối đoái là tỷ lệ so sánh ngang giá sức mua (ngang giá vàng) giữa đồng tiền hai nước. Theo quan điểm kinh tế hiện đại, “ tỷ giá hối đoái là sự so sánh mối tương quan giá trị giữa hai đồng tiền hay đó là giá chuyển đổi của đồng tiền nước này trong quan hệ so sánh với đồng tiền nước khác”. Ở Việt Nam, theo khoản 10 điều 3 của Pháp lệnh ngoại hối (nghị định 160/2006/NĐ-CP ngày 18/12/2006 của Chính Phủ) có định nghĩa: “ Tỷ giá hối đoái của Việt Nam là giá của một đơn vị tiền tệ nước ngoài tính bằng đơn vị tiền tệ của Việt Nam”. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa và tỷ giá hối đoái thực: Tỷ giá là một biến số kinh tế tác động đến hầu hết các mặt hoạt động của nền kinh tế nhưng hiệu quả ảnh hưởng của tỷ giá lên các hoạt động lại rất khác nhau. Trong đó tác động của tỷ giá lên hoạt động xuất nhập khẩu và sức mạnh cạnh tranh thương mại là rõ ràng và nhanh chóng. Đồng thời thặng dư hay thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai có ý nghĩa quan trọng vì tình trạng cán cân tài khoản vãng lai luôn là một bộ phận không thể thiếu được trong phân tích kinh tế vĩ mô đối với nền kinh tế mở. Vì vậy trong điều kiện hiện nay, các quốc gia luôn sử dụng tỷ giá như là một công cụ hữu hiệu nhằm tác động tích cực đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa dịch vụ.
  7. 7 - Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (Nominal Exchange Rate): là tương quan giữa giá cả của hai đồng tiền. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là giá cả của một đồng tiền được biểu thị qua một đồng tiền khác mà không đề cập đến tương quan sức mua hàng hóa và dịch vụ giữa chúng. Tùy theo phương pháp niêm yết giá của từng quốc gia, tỷ giá danh nghĩa được tính như sau: Cách yết giá gián tiếp Các yết giá trực tiếp Một đơn vị nội tệ đổi lấy bao nhiêu Một đơn vị ngoại tệ đổi lấy bao nhiêu ngoại tệ nội tệ Tỷ giá hối đoái danh nghĩa song phương: là giá cả của một đồng tiền so với một đồng tiền khác mà chưa đề cập đến chênh lệch lạm phát giữa hai nước. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa đa phương (NEER - Nominal Effective Exchange Rate): NEER không phải là tỷ giá, nó chỉ là một chỉ số được tính bằng cách chọn ra một số loại ngoại tệ đặc trưng (rổ tiền tệ) và tính giá trung bình các tỷ giá danh nghĩa của các đồng tiền có tham gia rổ tiền tệ với tỷ trọng tương ứng. Tỷ trọng của tỷ giá song phương có thể lấy tỷ trọng thương mại của các nước có đồng nội tệ đem tính NEER so với các nước có đồng tiền trong rổ tiền tệ được chọn. - Tỷ giá hối đoái thực (Real Exchange Rate) Khi phân tích tác động của tỷ giá cần phải đề cập đến yếu tố tỷ giá thực vì đây là biến số thực có tác động cực kỳ quan trọng đến nền kinh tế. Tỷ giá thực tăng hay giảm đồng nghĩa với sự gia tăng hay suy giảm sức cạnh tranh thương mại, do đó tỷ giá hối đoái thực là một phạm trù kinh tế đặc thù và rất cần thiết được phân tích Tỷ giá hối đoái thực là tương quan giữa giá cả hàng hóa mậu dịch và giá cả của hàng hóa phi mậu dịch, điều chỉnh bởi tương quan giá cả trong nước và giá cả ngoài nước. Khi tỷ giá danh nghĩa tăng hay giảm không có nghĩa là gia tăng hay sụt giảm sức cạnh tranh thương mại quốc tế, nhưng tỷ giá hối đoái thực đại diện cho khả năng cạnh tranh quốc tế của một quốc gia.
  8. 8 Theo IMF, tỷ giá thực được định nghĩa là tỷ giá hối đoái được xác định dựa trên cơ sở tỷ giá danh nghĩa đã được điều chỉnh bởi tỷ lệ lạm phát trong nuớc và nước ngoài, do đó nó phản ánh tương quan sức mua giữa nội tệ và ngoại tệ Tỷ giá hối đoái thực có thể được xác lập trong mối quan hệ với một đối tác thương mại hoặc dựa trên trung bình cho tất cả các đối tác thương mại. Trong trường hợp so sánh giữa hai nước, tỷ giá hối đoái thực được gọi là tỷ giá hối đoái thực song phương (BRER), là tỷ giá hối đoái danh nghĩa được điều chỉnh theo mức chênh lệch lạm phát giữa hai nước. Trong trường hợp thứ hai gọi là tỷ giá hối đoái thực đa phương (MEER) hay còn gọi là tỷ giá hối đoái thực hiệu lực (REER) và được tính toán trên cơ sở trung bình có trọng số với các đối tác mà quốc gia chủ nhà có quan hệ thương mại. Tỷ giá thực đa phương là một chỉ số phản ánh mức độ cạnh tranh về giá cả của quốc gia và là cơ sở đề đánh giá đồng tiền nội tệ bị đánh giá cao hay thấp. Chỉ số này rất hữu ích cho việc đạt được mục tiêu thích hợp trong cơ chế tỷ giá hỗn hợp giữa linh hoạt và cố định. Vì vậy, nó được nhìn nhận như là cơ sở dữ liệu cơ bản trong quá trình thực thi chính sách. Tỷ giá thực đa phương được tính toán để định ra giá trị thực của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ (rổ ngoại tệ). Bằng cách điều chỉnh tỷ giá theo chênh lệch lạm phát quốc nội so với lạm phát các đối tác thương mại, ta sẽ có tỷ giá thực song phương với từng đồng ngoại tệ. Sau đó xác định quyền số (mức độ ảnh hưởng đối với tỷ giá thực thông qua tỷ trọng thương mại của từng đối tác với quốc gia có đồng tiền tính REER). Khi REER lớn hơn 100, đồng nội tệ bị định giá thấp, ngược lại REER nhỏ hơn 100 đồng nội tệ bị định giá cao. RERR bằng 100 đồng nội tệ ngang giá sức mua so với “rổ tiền tệ”. Các tính được tóm tắt trong bảng sau: Tỷ giá thực Cách yết giá gián tiếp Các yết giá trực tiếp BRER = NER1 x CIP/CIP* = NER2 x CIP*/CIP MEER (REER) = ∑ BRERi x Wi = ∑ BRERi x Wi
  9. 9 Trong đó: NER1: tỷ giá hối đoái danh nghĩa, trong trường hợp yết giá gián tiếp NER2: tỷ giá hối đoái danh nghĩa, trong trường hợp yết giá trực tiếp CIP: giá trong nước CIP*: giá nước ngoài BRERi: tỷ giá hối đoái thực song phương với nước i với nước đang xét. MEER : tỷ giá hối đoái thực đa phương (còn gọi là tỷ giá thực có hiệu lực REER) Wi: tỷ trọng thương mại của nước i trong tổng giá trị thương mại của nước đang xét 1.1.2. Cán cân thương mại và các nhân tố tác động đến cán cân thương mại: 1.1.2.1. Khái niệm: Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng. Khi mức chênh lệch lớn hơn 0 thì cán cân thương mại có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0 thì cán cân thương mại có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng. 1.1.2.2. Các nhân tố tác động đến cán cân thương mại: Cán cân thương mại cùng với cán cân dịch vu, cán cân thu nhập và chuyển giao vãng lai một chiều là các bộ phận của cán cân tài khoản vãng lai, trong đó cán cân thương mại là thành phần chủ yếu, do đó các yếu tố tác động động đến cán cân tài khoản vãng lai cũng sẽ tác động trực tiếp lên cán cân thương mại. Khi phân tích các yếu tố tác động đến cán cân thương mại, chúng ta dựa trên nguyên tắc Cetaris parribus, nghĩa là khi nghiên cứu tác động của một nhân tố thì ta cố định các nhân tố khác. Do cán cân thương mại của một quốc gia có thể ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế của quốc gia đó, nên việc xác định các yếu tố ảnh
  10. 10 hưởng đến cán cân thương mại mại là rất quan trọng. Các yếu tố tác động và ảnh hưởng nhiều nhất là: lạm phát, thu nhập quốc dân, tỷ giá hối đoái và các biện pháp hạn chế của chính phủ…. - Ảnh hưởng của lạm phát : Nếu một quốc gia có lạm phát tăng so với quốc gia khác có quan hệ mậu dịch thì cán cân thương mại của quốc gia này sẽ giảm nếu các yếu tố khác bằng nhau. Bởi vì người tiêu dùng và các doanh nghiệp trong nước hầu như sẽ mua hàng nhiều hơn từ nước ngoài (do lạm phát trong nước cao), trong khi xuất khẩu sang nước khác sẽ sụt giảm. - Ảnh hưởng của thu nhập quốc dân: Nếu mức thu nhập của một quốc gia (thu nhập quốc dân) tăng theo một tỷ lệ cao hơn tỷ lệ tăng của các quốc gia khác, cán cân thương mại của quốc gia đó sẽ giảm nếu các yếu tố khác bằng nhau. Do mức thu nhập thực tế (đã điều chỉnh do lạm phát) tăng, mức tiêu thụ hàng hóa cũng tăng. Một tỷ lệ gia tăng trong tiêu thụ hầu như sẽ phản ánh một mức cầu gia tăng đối với hàng hóa nước ngoài. - Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái: Nếu đồng tiền của một nước bắt đầu tăng giá so với đồng tiền của các nước khác, cán cân thương mại của nước đó sẽ giảm nếu các yếu tố khác bằng nhau. Hàng hóa xuất khẩu từ nước này sẽ trở nên đắt hơn đối với các nước nhập khẩu nếu đồng tiền của họ mạnh. Kết quả là nhu cầu các hàng hóa đó sẽ giảm. - Ảnh hưởng của các biện pháp hạn chế của chính phủ: Nếu chính phủ của một quốc gia đánh thuế trên hàng nhập khẩu, giá của hàng nhập khẩu đối với người tiêu dùng tăng thêm trên thực tế. Thuế suất thuế nhập nhẩu do các quốc gia ấn định. Các ngành được quốc gia bảo hộ sẽ được ấn định thuế nhập khẩu cao hơn các ngành khác nhằm chống lại cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài. Việc gia tăng áp dụng thuế nhập khẩu làm gia tăng cán cân thương mại, trừ các trường hợp các chính phủ khác trả đũa.
  11. 11 1.1.2.3. Các kiểu thương mại được ứng dụng để phân tích: - Thương mại song phương: Thương mại song phương là hoạt động trao đổi mua bán hàng hóa, dịch vụ giữa hai bên (phía), hai quốc gia trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận song phương. - Thương mại đa phương: Thương mại đa phương là hoạt động trao đổi mua bán hàng hóa, dịch vụ giữa nhiều bên (phía), nhiều quốc gia. Việc trao đổi mua bán đa phương phải tuân thủ những thỏa thuận chung của tổ chức (hiệp hội) đa phương đó. Hệ thống thương mại đa phương trước hết được quy ước chung. Điều này đối lập với các mối quan hệ song phương, trong đó chỉ có hai nước tự thỏa thuận những quy tắc điều chỉnh thương mại giữa hai nước đó với nhau. Trong WTO, từ “đa phương” có ý nghĩa phân định rõ rệt hơn. Hệ thống thương mại đa phương dùng để chỉ hệ thống thương mại do WTO điều chỉnh. Do không phải toàn bộ các nước trên thế giới là thành viên của WTO nên “đa phương” sẽ chỉ phạm vi hẹp hơn “toàn cầu”. Mặt khác, “đa phương” cũng không đồng nghĩa với những thỏa thuận của từng nhóm nước tại một khu vực nhất định trên thế giới, như EU, ASEAN, NAFTA… Như vậy, “đa phương” là khái niệm đứng giữa “toàn cầu” và “khu vực”. Cần lưu ý rằng trong quan hệ quốc tế nói chung, “đa phương” có thể chỉ bất kỳ mối quan hệ nào có hơn hai quốc gia trở lên. 1.1.3. Các lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá vá cán cân thương mại: 1.1.3.1. Hiệu ứng của phá giá lên cán cân thương mại (Lý thuyết đường cong J): Phá giá tiền tệ là làm giảm giá trị đồng nội tệ so với các ngoại tệ khác. Phá giá sẽ làm tăng tỷ giá danh nghĩa kéo theo tỷ giá thực tăng sẽ kích thích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, cải thiện cán cân thương mại. - Khi tỷ giá tăng (phá giá), giá xuất khẩu rẻ đi khi tính bằng ngoại tệ, giá nhập khẩu tính theo đồng nội tệ tăng được gọi là hiệu ứng giá cả.
  12. 12 - Khi tỷ giá làm giảm giá hàng xuất khẩu rẻ hơn đã làm tăng khối lượng xuất khẩu trong khi hạn chế khối lượng nhập khẩu. Hiện tượng này gọi là hiệu ứng khối lượng. Cán cân thương mại xấu đi hay cải thiện tùy thuộc vào hiệu ứng giá cả và hiệu ứng khối lượng cái nào trội hơn. Trong ngắn hạn, khi tỷ giá tăng trong lúc giá cả và tiền lương trong nước tương đối cứng nhắc sẽ làm hàng hóa xuất khẩu rẻ hơn, nhập khẩu trở nên đắt hơn: các hợp đồng xuất khẩu đã được ký kết với tỷ giá cũ, các doanh nghiệp trong nước chưa huy động đủ nguồn lực để sẵn sàng tiến hành sản xuất nhiều hơn nhằm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu tăng lên, cũng như nhu cầu trong nước tăng lên. Ngoài ra, trong ngắn hạn cầu hàng nhập khẩu không nhanh chóng giảm còn do tâm lý người tiêu dùng. Khi phá giá, giá hàng nhập khẩu tăng lên nhưng người tiêu dùng có thể lo ngại về chất lượng hàng trong nước chưa có hàng thay thế hàng nhập khẩu làm cho nhu cầu hàng nhập khẩu có thể không giảm được ngay. Do đó, số lượng hàng xuất khẩu trong ngắn hạn không tăng lên nhanh chóng và số lượng hàng nhập khẩu cũng không giảm mạnh. Vì vậy, trong ngắn hạn hiệu ứng giá cả có tính trội hơn hiệu ứng khối lượng làm cho cán cân thương mại xấu đi. Trong dài hạn, giá hàng nội địa giảm đã kích thích sản xuất trong nước và người tiêu dùng trong nước cũng đủ thời gian tiếp cận và so sánh chất lượng hàng trong nước với hàng nhập khẩu. Mặt khác, trong dài hạn, doanh nghiệp có thời gian tập hợp đủ các nguồn lực để tăng khối lượng sản xuất. Lúc này sản lượng bắt đầu co giãn, hiệu ứng khối lượng có tính trội hơn hiệu ứng giá cả làm cán cân thương mại được cải thiện. Đường cong J là một đường mô tả hiện tượng cán cân vãng lai bị xấu đi trong ngắn hạn và chỉ cải thiện trong dài hạn. Đường biểu diễn hiện tượng này giống hình chữ J. Theo kết quả nghiên cứu của Krugman (1991), người đã tìm ra hiệu ứng đường cong J khi phân tích cuộc phá giá đô la Mỹ trong thời gian 1985 -1987, thì ban đầu cán cân vãng lai xấu đi, sau đó khoảng hai năm cán cân vãng lai đã được cải thiện.
  13. 13 Hình 1.1 Hiệu ứng đường cong chữ J Nguyên nhân xuất hiện đường cong J là do trong ngắn hạn hiệu ứng giá cả có tính trội hơn hiệu ứng số lượng nên làm xấu đi cán cân thương mại, ngược lại trong dài hạn, hiệu ứng số lượng có tính trội hơn hiệu ứng giá cả làm cán cân thương mại được cải thiện. Một số nhân tố ảnh hưởng đến thời gian tác động lên cán cân thương mại trong lý thuyết hiệu ứng đường cong J: - Năng lực sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu. Đối với các nền kinh tế đang phát triển (Việt Nam thuộc nhóm nước này), có một số hàng hóa các nền kinh tế này không thể sản xuất được hay có sản xuất được đi nữa thì chất lượng không tốt bằng hoặc giá cả có thể cao hơn. Vì vậy, mặc dù giá nhập khẩu có đắt hơn, người tiêu dùng cũng không thể lựa chọn hàng trong nước. Điều này làm kéo dài thời gian của hiệu ứng giá cả. - Tỷ trọng hàng hóa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Đối với các nước phát triển tỷ lệ hàng hóa đủ chuẩn tham gia thương mại quốc tế cao nên hiệu ứng giá cả có thời gian tác động lên cán cân thương mại thường là thấp. Ngược lại, các nước đang phát triển tỷ trọng loại hàng hóa này nhỏ, cho nên một sự phá giá tiền tệ làm cho khối lượng xuất khẩu tăng chậm hơn. Điều này làm cho hiệu ứng khối lượng ít có tác
  14. 14 động đến cán cân thương mại hơn ở các nước đang phát triển. Vì vậy, tác động cải thiện cán cân thương mại của phá giá ở các nước phát triển thường mạnh hơn ở các nước đang phát triển. - Tỷ trọng hàng nhập khẩu trong giá thành hàng sản xuất trong nước: Nếu tỷ trọng này cao, giá thành sản xuất của hàng hóa trong nước sẽ tăng lên khi hàng nhập khẩu tăng giá. Điều này làm triệt tiêu lợi thế giá rẻ của hàng xuất khẩu khi phá giá. Cho nên, phá giá tiền tệ chưa hẳn đã làm tăng khối lượng hàng xuất khẩu. - Mức độ linh hoạt của tiền lương. Động thái phá giá tiền tệ thường làm chỉ số giá hàng tiêu dùng tăng lên. Nếu tiền lương linh hoạt, nó sẽ tăng theo chỉ số giá. Điều này làm tăng chi phí sản xuất, từ đó làm cho giá hàng trong nước giảm bớt lợi thế có được từ phá giá tiền tệ. - Tâm lý người tiêu dùng và thương hiệu quốc gia của hàng hóa trong nước. Nếu người tiêu dùng trong nước có tâm lý sùng hàng ngoại, thì một sự đắt lên của hàng nhập và sự rẻ đi của hàng trong nước có tác động đến hành vi tiêu dùng của họ, họ sẽ tiếp tục sử dụng hàng nhập mặc dù giá có đắt hơn. Tiếp theo, mức độ gia tăng số lượng hàng xuất khẩu phụ thuộc vào sự tin tưởng và ưa chuộng hàng hóa xuất khẩu của người tiêu dùng nước ngoài. Có nhiều bài viết nghiên cứu thực tiễn đã chứng minh sự tồn tại của đường cong J khi tiến hành phá giá tiền tệ như Anil K.Lal, Thomas C.Lowinger (2002), Tihomir Stucka (4/2004) và Thomas, Marquez và Fahle (2008) cho thấy việc mất giá ban đầu làm cán cân thương mại xấu đi do giá nhập khẩu tăng cao, nhưng sau đó dần dần mạnh lên khi số lượng được điều chỉnh. Bên cạnh đó, trong nghiên cứu của Deepak Garg and Sandeep Ramesh (2005) chứng minh sự tồn tại của đường cong M, lập luận trên cơ sở: khi tỷ giá tăng, ngay lập tức thì lượng nhập khẩu sẽ giảm và xuất khẩu sẽ không giảm dẫn đến sự thặng dư tức thì cán cân thương mại do nhập khẩu giảm, giai đoạn tiếp theo là hiệu ứng giá cả từ việc phá giá làm cho cán cân thương mại bị thâm hụt, giai đoạn kế tiếp là ảnh hưởng của hiệu ứng khối lượng (gia tăng xuất khẩu) làm cho cán cân thương
  15. 15 mại thặng dư và cuối cùng là giai đoạn tự điều tiết của thị trường và hoạt động thương mại sẽ trở lại bình thường dẫn đến xét trong dài hạn thì hiệu ứng đường cong J là không tồn tại. Hình 1.2: Đường cong M ở Ấn Độ trong nghiên cứu của Deepak Garg and Sandeep Ramesh (2005) 1.1.3.2. Hệ số co giãn xuất nhập khẩu và điều kiên Marshall - Lerner: Phương pháp tiếp cận này lần đầu tiên được Alfred Marshall, Abba Lerner sử dụng và sau đó được mở rộng bởi Joan Robinson (1937) và Fritz Machlup (1955). Phương pháp này được xây dựng dựa trên một số giả thiết sau: - Cung hàng hóa xuất khẩu có hệ số co giãn hoàn hảo. Hay nói cách khác là khối lượng cầu và hàng hóa xuất khẩu không ảnh hưởng gì tới mức giá hàng hóa nội địa. - Cầu hàng hóa nhập khẩu cũng có hệ số co giãn hoàn hảo. Hay nói cách khác là khối lượng cầu về hàng hóa nhập khẩu không ảnh hưởng gì tới mức giá hàng hóa nước ngoài. Với hai giả thiết này cho thấy rằng giá hàng hóa mội địa và hàng hóa nước ngoài là cố định, không thay đổi dù cho cung cầu về hàng hóa xuất nhập khẩu thay đổi như thế nào. Như vậy, ở đây cần lưu ý là phá giá làm tỷ giá danh nghĩa tăng; tỷ
  16. 16 giá danh nghĩa tăng làm cho tỷ giá thực tăng, tỷ giá thực tăng cải thiện được sức cạnh tranh thương mại quốc tế nghĩa là kích thích tăng khối lượng xuất khẩu và làm giảm khối lượng nhập khẩu. Nội dung chủ yếu của phương pháp này chủ yếu phân tích những tác động của phá giá lên cán cân vãng lai. Hệ số co giãn xuất khẩu: thể hiện phần trăm thay đổi của xuất khẩu khi tỷ giá thay đổi 1% dX/X ŋx = dE/E Hệ số co giãn nhập khẩu: thể hiện phần trăm thay đổi của nhập khẩu khi tỷ giá thay đổi 1% dM/M ŋm = dE/E Điều kiên Marshall – Lerner phát biểu rằng: để cho việc phá giá tiền tệ có tác động tích cực tới cán cân thanh toán thì giá trị tuyệt đối của tổng hai độ co giãn theo giá cả của xuất khẩu và độ co giãn theo giá cả của nhập khẩu phải lớn hơn 1 (ŋx + ŋm > 1). Nghiên cứu của nhiều nhà kinh tế trong thời gian qua về tác động của việc giảm giá đồng tiền lên cán cân thương mại đều dựa vào ước lượng của điều kiện Marshall Lerner. Điều kiện Marshall Lerner cho rằng để thực hiện thành công việc giảm giá một đồng tiên trong dài hạn thì tổng của độ nhạy cảm cầu xuất khẩu và cầu nhập khẩu phải lớn hơn 1. Một số nghiên cứu thực nghiệm về độ co giãn như Guiherme Moura và Sergio Da Silva, Marquer and Schindler (2006) cho thấy rằng trong dài hạn (từ hai đến ba năm) tổng hệ số co giãn xuất khẩu và nhập khẩu lớn hơn 1, tức là phá giá có tác động đến xuất nhập khẩu. Nghiên cứu của Bahmami- Oskooee (1986) cho thấy tổng độ nhạy cảm xuất khẩu và nhập khẩu của Ấn Độ lớn hơn 1 đã làm cải thiện cán cân thương mại trong dài hạn khi đồng Rupee giảm giá. Nhìn chung, đa số các nhà nghiên cứu đều cho rằng hệ số co giãn xuất khẩu vả hệ số co giãn nhập khẩu trong ngắn hạn nhỏ hơn trong dài hạn. Vì vậy, điều kiện Marshall – Lerner chỉ có thể được duy trì trong dài hạn.
  17. 17 Tuy nhiên, điều kiện Marshall-Lerner mặc dù đã đưa ra điều kiện cần và đủ để giúp cải thiện cán cân thương mại nhưng vẫn có trường hợp các điều kiện này đều đáp ứng đủ mà cán cân thương mại vẫn tiếp tục xấu đi. Có quan điểm cho rằng các nước đang phát triển thường phụ thuộc nhiều vào hàng nhập khẩu nên độ co giãn của cầu hàng nhập khẩu là nhỏ (tức trị giá nhập khẩu sẽ không giảm bao nhiêu khi phá giá nội tệ). Các nước phát triển có thị trường xuất khẩu tương đối ổn định, có tính cạnh tranh nên độ co giãn cầu hàng xuất khẩu có thể lớn hơn (tức giá trị xuất khẩu tăng mạnh khi phá giá nội tệ). Điều này hàm ý rằng khi phá giá ở các nước phát triển sẽ có tác động cải thiện cán cân thương mại mạnh hơn so với các nước đang phát triển. Hay nói cách khác, việc phá giá là một giải pháp có thể cải thiện thâm hụt cán cân thương mại ở quốc gia này nhưng có thể sẽ không có tác dụng tương tự với quốc gia khác. Nó cũng khuyến cáo các quốc gia đang phát triển nên thận trọng khi sử dụng biện pháp phá giá mạnh đồng nội tệ của mình nhằm khuyến khích xuất khẩu. 1.2. Các nghiên cứu thực nghiệm về tỷ giá và cán cân thương mại trên thế giới: Đã có rất nhiều tranh luận lý thuyết lẫn nghiên cứu thực tiễn về mối quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại trên thế giới. Từ việc nghiên cứu độc lập mối tương quan giữa tỷ giá vá cán cân thương mại đến các nghiên cứu tổng hợp thêm các yếu tố tác động đồng thời khác lên cán cân thương mại. Kết quả chứng minh thực tiễn trên từng quốc gia, từng khoảng thời gian của từng quốc gia lại đưa ra rất nhiều kết quả khác nhau. Phương pháp, cách tiếp cận đa dạng của các nhà kinh tế học đã giúp cho chúng ta có một cái nhìn toàn diện, đa chiều về mối quan hệ này. Các nhà kinh tế học dần dần chuyển hóa các cơ sở lý thuyết thành nghiên cứu ứng dụng cho thực tiễn, tìm nguyên nhân và giải pháp nhằm cải thiện cán cân thương mại cho từng quốc gia với đặc thù riêng của quốc gia đó.
  18. 18 Trong bài nghiên cứu “China’s current account and exchange rate” nhóm nghiên cứu tìm hiểu sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại. Chúng ta có thể rút ra những ý chính trong bài nghiên cứu như sau: - Đồng nhân dân tệ đã bị định dưới giá khoảng 40%, việc giảm giá đồng nhân dân tệ kích thích xuất khẩu của Trung Quốc nhưng đồng thời cũng làm tăng trị giá nhập khẩu của Trung Quốc. - Một mình chính sách tỷ giá hối đoái sẽ không đủ để làm giảm thặng dư thương mại, đặc biệt trong bối cảnh khả năng sản xuất của Trung Quốc đang gia tăng. Phụ thuộc vào kỹ thuật được chọn, tăng trưởng chậm hơn trong phần còn lại của thế giới có thể tác động đáng kể tới xuất khẩu của Trung Quốc. Các kết quả thực nghiệm khác của các tác giả như Mohsen Bahmani –Oskooee và Tatchawan Kantipong (12/2001, Willem Thorbecke (3/2006), Alicia Garcia – Herrero and Tuuli Koivu (2007) vẫn tập trung trả lời một câu hỏi: sự biến động của tỷ giá sẽ làm thay đổi cán cân thương mại như thế nào? Kết quả đưa ra là một khuynh hướng có tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu, nghĩa là tăng tỷ giá sẽ cải thiện được cán cân thương mại. Hay nói cách khác, là giảm giá đồng nội tệ có khuynh hướng có lợi cho xuất khẩu. Trong nghiên cứu của Bahmami Oskooee và Brooks (1999), tác giả sử dụng mô hình nguyên bản của Rose và Yellen (1989). Mô hình cán cân thương mại là một hàm số của tỷ giá thực (RER), thu nhập thực của nước chủ nhà (DY- Real Domestic Income), thu nhập thực của nước ngoài (FY-Real foreign income). Nghiên cứu của Mohsen Bahmani – Oskooee và Tatchawan Kantipong (12/2001), cũng tuân theo công thức này. TBt =f(RERt ,DYt ,FYt) Theo Bahmami Oskooee và Brooks , tác giả xem cán cân thương mại bằng tỷ số giữa xuất khẩu và nhập khẩu để biểu thị mô hình dưới dạng logarit, cũng để phản ánh sự vận động của cán cân thương mại về mặt danh nghĩa cũng như thực. Do đó
  19. 19 trong đề tài, em sẽ sử dụng mô hình trên kiểm định mối liên hệ và tác động của tỷ giá đối với cán cân thương mại. Mô hình có dạng: lnTBjt = β0+ β lnDYt + β2 lnFYjt + β3 lnRERjt + ετ (2) Ở thời điểm t: TBj: tỷ lệ giữa xuất khẩu trên nhập khẩu của Việt Nam với quốc gia thứ j. DY: Chỉ số thu nhập thực của Việt Nam FYj: chỉ số thu nhập thực của đối tác thương mại thứ j. RERj: tỷ giá song phương thực giữa Việt Nam và đối tác thứ j ( tỷ giá tăng lên thể hiện sự giảm giá của VND so với đồng tiền của đối tác thứ j) ετ: sai số ngẫu nhiên. Dấu hiệu kì vọng của các hệ số hồi qui: Theo lí lẽ truyền thống từ nhiều nhà nghiên cứu, nếu một sự tăng lên trong thu nhập thực của Việt Nam (DYt) làm tăng nhập khẩu thì ước lượng β được kì vọng sẽ mang dấu âm. Tuy nhiên, nếu DYt tăng lên là nhờ vào gia tăng trong sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu thì ước lượng β được kì vọng sẽ mang dấu dương. Giống như vậy, ước lượng giá trị β2 có thể dương hoặc âm tùy vào những nhân tố bên cầu vượt trội hơn những nhân tố bên cung hoặc ngược lại. Phù hợp với giả thuyết đường cong J nếu xảy ra sự giảm giá thực tức RERjt tăng lên sẽ khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, chúng ta kì vọng ước lượng β3 sẽ dương, điều này cũng phù hợp với điều kiện Marshall Lerner. Tuy nhiên, trong ngắn hạn chúng ta kì vọng β3 sẽ âm. Như vậy, theo điều kiện cụ thể của từng quốc gia sẽ cho ra những kết quả nghiên cứu thực nghiệm khác nhau và nguyên nhân cũng khác nhau. Nhưng có một điểm chung nhất là việc tăng tỷ giá (nói cách khác là giảm giá trị đồng nội tệ) ít nhiều ảnh hưởng tích cực lên hoạt động xuất khẩu của quốc gia đó. Còn việc cán cân thương mại có được cải thiện hay không thì còn phải xét đến các yếu tố khác:
  20. 20 độ co giãn của xuất khẩu – nhập khẩu theo tỷ giá, cơ chế điều hành tỷ giá, chính sách bảo hộ thương mại, chi phí thương mại, cơ cấu xuất nhập khẩu và một số các yếu tố khác… Có một khuynh hướng là các quốc gia trên thế giới đang có khuynh hướng định giá thấp đồng nội tệ để tạo lợi thế cạnh tranh cho hàng xuất khẩu. 1.3. Kinh nghiệm của các nước về điều hành tỷ giá trong mối quan hệ với cán cân thương mại và kinh nghiệm cho Việt Nam: 1.3.1. Kinh nghiệm của các nước về điều hành tỷ giá trong mối quan hệ với cán cân thương mại: 1.3.1.1. Trung Quốc: Trung Quốc và chính sách kinh tế Trung Quốc đã hiển hiện rộng lớn trên vũ đài kinh tế toàn cầu những năm gần đây. Thậm chí những cuộc tranh luận sôi nổi về cán cân thương mại Trung Quốc và giá trị của tiền tệ Trung Quốc vẫn đang tiếp diễn. Từ năm 1997 đến ngày 21/7/2005, đồng CNY được neo cố định với USD tại mức giá 8,28 CNY/USD, làm cho hàng hóa của Trung Quốc có tính cạnh tranh trên thị trường, thúc đẩy xuất khẩu tăng mạnh. Do đó làm cho hàng hóa nước ngoài xuất khẩu không được nhiều gây thiệt hại cho các nước đối tác. Trước tình hình này, Mỹ và các đối tác thương mại lớn khác của Trung Quốc gây sức ép để đồng nhân dân tệ tăng giá. Vào năm 2005 Trung Quốc đã phải điều chỉnh tỷ giá đồng nhân dân tệ. - Từ 7/2005 đến nay Trung Quốc công bố giá theo một rổ tiền tệ, 11 đồng tiền trong rổ, trong đó các đồng tiền chính là đôla Mỹ, Euro, Yên Nhật và đồng Won Hàn Quốc và các đồng Bảng Anh, Ruble Nga và Baht Thái cũng có mặt trong rổ tiền tệ nhưng có tỷ trọng nhỏ hơn nhiều. Sơ lược chính sách tỷ giá của Trung Quốc trong khủng hoảng tài chính toàn cầu: - Thứ nhất, Trung Quốc luôn theo đuổi chế độ tỷ giá hối đoái trên cơ sở định giá thấp đồng nhân dân tệ so với các ngoại tệ khác đặc biệt là đồng đô la Mỹ. Có thể thấy trong thương mại quốc tế nếu để lợi thế so sánh tự nó phát huy vai trò của
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0