Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông thời kỳ 1954 - 1975
lượt xem 5
download
Mục đích nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đối với vấn đề GDPT qua việc chấp hành chủ trương, chính sách GDPT của Đảng đề ra. Đánh giá những thành tựu và hạn chế, bước đầu rút ra những bài học kinh nghiệm phục vụ cho công cuộc phát triển GDPT của tỉnh trong những thời kỳ tiếp theo. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông thời kỳ 1954 - 1975
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ HƯỜNG Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông thời kỳ 1954 - 1975 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ HÀ NỘI, 2008
- Mục lục Trang Mở đầu 3 Chương 1 Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo phát triển GDPT từ 8 năm 1954 đến 1960 1.1. Vài nét về GDPT Thanh Hoá trước năm 1954 8 1.2. Đường lối của Đảng và chủ trương phát triển GDPT 15 của Đảng bộ Thanh Hoá 1.3. Quá trình tổ chức thực hiện 22 Chương 2 Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo phát triển GDPT trong 35 kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1960-1965) 2.1. Chủ trương phát triển GDPT của Đảng bộ Thanh 35 Hoá 2.2. Quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện 41 Chương 3 Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá tiếp tục lãnh đạo phát triển 55 GDPT từ năm 1965 đến 1975 3.1. Chủ trương chuyển hướng phát triển GDPT thời 55 chiến của Đảng 3.2. Quá trình tổ chức thực hiện 64 Kết luận 84 Tài liệu tham khảo 90 Phụ lục 103
- BẢNG CHÚ THÍCH CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT BCH: Ban chấp hành GDPT: Giáo dục phổ thông HTX: Hợp tác xã HĐND: Hội đồng nhân dân LLSX: Lực lượng sản xuất Nxb: Nhà xuất bản NVQS: Nghĩa vụ quân sự QHSX: Quan hệ sản xuất PCGD: Phổ cập giáo dục UBHC: Uỷ ban hành chính UBHCKC: Uỷ ban hành chính kháng chiến VNDCCH: Việt Nam Dân chủ Cộng hoà XHCN: Xã hội chủ nghĩa
- Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Sự nghiệp giáo dục-đào tạo nói chung và GDPT nói riêng có một vai trò vô cùng quan trọng đối với việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Đảng ta đã xác định giáo dục-đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội vì một Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Được sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Chính phủ, trong những năm gần đây, giáo dục Thanh Hoá đã dành được nhiều thành tựu to lớn góp phần đổi mới sự nghiệp giáo dục-đào tạo và phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương. Cơ sở nền tảng của những thành tựu giáo dục đó là truyền thống hiếu học từ ngàn xưa trên mảnh đất này được Đảng bộ Thanh Hoá phát huy cao độ trong mỗi thời kỳ cách mạng, đóng góp vào sự nghiệp giáo dục đào tạo con người mới. Vì vậy, nhìn lại những chủ trương, quá trình lãnh đạo xây dựng, phát triển giáo dục của Đảng bộ Thanh Hoá ở địa phương trong 20 năm đầu xây dựng miền Bắc (1954-1975) là một việc làm có ý nghĩa khoa học và thực tiễn, góp phần vào việc nghiên cứu lịch sử phát triển giáo dục Thanh Hoá, rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu cho quá trình phát triển nền giáo dục Thanh Hoá hiện nay. Từ nhận thức đó, chúng tôi đã chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông thời kỳ 1954-1975” làm luận văn thạc sĩ sử học chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Vấn đề giáo dục-đào tạo nói chung và GDPT nói riêng đã và đang được xã hội quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu. Các công trình nghiên cứu về giáo dục Thanh Hoá được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau:
- Cuốn “50 năm giáo dục và đào tạo Thanh Hoá (1945-1995), sự kiện và thành tựu” (1995), Nxb Thanh Hoá do tập thể những người làm công tác giáo dục ở địa phương biên soạn nhân dịp kỷ niệm 50 năm giáo dục và đào tạo Thanh Hoá. Cuốn sách đã nhìn lại những sự kiện và thành tựu chính của nền giáo dục Thanh Hoá trong suốt nửa thế kỷ qua, đồng thời phác hoạ về hướng phát triển của 15 năm tiếp theo. Cuốn “Danh sĩ Thanh Hoá và việc học thời xưa” (1995) do Trần Văn Thịnh chủ biên, Nxb Thanh Hoá, tuy chưa phải là viết riêng về lĩnh vực giáo dục nhưng cũng đã đề cập đến vai trò của tài năng và việc bồi dưỡng tài năng nhằm chuẩn bị cho Thanh Hoá trong thời kỳ mới. Cuốn “60 năm Collège de Lam Sơn - Đào Duy Từ - Lam Sơn 1931-1991” (1991) do tập thể những người trực tiếp làm công tác giáo dục ở Trường PTTH Lam Sơn biên soạn nhân dịp kỷ niệm 60 năm ngày thành lập trường với nội dung chủ yếu là phản ánh quá trình hình thành và phát triển của trường Lam Sơn; các thành tựu cơ bản của trường. Như vậy, cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu đầy đủ và chi tiết về đường lối và chủ trương phát triển giáo dục-đào tạo cũng như GDPT của Đảng bộ và chính quyền tỉnh Thanh Hoá. Vì vậy, đây là một vấn đề cần được đi sâu nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: - Tìm hiểu quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đối với vấn đề GDPT qua việc chấp hành chủ trương, chính sách GDPT của Đảng đề ra. - Tìm hiểu quá trình triển khai, tổ chức thực hiện những chủ trương, chính sách đó và những kết quả đạt được qua các giai đoạn phát triển.
- - Đánh giá những thành tựu và hạn chế, bước đầu rút ra những bài học kinh nghiệm phục vụ cho công cuộc phát triển GDPT của tỉnh trong những thời kỳ tiếp theo. Nhiệm vụ: - Tập hợp những tư liệu lịch sử có liên quan đến sự lãnh đạo của Đảng và Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá, cũng như quá trình chỉ đạo thực hiện của chính quyền tỉnh và các Sở, Ban, Ngành liên quan. Từ đó làm rõ vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đối với ngành GDPT địa phương. - Hệ thống hoá và trình bày những tư liệu đó qua các giai đoạn phát triển gắn liền với hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể. Từ đó, thấy được ngành GDPT Thanh Hoá đã thực hiện những nhiệm vụ cụ thể phù hợp với tình hình cách mạng (trong thời bình cũng như thời chiến). - Phân tích những chủ trương, biện pháp và quá trình tổ chức thực hiện những chủ trương về giáo dục phổ thông của tỉnh trong thời kỳ 1954-1975. - Rút ra những nhận xét về thành tựu, hạn chế trong quá trình thực hiện, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng: nghiên cứu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ và Chính quyền tỉnh Thanh Hoá đối với yêu cầu phát triển của GDPT trên địa bàn tỉnh. Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu quá trình lãnh đạo phát triển GDPT trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá trong khoảng thời gian từ 1954-1975. Những đưòng lối, chủ trương được trình bày ở luận văn là những đường lối, chủ trương quan trọng nhất, có tính định hướng, có tầm chiến lược cho sự phát triển giáo dục giáo dục-đào tạo và GDPT của Đảng bộ và Chính quyền tỉnh Thanh Hoá. 5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
- Để hoàn thành luận văn này, chúng tôi sử dụng những phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic là chủ yếu. Bên cạnh đó, sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh... cố gắng làm rõ những nội dung của đề tài. Nguồn tư liệu chúng tôi sử dụng nghiên cứu chủ yếu là: - Các văn kiện, nghị quyết của Đảng, của Tỉnh uỷ, Uỷ ban Hành chính tỉnh... về vấn đề giáo dục. - Các báo cáo của Ty Giáo dục Thanh Hoá. - Một số sách, báo nghiên cứu của các cá nhân tập thể về vấn đề giáo dục. 6. Đóng góp của luận văn - Hệ thống lại quá trình chỉ đạo, tổ chức thực hiện phát triển GDPT của Đảng bộ Thanh Hoá thời kỳ 1954-1975. - Nêu lên một số bài học kinh nghiệm phục vụ cho công cuộc phát triển GDPT của tỉnh trong những thời kỳ tiếp theo. 7. Bố cục luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn được cấu trúc thành 3 chương, 7 tiết.
- Chương 1 Đảng bộ Thanh Hoá lãnh đạo phát triển GDPT từ năm 1954-1960 1.1. Vài nét về giáo dục Thanh Hoá trước 1954 Thanh Hoá là một tỉnh đa tộc người. Ngoài người Kinh sinh sống ở đồng bằng, còn có các tộc ít người khác như Mường, Thái, Khơ Mú, Thổ, Mông, Dao thuộc các nhóm ngôn ngữ Việt-Mương, Môn-Khơme, Tày-Thái, Mông-Dao, tụ cư chủ yếu ở miền núi. Địa bàn này chiếm 2/3 diện tích cả tỉnh, dân số các tộc ít người kể trên chiếm 1/3 cả tỉnh {139, tr.62}. Thanh Hoá có địa hình đa dạng, thấp dần từ Tây sang Đông, chia làm 3 vùng rõ rệt. Vùng đồng bằng là vựa thóc, vùng biển là kho cá và miền núi là kho nguyên liệu vô tận. Cả 3 vùng hỗ trợ nhau sẽ làm cho tỉnh có nền kinh tế toàn diện, vững chắc và miền núi phấn đấu sẽ trở thành một vùng vững vàng về chính trị, khá giả về kinh tế, mạnh mẽ về quốc phòng. Thanh Hoá cũng là một vùng đất lịch sử lâu đời, là nơi đã phát hiện được các di chỉ khảo cổ học thuộc hầu hết các thời đại khảo cổ học lớn của nước ta thời tiền sử và sơ sử. Thanh Hoá có đầy đủ những mốc nổi tiếng đánh dấu các giai đoạn lớn của lịch sử, từ tối cổ đến tận ngày nay. Do vậy, thiên nhiên và văn hoá xứ Thanh đều thấm đượm sắc màu lịch sử. Giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, phong trào Cần Vương chống Pháp lan rộng trong cả nước. Trong đó, Thanh Hoá trở thành một trung tâm kháng chiến lớn. Nhiều sĩ phu yêu nước như Tống Duy Tân, Phạm Bành, Hoàng Đạt, Cầm Bá Thước, Trần Xuân Soạn, Hà Văn Mao…đã đứng lên lãnh đạo nhân dân địa phương quyết liệt chống giặc. 29/7/1930, Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Thanh Hoá được thành lập. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Thanh Hoá không ngừng phát huy
- truyền thống yêu nước và đấu tranh cách mạng kiên cường bất khuất vượt qua muôn ngàn khó khăn gian khổ. 20/8/1945, nhân dân Thanh Hoá đã nổi dậy khởi nghĩa phá tan xiềng xích của chế độ thực dân, phong kiến ở Thanh Hoá. Cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Thanh Hoá bước vào kỷ nguyên của độc lập và tự do. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Thanh Hoá là vùng đất tự do. Chính vì vậy, Thanh Hoá là nơi có điều kiện để cung cấp sức người, sức của đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến. Tháng 7/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Hiệp định Giơnevơ được ký kết. Miền Bắc hoàn toàn được giải phóng. Cùng với các tỉnh miền Bắc, Thanh Hoá bước vào thời kỳ mới: thời kỳ khôi phục cải tạo và xây dựng XHCN, là hậu phương vững chắc cho tiền tuyến lớn miền Nam. Trải qua quá trình lịch sử lâu dài dân tộc dựng nước-giữ nước của dân tộc ta, từ thế hệ này đến thế hệ khác, nhân dân Thanh Hoá luôn thể hiện một sức sống mãnh liệt, không ngừng vươn lên trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, chống áp bức, cường quyền. Trong suốt cuộc đấu tranh lâu dài gian khổ, nhân dân Thanh Hoá đã chung đúc nên truyền thống, những đức tính quý báu tiêu biểu cho tinh hoa của dân tộc, trong đó có truyền thống hiếu học. 1.1.1 Giáo dục Thanh Hoá dưới chế độ phong kiến, thực dân Cũng như mọi thôn, làng khác ở trong tỉnh, các làng, xã xưa của vùng đất Thanh Hoá đều có lớp học chữ Hán do thầy đồ mở trường dạy chữ. Việc học hành ở Thanh Hoá cho thấy có nhiều người đỗ đạt. Suốt hai triều đại Lê, Nguyễn, Thanh Hoá có 1690 cử nhân, những học vị cao như Trạng Nguyên có 3 người, Bảng nhãn có 7 người, Thám Hoa có 6 người. Riêng triều Nguyễn có 47 khoa thi Hương thì Trường thi Thanh Hoá đã tổ chức 31 kỳ, trong 31 kỳ thi lấy đỗ tại chỗ 450 cử nhân, vùng đất Hạc Thành có 6 vị cử nhân {54, tr. 48}.
- Cùng với những người đạt học vị cao nhất, Thanh Hoá cũng có nhiều vị tiến sĩ, cử nhân và tú tài, những học giả xuất sắc với các công trình, tác phẩm lưu lại cho đời sau. Rất nhiều người đã mở đầu hay tiêu biểu cho những môn khoa học trong nền học thuật cả nước như: Lê Văn Hưu là nhà sử học; Hồ Quý Ly là người có quan điểm riêng trong nhận thức về Nho gia, Lương Đắc Bằng là nhà lý học, Đào Duy Từ vừa là nhà quân sự vừa là nhà nghệ thuật, Nguyễn Hữu Hào mở đầu cho dòng truyện Nôm ở Việt Nam, Nguyễn Thu, Ngô Cao Lãng…là những nhà nghiên cứu dày công có nhiều tác phẩm đồ sộ về sử học, địa lý…Những kết quả đó chứng tỏ giáo dục Thanh Hoá có một bề dày về văn hoá, khoa học nhất định. Có một hiện tượng chứng tỏ Thanh Hoá là một địa phương hiếu học và có thành tích cao trong việc học tập là truyền thống dựng bia hoặc lập văn chỉ ở các làng, các huyện. Bia, văn chỉ dùng để ghi những thành tích học tập, những kết quả khoa bảng của riêng địa phương ấy. Có những tấm bia ghi riêng về thành tích học tập của một dòng họ như họ Trịnh ở thôn Hổ Bái (Yên Định), họ Lê ở Cổ Đôi (Nông Cống). Có cả loại bia để tôn vinh riêng một vị đại khoa như bia Mai học sĩ từ đường ký ở Thạch Giản (Nga Sơn). Có những làng xã nổi tiếng là làng đại khoa như xã Hoằng Lộc, Nguyệt Viên, Phù Quang (Hoằng Quang, Hoằng Hoá)… Những thành tích của giáo dục Thanh Hoá trong suốt nghìn năm lịch sử, vai trò của các thầy giáo, các học giả, các nhà trường cùng với truyền thống tôn trọng học vấn của từng dòng họ, từng xã, từng huyện đã khẳng định Thanh Hoá có một truyền thống giáo dục rất đáng tự hào. Tất nhiên, do hoàn cảnh chính trị, hoàn cảnh kinh tế của chế độ xưa mà nền giáo dục này chưa phải là nền giáo dục của toàn dân, chưa được phổ cập. Trong thời kỳ Pháp thống trị, phong trào cựu học đã có sự xen kẽ với phong trào tân học. Khoa thi Hương cuối cùng tổ chức vào năm 1918 đã chấm dứt việc dùng chữ Hán trong văn bản hành chính, chuyển sang dùng chữ Pháp và chữ quốc ngữ. Trường Nho học cấp tỉnh trên địa bàn tỉnh lỵ trở thành trường Tiểu học Pháp-
- Việt. Các trường làng, huyện chỉ học đến lớp sơ đẳng, tới lớp nhì đệ nhất phải lên trường tỉnh {139, tr.252}. Đến năm 1930, các trường phổ cập mở ra đông hơn nhưng Thanh Hoá mới có 124 trường trong tổng số 826 trường của cả Trung Kỳ. Tỷ lệ học sinh đi học thời kỳ này rất thấp. Cứ 29.329 người dân mới có 1 trường, 0,4% dân số được đi học phổ cập. Các bậc học trên còn ít hơn. Cứ 1 triệu dân có 19 học sinh trung học công lập, 0,0019% số người học trung học; 0,05% dân số học cao đẳng tiểu học {76, tr.21}. Đầu năm 1938, hội truyền bá quốc ngữ do một số trí thức yêu nước và những người hoạt động xã hội được thành lập đã ảnh hưởng rất lớn đến phong trào học quốc ngữ tại Thanh Hoá. Nhờ đó, phong trào học chữ quốc ngữ phát triển rầm rộ. Đại bộ phận những người đi học là dân nghèo nên giấy bút do chi hội truyền bá quốc ngữ cung cấp. Đội ngũ giáo viên gồm nhiều tầng lớp, nhiều thành phần tham gia như viên chức, công nhân, học sinh, thân sĩ, thương gia…Địa điểm các lớp học tổ chức tại nhà dân, đình chùa, miếu phủ, bất kỳ nơi nào có thể học được. Chỉ trong một thời gian ngắn, toàn thị xã tổ chức được hơn 30 lớp. Lớp ít nhất có 5 người, lớp đông nhất là 30 người, chưa kể lớp dạy kèm cặp 1,2 người {76, tr.43}. Những năm chịu sự thống trị của thực dân Pháp, Thanh Hoá đã phải bị tiếp nhận chính sách giáo dục hạn chế, ngu dân một cách cụ thể nhất. Tuy nhiên, ở Thanh Hoá những tấm gương học tập và giảng dạy vẫn được phát huy với sự hoạt động của các hội Truyền bá quốc ngữ, của thầy-trò Trường học Thanh Hoá. Nhìn chung, nền giáo dục phong kiến đã đào tạo nên những trí thức Nho học có phẩm chất cao đẹp mà tên tuổi của họ gắn liền với những địa danh cụ thể. Đó là những tấm gương khổ công tu dưỡng, học hành để cống hiến cho dân cho nước. Tuy nhiên, giáo dục Thanh Hoá trước cách mạng, dù có nhiều khởi sắc dưới thời phong kiến hay chưa được phát huy bởi chính sách ngu dân, hạn chế dưới chế độ thực dân thì đều là nền giáo dục của một bộ phận, của những cá nhân. Phải từ sau
- cách mạng tháng Tám 1945, một nền giáo dục mới được xây dựng trên cơ sở khơi dậy và phát huy truyền thống giáo dục vốn có cùng với những yếu tố mới do cách mạng mang lại. Đó là nền giáo dục dân tộc-dân chủ, nền giáo dục do dân, vì dân. Từ đó, những trang sử giáo dục Thanh Hoá đã ghi thêm những thành tựu mà hàng ngàn năm trước chưa từng có, không thể có. 1.1.2. GDPT Thanh Hoá trong những năm sau cách mạng tháng Tám đến năm 1954 Cách mạng Tháng Tám, đối với giáo dục là cột mốc mở đầu công cuộc xây dựng và phát triển nền giáo dục dân tộc, dân chủ nhân dân “vị nhân sinh”. Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí: “Nạn dốt là một trong những phương pháp độc ác mà thực dân Pháp dùng để cai trị chúng ta. Hơn 90% đồng bào ta mù chữ…Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” {70, tr.105}. Chính vì vậy “muốn giữ vững độc lập, muốn làm dân mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ” {70, tr.218}. Cùng với BDHV, GDPT cũng được chú ý. Các trường tiểu học trong toàn tỉnh được ổn định. 400 hương trường được giải tán. Ngành giáo dục phát lệnh chiêu sinh trở lại để chuẩn bị cho năm học mới. 01/10/1945, các trường cả trường quốc lập, dân lập, tư thục trong tỉnh cùng các trường trên toàn toàn quốc khai giảng năm 1945-1946. Bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, với tinh thần “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, Thanh Hoá thực hiện tiêu thổ kháng chiến, làm “vườn không nhà trống”, nhân dân bắt đầu tản cư về các vùng nông thôn. Chính trong quá trình chiến đấu gian khổ và ác liệt đó, công tác giáo dục đã không ngừng phát triển, phục vụ kịp thời và đắc lực cho nhu cầu ngày càng cao của kháng chiến. Với truyền thống hiếu học vốn có, tinh thần
- học tập của nhân dân được nâng cao từ sau cách mạng thành công, lại được Hồ Chủ tịch, Đảng và Chính phủ ra sức động viên, kêu gọi, giáo dục Thanh Hoá đã nhanh chóng ổn định và phát triển. Việc tổ chức bậc học cơ bản với thời hạn 4 năm cho trẻ từ 7 tuổi trở lên, mở thêm trường lớp ở các thôn xã, tuyển dụng giáo viên… được đẩy mạnh. Từ năm 1950, cuộc cải cách giáo dục đã đổi hệ thống trung học cũ thành trường phổ thông cấp III. Theo đề án cải cách giáo dục, nền giáo dục của nước VNDCCH là nền giáo dục của nhân dân, do dân, vì dân được xây dựng theo nguyên tắc: Dân tộc, khoa học, đại chúng. Mục tiêu đào tạo: Giáo dục thế hệ trẻ thành công dân trung thành với Tổ quốc, có năng lực và phẩm chất phục vụ đất nước. Phương châm giáo dục: Học đi đôi với thực hành, lý luận gắn với thực tiễn. Một điều đặc biệt là thời kỳ này, giáo dục gắn chặt với công cuộc kháng chiến, cùng bước phát triển với kháng chiến. Ngành giáo dục Thanh Hoá đã tổ chức đợt ủng hộ vật chất, xung phong vào giúp giáo dục Bình-Trị-Thiên và vùng cao (gọi là Xung Thiên, Xung Thượng), tham gia quyên góp, may áo rét cho bộ đội. Đặc biệt, một bộ phận giáo viên, học sinh đã trực tiếp gia nhập quân đội, trực tiếp đánh giặc cứu nước. Năm 1949, trong số 595 học sinh trường Đào Duy Từ đã có 514 học sinh tình nguyện tòng quân 64 học sinh đã có lệnh nhập ngũ {86, tr.143} Năm 1954, khi toàn tỉnh dốc sức, dốc người cho chiến trường, ngành giáo dục Thanh Hoá đã tổ chức một đoàn xe thồ chở gạo lên Điện Biên để phục vụ chiến dịch. Trong số học sinh, chiến sĩ có người trở thành anh hùng. Từ cuối năm 1947 đầu 1953, do tính chất của cuộc chiến tranh, do đặc điểm của một thị trấn vùng hậu phương nên dân cư lúc co cụm nơi này, khi dời đến nơi khác. Vì vậy, việc học tập không tránh khỏi những biến động. Tuy nhiên, có thể khẳng định trong kháng chiến chống Pháp, Thanh Hoá không những chú trọng đẩy mạnh phát triển giáo dục của địa phương mà còn là mảnh đất “cưu mang” giáo dục khu III. Khu giáo dục và gần hết các trường khu III (Hà Đông, Thái Bình, Hà Nam,
- Nam Định, Ninh Bình) đều chuyển vào Thanh Hoá, đóng rải rác trên các huyện của tỉnh. Khu giáo dục và Trường Nguyễn Huệ (Hà Đông cũ) đóng ở Thiệu Yên; Trường Nguyễn Thượng Hiền - chuyên khoa chung cho toàn Liên khu, Trường Lê Quý Đôn (Ninh Bình) đặt tại Triệu Sơn; Trường Nguyễn Khuyến (Nam Định cũ) đóng ở Đông Sơn; Nguyễn Biểu (Hà Nam cũ) ở Thiệu Yên…Trường Sư Phạm Trung cấp liên khu III chuyển vào chiêu sinh tại Thanh Hoá từ năm học 1951- 1952. Do các trường Liên khu III dời vào Thanh Hoá nên các sinh hoạt chuyên môn, trại hè bồi dưỡng giáo viên, trao đổi giáo viên chấm thi giữa các trường Trung học Liên khu III và Trường Trung học quốc gia Lam Sơn trở nên thường xuyên và mang lại nhiều kết quả tốt. Để đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục đào tạo cán bộ phục vụ công cuộc kháng chiến ngày càng cao cũng như phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước trong tương lai, Bộ Quốc gia giáo dục đặt một lớp Đại học văn khoa ở Thanh Hoá (năm 1949) có 11 sinh viên do giáo sư Đặng Thai Mai giảng dạy. Năm 1950, trường Trung cấp ngoại giao (khoảng 20 người) do Bộ Ngoại giao mở lớp và tuyển sinh ở Thanh Hoá. Trường Sư phạm sơ cấp liên khu IV (đào tạo giáo viên cấp I) từ năm học 1950-1951 cũng được thành lập. Từ năm 1952, những lớp dự bị Đại học cũng được đặt ở Thanh Hoá. Năm 1953, nhằm mục đích đào tạo giáo viên cấp III, Trường Sư phạm cao cấp đã được mở tại đây. Trường Trung cấp Liên khu III đặt ở Thanh Hoá cũng đã chiêu sinh. Học sinh chủ yếu là con em đồng bào và cán bộ theo gia đình tản cư… Tại Thanh Hoá, “các thầy giáo có nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang là đào tạo cán bộ cho dân tộc… nhằm mục đích là thật thà phụng sự nhân dân” {32, tr.38}. Nhìn chung, từ sau năm 1945, Thanh Hoá là một trong những địa phương đã hình thành một nền giáo dục cách mạng mới, xóa bỏ hoàn toàn nền giáo dục của nô dịch thực dân phong kiến; một nền giáo dục được xây dựng phù hợp với hoàn cảnh
- mới thoát khỏi kiếp nô lệ “nền giáo dục của một nước độc lập… đào tạo nên những người công dân có ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các cháu” {70, tr.23}. 1.2. Đường lối của Đảng và chủ trương phát triển GDPT của Đảng bộ Thanh Hoá Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi. Cách mạng Việt Nam bước vào giai đoạn phải thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng là tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, thống nhất đất nước. “Chúng ta đã đánh thắng chế độ thực dân và phong kiến. Nhiệm vụ chủ yếu của chúng ta ngày nay là đánh thắng lạc hậu và nghèo nàn, xây dựng CNXH, làm cho nhân dân ta có một đời sống thật sung sướng, tốt đẹp” {65, tr.229}. Từ sau năm 1954, thời kỳ cách mạng mới đã làm cho nền giáo dục dân chủ nhân dân chuyển hướng mạnh mẽ nhằm góp phần đáp ứng các yêu cầu cách mạng chung của cả nước. Lúc này, miền Bắc có hai hệ thống giáo dục phổ thông. Đó là hệ thống Trung học và Tiểu học 12 năm thuộc vùng chiếm đóng của thực dân Pháp để lại. Hệ thống giáo dục 9 năm xây dựng trong thời kỳ kháng chiến ở vùng tự do có tính chất dân chủ và tiến bộ. Tình hình đó đòi hỏi ngành giáo dục phải gấp rút tiến hành việc thống nhất hai hệ thống giáo dục. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VII khoá II (3/1955) đã nêu nhiệm vụ phải mau chóng “chấn chỉnh và củng cố giáo dục phổ thông, thống nhất hai hệ thống giáo dục của vùng tự do cũ và vùng mới giải phóng; Chú ý dựa vào dân mà phát huy công tác giáo dục, nhân dân giúp đỡ để phát triển các trường dân lập và tư thục” {40, tr.20}. Tháng 3/1956, Đề án của Bộ Giáo dục về việc sáp nhập hai hệ thống giáo dục hiện có thành hệ thống giáo dục phổ thông duy nhất 10 năm đã được Chính phủ thông qua. Đề án đã chỉ rõ bản chất và mục tiêu của cuộc cải cách giáo dục lần này là: đào tạo, bồi dưỡng thế hệ thanh niên và thiếu nhi trở thành những người
- phát triển về mọi mặt, những công dân tốt, trung thành với Tổ quốc, những người lao động tốt, cán bộ tốt của nhà nước, có tài có đức để phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến dần lên CNXH ở miền Bắc, đồng thời để thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ. Phương châm giáo dục là liên hệ lý luận với thực tiễn, gắn nhà trường với đời sống xã hội. Nội dung giáo dục với tính chất toàn diện gồm bốn mặt đức, trí, thể, mỹ trong đó coi trí dục là cơ sở, đồng thời tăng cường giáo dục tư tưởng và giáo dục đạo đức trên cơ sở coi trọng việc giảng dạy tri thức có hệ thống. Hệ thống giáo dục phổ thông từ 9 năm nâng lên 10 năm. Cấp I: 4 năm, từ lớp 1 đến lớp 4. Cấp II: 3 năm, từ lớp 5 đến lớp 7. cấp III: 3 năm từ lớp 8 đến lớp 10. Đây là cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai với nội dung tiến bộ hơn, toàn diện hơn là một bước đi cơ bản ban đầu quan trọng trong quá trình xây dựng nền giáo dục XHCN. Tháng 6/1957, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã triệu tập hội nghị cán bộ Đảng trong ngành Giáo dục để kiểm điểm một năm thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới cải cách. Hội nghị đã chỉ rõ những tiến bộ đáng kể, những nhược điểm, thiếu sót trong việc thực hiện nội dung chương trình, phương châm giáo dục và việc phát triển giáo dục cho các năm học tiếp theo. Đặc biệt, trong việc giáo dục chính trị tư tưởng, công tác tổ chức, quản lý của nhà trường, công tác Đoàn thanh niên lao động và công tác xây dựng, phát triển Đảng trong nhà trường được coi trọng, nhất là ở các trường phổ thông cấp III. Việc thực hiện cải cách xây dựng hệ thống giáo dục thống nhất lần này cũng là một quá trình tiếp tục đấu tranh, bồi dưỡng tư tưởng và nhận thức, khắc phục cơ bản quan điểm, ảnh hưởng của giáo dục cũ, xác lập đường lối, quan điểm giáo dục XHCN.
- Sau 3 năm hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế- văn hoá, quan hệ sản xuất mới đã bước đầu được tiến hành xây dựng, tháng 11/1958, Hội nghị Trung ương lần thứ 14 thông qua kế hoạch 3 năm 1958-1960 phát triển kinh tế-văn hoá và cải tạo XHCN. Đối với giáo dục, từ năm 1958, cuộc vận động “xây dựng nhà trường XHCN” đã được phát động. Theo đó, quan điểm cơ bản của Đảng về GDPT cũng được xác định: Thứ nhất, nhà trường XHCN là công cụ của nhà nước chuyên chính vô sản. Nhà trường phải đảm bảo thực hiện tốt ba mục tiêu: Giáo dục cho học sinh có lý tưởng và đạo đức để các em phấn đấu vì Tổ quốc; Giáo dục cho học sinh những kiến thức cơ bản, kiến thức khoa học và hiện đại nhất; Rèn luyện cho học sinh có đầy đủ sức khoẻ để sống và làm việc và khi cần sẽ làm tốt nghĩa vụ quân sự. Như vậy, nhà trường XHCN phải phấn đấu đạt 3 mục tiêu nhằm đào tạo thế hệ trẻ thành những con người tiên tiến. Đó cũng là nội dung cụ thể về quan điểm “đức, trí, mỹ, thể và lao động có kỹ thuật” mà đề án cải cách giáo dục cũng đã nói tới. Theo đó, những nguyên tắc giáo dục của nhà trường XHCN cũng được đề ra như đảm bảo quan hệ giữa giáo dục tư tưởng chính trị và giáo dục khoa học kỹ thuật; Quan hệ giữa giáo dục tri thức khoa học hiện đại với tri thức đúng đắn sẵn có của dân tộc và kinh nghiệm sáng tạo của quần chúng; Quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, học và hành; giữa nhà nước và nhân dân; giữa thầy và trò. Thứ hai, phát triển giáo dục theo quy mô lớn cấp bách để đáp ứng những yêu cầu của cách mạng. Phát triển với tốc độ nhanh, tìm mọi cách phổ cập giáo dục cho thanh thiếu nhi càng sớm càng tốt, phục vụ cho công cuộc đào tạo đội ngũ cán bộ. Phát triển theo quy mô lớn, tốc độ nhanh nhưng phải có kế hoạch phát triển giáo dục dài hạn. Khả năng phát triển giáo dục và nâng cao chất lượng giáo dục không trông chờ vào vốn đầu tư của Nhà nước mà còn tuỳ thuộc rất lớn vào vai trò của nhân dân, trình độ quản lý của ngành giáo dục, của nhà trường và trình độ tư tưởng, nghiệp vụ của đội ngũ giáo viên.
- Thứ ba, vai trò của người thầy giáo: Dưới sự lãnh đạo của Đảng, thầy giáo là người xây dựng nhà trường-công cụ của nhà nước chuyên chính vô sản. Giáo viên là cán bộ của Đảng, có trọng trách giáo dục những con người mới, đào tạo thế hệ mới. Giáo viên phải vận động nhân dân tham gia dạy học, thực hiện mục đích, nguyên lý, phương châm giáo dục. Vì vậy, phải có một đội ngũ giáo viên kiên cường, thiết tha với nghề nghiệp mới đảm bảo được sự nghiệp giáo dục phát triển theo đúng hướng của Đảng. Thứ tư, điều kiện để dạy tốt và học tốt nhằm nâng cao chất lượng như: tích cực xây dựng trường sở, tăng thêm các thiết bị thí nghiệm và xây dựng thư viện, tủ sách cho các trường học... Thứ năm là vai trò lãnh đạo của Đảng, sự cần thiết phải thực hiện toàn dân tham gia giáo dục, trách nhiệm của chính quyền, mặt trận và các đoàn thể. Nhân dân là lực lượng quan trọng không thể thiếu trong việc xây dựng nhà trường và giáo dục thế hệ trẻ. Kết hợp công tác của nhà trường với sự hoạt động của nhân dân chính là kết hợp nhà trường với đời sống xã hội, làm cho nhà trường có một lực lượng hậu thuẫn hết sức vững chắc. Có thể nói, ngay từ những năm đầu miền Bắc mới giải phóng, Đảng-Chính phủ và Hồ Chủ tịch đã sớm có chủ trương phát triển nền giáo dục phục tùng đường lối chính trị của Chính phủ dân chủ cộng hoà và Đảng Lao động Việt Nam. Quan điểm cơ bản của Đảng về giáo dục đã khẳng định giáo dục thế hệ trẻ ở trường phổ thông các cấp là vô cùng quan trọng nhằm xây dựng cơ sở bước đầu, nhưng rất trọng yếu của việc đào tạo một lớp người, những người kế tục xứng đáng và vẻ vang sự nghiệp cách mạng. Trên tinh thần đó, GDPT đã được chuyển mạnh vào quỹ đạo của nền giáo dục XHCN. Quán triệt quan điểm giáo dục của Đảng, năm 1956, Đảng bộ Thanh Hoá đã ra chỉ thị về việc tuyên truyền, giải thích mục đích đi học của học sinh dưới chế độ ta nhằm làm cho cán bộ, học sinh, nhân dân nhận thức một cách sâu sắc mục đích,
- nhiệm vụ của GDPT là đào tạo thanh thiếu niên, phát triển chế độ dân chủ tiến lên XHCN đồng thời đấu tranh thống nhất nước nhà. Chỉ thị cũng chỉ rõ những đặc điểm của một nhà trường phổ thông dưới chế độ ta: - Nhà trường phổ thông nhận con em nhân dân và cả con em các thành phần khác vào học. - Tuổi đi học của học sinh từ 7 tuổi. - Trường phổ thông được xây dựng và phát triển rộng rãi ở tất cả các địa phương, được nhân dân giúp đỡ nhiều mặt. Học sinh không ở tập trung mà hàng ngày đến trường học một số giờ nhất định. Do đó, học sinh vừa chịu sự giáo dục của nhà trường, vừa chịu sự giáo dục của địa phương và gia đình. - Nhà trường phổ thông sau này sẽ là nhà trường mang tính chất phổ cập nhưng hiện tại vẫn mang tính chất phát triển hình chóp (tỷ lệ các cấp trên ít hơn cấp dưới). Mục tiêu lâu dài là đào tạo con người mới, nhưng trước mắt là học sinh phổ thông ra trường đi vào sản xuất, một số lớn học khá đi vào học các trường trung học và đại học chuyên nghiệp {59, tr.2}. Trước hết, phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng giáo dục nô dịch của thực dân còn sót lại, như thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống lao động và đấu tranh của nhân dân, học để lấy bằng cấp, dạy theo lối nhồi sọ. Và xây dựng tư tưởng dạy và học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Chỉ thị cũng chỉ rõ nhiệm vụ chính trị của toàn Đảng, toàn dân hiện nay là “ra sức củng cố miền Bắc, đấu tranh đòi mở hội nghị hiệp thương để tiến tới giành thống nhất nước nhà Tổng tuyển cử tự do” {59, tr.4}. Nhà trường và toàn thể giáo viên, học sinh đều nhận thấy trách nhiệm và vinh dự của mình góp phần vào việc đấu tranh lịch sử đó và nêu cao khẩu hiệu “Đẩy mạnh xây dựng nhà trường dân chủ để củng cố hoà bình đấu tranh cho hiệp thương, cho thống nhất nước nhà”.
- Thực hiện chủ trương dựa vào dân để phát triển giáo dục của Đảng, nhằm đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao của con em trong tỉnh, Đảng bộ Thanh Hoá đã chỉ thị: “chuyển hướng phát triển trường lớp dân lập; Dựa vào khả năng đóng góp của nhân dân để phổ cập giáo dục ở các vùng miền xuôi; Đảm bảo cho trẻ em đến tuổi đều được đi học” {15, tr.3}. Chủ trương dựa vào nhân dân xây dựng giáo dục được thể hiện ở những điểm như: vận động phụ huynh học sinh đóng góp học phí để cùng Chính phủ củng cố xây dựng trường lớp quốc lập, trả sinh hoạt phí cho giáo viên dân lập; vận động nhân dân xây dựng và bảo quản trường sở, bàn ghế đặc biệt là trường cấp I. Về hình thức tổ chức nhà trường: phát triển giáo dục có thể là quốc lập, dân lập hay tư thục. Cả 3 hình thức trên đều đặt dưới sự chỉ đạo thống nhất của Ty Giáo dục. Đối với các trường lớp dân lập, dần dần sẽ hình thành hệ thống riêng. Với tính chất quan trọng của phong trào dân lập, nên từ việc mở trường lớp đến việc đãi ngộ giáo viên đều do sự thoả thuận của nhân dân, đoàn thể đỡ đầu với nhà trường nhưng luôn đảm bảo đời sống của giáo viên, đảm bảo những điều kiện tối thiểu đã quy định trong quy chế trường dân lập. Các trường lớp dân lập được phát triển dựa trên cơ sở sản xuất phát triển, thích hợp với khả năng và đời sống của nhân dân. Bên cạnh đó còn dựa trên cơ sở tự nguyện, tự giác của nhân dân, phát triển có kế hoạch, có lãnh đạo nhằm đảm bảo sự lâu dài, tránh mở ồ ạt, bị động, không đảm bảo sĩ số, chất lượng và đài thọ giáo viên. Phát triển dân lập nhưng không tách rời phương châm của ngành là “củng cố đề cao chất lượng, phát triển trên cơ sở củng cố là chính”. Việc chuyển hướng phát triển giáo dục trong thời kỳ này đã làm cho mạng lưới của trường phổ thông mở rộng đến các huyện, xã của tỉnh, bảo đảm được sự học tập liên tục của con em nhân dân, bảo đảm được sinh hoạt tinh thần và vật chất lâu dài cho giáo viên. Đồng thời, phát huy được ý thức, trách nhiệm của nhân dân trong việc duy trì xây dựng trường lớp. Phong trào nhân dân xây dựng trường sở,
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ trong nền nghệ thuật cổ Champa
97 p | 238 | 66
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình giao lưu và hội nhập văn hóa Việt – Chăm trong lịch sử
130 p | 178 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ trong quan hệ văn hóa của vùng đất Nam kỳ với phương Tây đến đầu thế kỉ XX
167 p | 203 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vùng đất An Giang trong chính sách quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn thời kì 1757 - 1867
216 p | 147 | 43
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử kênh đào Nam bộ thời nhà Nguyễn từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX
69 p | 168 | 40
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Thủy Xá, Hỏa Xá trong lịch sử Việt Nam
125 p | 150 | 39
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Thực trạng đời sống kinh tế - xã hội - văn hóa của cộng đồng người Chăm ở An Giang từ sau năm 1975 đến nay
101 p | 186 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử hình thành và phát triển của thương cảng Hà Tiên (Thế kỷ XVII - XIX)
132 p | 152 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vùng đất Hà Tiên thế kỷ XVIII - XIX
164 p | 154 | 35
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử hình thành và phát triển nghề truyền thống của người Khmer ở Tịnh Biên – An Giang
108 p | 199 | 30
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quan hệ đối ngoại của Nhật Bản từ năm 1868 đến năm 1912
144 p | 152 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử đồn điền cao su ở miền Đông Nam bộ thời kỳ Pháp thuộc giai đoạn (1898 - 1939)
113 p | 176 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình đô thị hóa ở thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang) giai đoạn 1986-2010 - Huỳnh Thị Thấm
141 p | 173 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Yếu tố Melayu trong văn hóa Chăm - Quá trình định hình và phát triển
118 p | 137 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Chính sách đối ngoại của Đức quốc xã trước chiến tranh thế giới thứ hai (1933 - 1939)
144 p | 137 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử học: Quá trình đô thị hóa ở thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang) giai đoạn 1986-2010
126 p | 119 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế du lịch huyện Sóc Sơn, Hà Nội (1986-2016)
98 p | 66 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế - Xã hội Quảng Ngãi dưới Triều Nguyễn (1802-1885)
101 p | 18 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn