intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:84

38
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm rõ lý luận về bảo đảm QCN của người bị tạm giữ và thực tiễn bảo đảm QCN của người bị tạm giữ trên địa bàn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh, từ đó đề xuất những giải pháp tăng cường bảo đảm QCN của người bị tạm giữ trên địa bàn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THẾ HƯNG \ LÊ THẾ HƯNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC BẢO ĐẢMTIỄN THÀNH QUYỀN CONPHỐ BẮCCỦA NGƯỜI NINH, TỈNHBỊ NGƯỜI BẮC NINH TẠM GIỮ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, 2020 HÀ NỘI, 2020 1
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊLÊTHẾ THẾHƯNG HƯNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 8380104 Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 8380104 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN NGỌC HÀ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN NGỌC HÀ HÀ NỘI, 2020 2
  3. LỜI CAM ĐOAN. Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong Luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Người cam đoan Lê Thế Hưng 3
  4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 6 1.1. Lý luận về quyền con người và quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam 6 1.2. Nhận thức về bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam 23 Chương 2. TÌNH HÌNH, ĐẶC ĐIỂM CÓ LIÊN QUAN VÀ THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH 38 2.1. Tình hình đặc điểm có liên quan đến bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ trên địa bàn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh 38 2.2. Thực trạng bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trên địa bàn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh 43 Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH 55 3.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ 55 3.2. Nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến người bị tạm giữ và quyền của người bị tạm giữ 64 4
  5. 3.3. Hoàn thiện tổ chức, bộ máy, nâng cao ý thức pháp luật, trình độ nhận thức, chuyên môn nghiệp vụ của các chủ thể tiến hành tố tụng 65 3.4. Tăng cường công tác giám sát, giải quyết khiếu nại tố cáo và thanh tra, xử lý vi phạm dối với hoạt động tạm giữ 68 3.5. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về quyền con người 70 3.6. Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất cho nhà tạm giữ, các phương tiện thông tin, liên lạc phục vụ cho công tác tạm giữ 71 KẾT LUẬN 73 TÀI LIỆU THAM KHẢO 75 5
  6. DANH MỤC BẢNG Bảng Trang Bảng 2.1. Số liệu giải quyết án hình sự trên địa bàn thành phố Bắc Ninh 47 Bảng 2.2: Bảng thống kê tình hình bắt giữ và phân loại từ năm 2015-2019 48 Bảng 2.3: Bảng thống kê tình hình giải quyết người bị tạm giữ từ năm 2015 - 2019 51 6
  7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự BPNC : Biện pháp ngăn chặn CQĐT : Cơ quan điều tra QCN : Quyền con người THTT : Tiến hành tố tụng TTHS : Tố tụng hình sự VKS : Viện kiểm sát XHCN : Xã hội chủ nghĩa 7
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong các mặt hoạt động của nhà nước, TTHS là quá trình tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Những hoạt động TTHS của các cơ quan có thẩm quyền THTT như áp dụng các BPNC, biện pháp cưỡng chế, tiến hành các hoạt động điều tra nhằm thu thập chứng cứ…có ảnh hưởng lớn và liên quan chặt chẽ với việc bảo đảm QCN của những người tham gia tố tụng, trong đó có người bị tạm giữ. Nếu pháp luật TTHS được áp dụng đúng căn cứ, đúng trình tự thủ tục thì QCN của người tham gia tố tụng nói chung, người bị tạm giữ nói riêng được bảo đảm và ngược lại. Thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh là thành phố đang trên đà phát triển các mặt về kinh tế, chính trị văn hóa xã hội. Thành phố Bắc Ninh là nơi giao thương kinh tế tương đối tấp nập, kéo theo đó là tình hình tội phạm trên địa bàn trong những năm vừa qua đã diễn ra tương đối phức tạp. Trong công tác phòng, chống tội phạm này, biện pháp tạm giữ trong TTHS thường xuyên được các cơ quan có thẩm quyền THTT trên địa bàn thành phố Bắc Ninh áp dụng để để kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn người phạm tội trốn tránh pháp luật, gây khó khăn, cản trở cho hoạt động TTHS. Về cơ bản, vấn đề bảo đảm QCN của người bị tạm giữ đã được các cơ quan có thẩm quyền THTT thực hiện một cách nghiêm túc theo quy định của pháp luật, QCN của người bị tạm giữ được tôn trọng và bảo vệ, giúp cho họ thực hiện tốt địa vị pháp lý của mình khi tham gia tố tụng. Tuy nhiên, thực tiễn thời gian qua trên địa bàn thành phố Bắc Ninh cũng cho thấy một số QCN của người bị tạm giữ chưa được bảo đảm thực hiện tốt, vẫn còn có những vi phạm như: không bảo đảm quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, hết thời hạn tạm giữ nhưng không có quyết định gia hạn tạm giữ, giam giữ chung người bị tạm giữ với người bị tạm giam, điều kiện ăn, ở, cấp tư trang 1
  9. cho người bị tạm giữ còn nhiều thiếu sót…Những vi phạm đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có những bất cập, hạn chế của pháp luật, cơ chế, nhận thức, thái độ của người THTT, các quy định về chế độ trách nhiệm của cơ quan, người THTT đối với người tham gia tố tụng…Do đó việc nghiên cứu một cách toàn diện về vấn đề bảo đảm QCN của người bị tạm giữ theo pháp luật TTHS Việt Nam trên địa bàn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh có ý nghĩa quan trọng nhằm góp ý hoàn thiện pháp luật TTHS có liên quan và nâng cao hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp luật trong bảo đảm QCN của người bị tạm giữ trên địa bàn trong thời gian tới. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh” làm luận văn cao học luật là cấp bách, thiết thực, mang lại nhiều ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu Trong khoa học pháp lý, QCN đã được các tác giả đề cập và tập trung làm rõ ở những khía cạnh khác nhau. Có thể nói, Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề bảo vệ QCN nói chung và QCN của người bị tạm giữ nói riêng. Đây là một vấn đề nhạy cảm cần được sự quan tâm và giải quyết một cách khéo léo của Đảng và nhà nước. Nhiều công trình khoa học đã tập trung nghiên cứu về QCN và và đảm bảo QCN nói chung, QCN của người bị tạm giữ nói chung và trong TTHS. Về bài báo, tham luận, có các bài viết: “Mấy ý kiến về bảo vệ con người trong TTHS Việt Nam” của PGS. TS Phạm Hồng Hải; “Bảo vệ QCN trong luật hình sự và TTHS Việt Nam” của Tiến sỹ Trần Quang Tiệp… Về luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ có nhiều luận văn nghiên cứu về vấn đề QCN của người bị buộc tội như: “Bảo đảm quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS Việt Nam” của tác giả Nguyễn Tiến Đạt; Đề tài luận văn thạc sỹ “Đảm bảo QCN của người bị tạm giữ, bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của tác giả Đoàn Văn Thuận”; “Một số vấn đề 2
  10. lý luận và thực tiễn về bảo vệ các QCN bằng pháp luật TTHS Việt Nam” của tác giả Nguyễn Như Hiển; “Bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong Luật TTHS Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)” của tác giả Nguyễn Phi Long; “Bảo đảm QCN trong TTHS đối với người bị tạm giữ, tạm giam (cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)” của tác giả Đào Thị Mai Phương; Luận án Tiến sĩ “Bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS Việt Nam” của tác giả Lại Văn Trình… Các tác giả nói trên cũng đã phân tích làm rõ QCN của người bị tạm giữ trong TTHS Việt Nam, có người đi sâu phân tích về việc bảo đảm thực hiện QCN; có người lại đi sâu nghiên cứu về các nguyên tắc của BLTTHS liên quan đến QCN và bảo đảm QCN… những kết quả của các công trình nghiên cứu này cũng là những kiến thức nền tảng quan trọng mà tác giả luận văn kế thừa có chọn lọc trong quá trình nghiên cứu đề tài của mình. Mặc dù vậy, có thể nói nghiên cứu về vấn đề bảo đảm QCN của người bị tạm giữ theo pháp luật TTHS từ thực tiễn một địa bàn nghiên cứu, cụ thể là tại thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh thì chưa có một công trình nào đề cập và nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm rõ lý luận về bảo đảm QCN của người bị tạm giữ và thực tiễn bảo đảm QCN của người bị tạm giữ trên địa bàn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh, từ đó đề xuất những giải pháp tăng cường bảo đảm QCN của người bị tạm giữ trên địa bàn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Với mục đích nghiên cứu đó, luận văn tập trung thực hiện các nhiệm vụ sau: - Một là, phân tích làm rõ các vấn đề lý luận về bảo đảm QCN của 3
  11. người bị tạm giữ theo pháp luật TTHS Việt Nam - Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng về bảo đảm QCN của người bị tạm giữ theo pháp luật TTHS Việt Nam trên địa bàn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. - Ba là, đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường bảo đảm QCN của người bị tạm giữ theo pháp luật TTHS Việt Nam trên địa bàn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu lý luận và thực tiễn về bảo đảm QCN của người bị tạm giữ theo pháp luật TTHS Việt Nam trên địa bàn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Tài liệu số liệu được lấy từ thực tiễn địa bàn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Luận văn nghiên cứu lý luận và thực tiễn về bảo đảm QCN của người bị tạm giữ theo pháp luật TTHS Việt Nam trên địa bàn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Luận văn không nghiên cứu về bảo đảm quyền của người bị tạm giữ hành chính. - Về địa bàn khảo sát: Luận văn khảo sát trên địa bàn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. - Về thời gian khảo sát: Trong thời gian 5 năm (2015 - 2019). - Về chủ thể bảo đảm quyền: Luận văn nghiên cứu về những chủ thể bảo đảm QCN của người bị tạm giữ trên địa bàn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. 5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin; dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh; Đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đảm bảo QCN nói chung và QCN của người bị tạm giữ nói riêng. Bên cạnh đó, quá trình nghiên cứu luận văn còn dựa trên phương pháp luận của khoa học khoa học 4
  12. pháp lý, khoa học điều tra hình sự… Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng để nghiên cứu luận văn: - Phương pháp so sánh. - Phương pháp phân tích và tổng hợp. - Phương pháp chuyên gia. - Phương pháp thống kê, điều tra xã hội học. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Đề tài góp phần bổ sung hoàn thiện hơn về vấn đề lý luận về quyền và bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực tiễn bảo đảm QCN nói chung và quyền của người bị tạm giữ nói riêng. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Đề tài luận văn nghiên cứu về đảm bảo QCN của người bị tạm giữ và qua đó để nâng cao hiệu quả bảo đảm QCN của người bị tạm giữ trong thời gian tới. Những quy định này cần được đảm bảo được hiện thực hóa trong cuộc sống. 7. Cơ cấu của luận văn Nội dung chính của luận văn được kết cấu làm 3 chương như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Chương 2: Tình hình, đặc điểm có liên quan và thực trạng bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trên địa bàn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trên địa bàn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. 5
  13. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Lý luận về quyền con người và quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam 1.1.1. Lý luận về quyền con người theo pháp luật tố tụng hình sự 1.1.1.1. Khái niệm quyền con người Vấn đề QCN bắt đầu được chính thức công khai thừa nhận từ sự thắng lợi của cách mạng tư sản, với nhiều thành tựu của khoa học và những tư tưởng lớn về QCN. Các bản Tuyên ngôn độc lập của Hoa kỳ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp, Luật về các quyền của Anh có thể nói là những văn bản đầu tiên đã đặt vấn đề về QCN, đặt những viên gạch lý luận về QCN. Chủ nghĩa Mác – Lê nin trên cơ sở kế thừa các học thuyết tiến bộ, khẳng định, đề cao con người và QCN. Những quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê nin đã tạo nền tảng để các dân tộc yếu thế vùng lên, qua đó tạo những đột phá trong cách mạng về QCN. Về khái niệm, định nghĩa, QCN được hiểu và định nghĩa khác nhau. Theo thống kê không chính thức, cho đến nay có đến gần 60 định nghĩa về QCN được công bố. Mỗi định nghĩa tiếp cận ở những góc độ khác nhau về QCN. Ở cấp bộ quốc tế, văn phòng cao ủy Liên hợp quốc về QCN (OHCHR) có đưa ra được một định nghĩa về QCN và được sử dụng tương đối rộng rãi. Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về QCN cũng cho rằng QCN là những đảm bảo về mặt pháp luật, pháp lý. Những đảm bảo này có vai trò đảm bảo cho các các nhân đơn lẻ và các nhóm bảo vệ họ khỏi những sự xâm hại đến nhân phẩm và các quyền tự do cơ bản khác. Xuất phát từ những quan niệm khoa học và đúng đắn về con người, C. Mác đã xác định: “Con người là “con người xã hội” là sự “tổng hòa các 6
  14. quan hệ xã hội” cho nên QCN thể hiện sâu sắc giá trị các quan hệ xã hội và hiển nhiên mang bản chất đó.” [6, tr. 11]. Từ điển Luật học đưa ra định nghĩa như sau: “Quyền của thành viên trong xã hội loài người – quyền của tất cả mọi người. Đó là nhân phẩm, nhu cầu, lợi ích và năng lực của con người được thể chế hóa (ghi nhận) trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia” [5, tr. 648]. Có nhiều định nghĩa về QCN đã được các nhà khoa học ở Việt Nam nêu ra. QCN luôn gắn với pháp luật, phải được pháp luật ghi nhận thừa nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật và QCN được nhà nước bảo vệ. Bảo vệ QCN là nghĩa vụ của nhà nước để bảo đảm tính bắt buộc chung của pháp luật được nhà nước ban hành. Các bản Hiến pháp (Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992) là những nấc thang ghi nhận và phát triển các quyền cũng như cơ chế bảo vệ các QCN ở Việt Nam. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã dành vị trí và nội dung rất quan trọng quy định về QCN. Theo Điều 14 – Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 quy định rõ: “Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các QCN, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; QCN, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” [14]. Bên cạnh Hiến pháp, nhà nước ta đã ban hành và quy định nhiều văn bản luật quan trọng như: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, BLHS, BLTTHS, Luật hôn nhân – gia đình, Luật khiếu nại tố cáo, Luật báo chí, Luật quốc tịch…ghi nhận QCN trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa của công dân, trong lĩnh vực dân sự, chính trị…đây là công cụ pháp lý quan trong để bảo vệ QCN ở Việt Nam. Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về QCN như vây, nhưng 7
  15. trước hết có thể hiểu QCN là những đặc quyền mà con người sinh ra là tự nhiên có. QCN ghi nhận rất nhiều QCN của con người. Đó có thể là quyền được sống. Quyền được sống có thể nói là quyền con người quan trọng nhất. Bên cạnh đó là quyền được bảo vệ. Và ngoài ra còn là quyền được tự do phát triển của con người. Những quyền này phải được pháp luật ghi nhận một cách cụ thể thì mới chính thức là QCN. 1.1.1.2. Khái niệm quyền con người trong tố tụng hình sự Trong mỗi quốc gia, QCN trong TTHS là có thể nói là nội dung cơ bản và thể hiện cụ thể của QCN nói chung của quốc gia đó trong lĩnh vực TTHS. Ở nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, QCN trong TTHS được ghi nhận tại Hiến pháp 2013 – đạo luật cao nhất của nhà nước và được cụ thể hóa trong các quy định của BLTTHS năm 2015 như sau: Điều 8 - Tôn trọng và bảo vệ QCN, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; Điều 9 - Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật; Điều 10 - Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể; Điều 11 - Bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân; danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân; Điều 12 - Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân; Điều 13 - Suy đoán vô tội; Điều 14 - Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm; Điều 15 - Xác định sự thật của vụ án; Điều 16 - Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự… Những QCN trong TTHS cho thấy những quy định của pháp luật về QCN trong TTHS thể hiện mối quan hệ pháp lý chặt chẽ giữa nhà nước với các chủ thể tham gia trong quan hệ pháp luật TTHS mà bản chất của nó là cả nhà nước và các chủ thể này đều có quyền và nghĩa vụ đối với nhau và nếu vi phạm thì đều phải chịu trách nhiệm pháp lý như nhau. Có thể thấy quyền công dân chính là những QCN cụ thể trên tất cả mọi lĩnh vực được pháp luật quốc gia ghi nhận. Và trong lĩnh vực TTHS thì 8
  16. xuất hiện những QCN trong lĩnh vực TTHS cần được bảo vệ. Không phải mọi QCN, quyền công dân đều có thể bị xâm phạm trong hoạt động TTHS, chỉ có những QCN trong lĩnh vực TTHS mới có thể cần phải được bảo vệ vì bị xâm phạm. Để phân biệt, giới hạn được phạm vi các QCN cần được bảo vệ trong TTHS với QCN nói chung và quyền công dân nói riêng cần xác định được đối tượng của QCN trong TTHS và xác định được lĩnh vực của QCN trong TTHS. Nhận thức đúng điều này mới có thể tiến hành đúng đắn, hiệu quả hoạt động bảo vệ QCN trong TTHS. Trong TTHS, có nhiều chủ thể khác nhau tham gia với vai trò, địa vị pháp lý tố tụng khác nhau. Có nhóm chủ thể là chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng, có nhóm chủ thể chỉ là chủ thể tham gia. Trong mối tương quan chung về địa vị pháp lý, có thể thấy có những chủ thể thuộc nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương như người bị buộc tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) và tiếp theo là quyền của những người tham gia TTHS khác như: nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người làm chứng, người bị hại, người bào chữa… Người bị buộc tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) mặc dù là những đối tượng có thế phải trách nhiệm hình sự nhưng họ vẫn được hưởng những QCN cơ bản nhất là: quyền không bị tra tấn, đánh đập khi bị giam, giữ, được xét xử công bằng, điều tra khách quan, quyền được tôn trọng về nhân phẩm… Quyền con người trong TTHS được hiểu như sau: Quyền con người trong TTHS là các quyền dân sự, chính trị của các chủ thể TTHS, mà chủ yếu là người tham gia tố tụng về bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tôn trọng danh dự nhân phẩm...của họ trong TTHS, bảo vệ họ khỏi sự lạm quyền và tùy tiện của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. 1.1.2. Người bị tạm giữ và quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam 1.1.2.1. Người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam Điều 59 BLTTHS năm 2015 quy định về người bị tạm giữ như sau: 9
  17. “Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ” [15]. Sau khi một người bị bắt quả tang, bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người đó tự thú, đầu thú hoặc bị bắt theo quyết định truy nã thì biện pháp ngăn chặn tiếp theo được áp dụng là biện pháp tạm giữ. Do vậy, trước khi trở thành người bị tạm giữ, người đó có thể là người bị bắt quả tang, người đó có thể là người bị bắt truy nã, người đó có thể bị giữ khẩn cấp hoặc tự thú, đầu thú. Bên cạnh là người chưa bị khởi tố về hình sự, bị can, bị cáo cũng có thể trở thành người bị tạm giữ trong trường hợp họ là bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã và sau đó bị tạm giữ. Những người này khi bị tạm giữ sẽ bị hạn chế, tước bỏ một số quyền tự do nhất định. Do vậy QCN của họ cần được chú ý đảm bảo, không để cho các chủ thể có thẩm quyền vi phạm QCN của họ. Từ quy định của BLTTHS 2015, người bị tạm giữ trong TTHS được hiểu như sau: Người bị tạm giữ là người bị cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ nhằm hạn chế một số quyền tự do của họ trong một khoảng thời gian nhất định sau khi người đó tự thú, đầu thú hoặc bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã. Như vậy, một người để trở thành người bị tạm giữ cần đảm bảo hai vấn đề sau đây: Thứ nhất, người đó là người đã tự thú, đầu thú hoặc đã bị áp dụng các BPNC như bị giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã. Theo Điều 4 BLTTHS năm 2015, người phạm tội tự thú là việc người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm 10
  18. tội của mình trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện. Người phạm tội đầu thú là việc người phạm tội sau khi bị phát hiện đã tự nguyện ra trình diện và khai báo với cơ quan có thẩm quyền về hành vi phạm tội của mình. Theo Điều 110 BLTTHS năm 2015, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp được hiểu là người đã bị cơ quan có thẩm quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp vì có căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, hay vì người đó đã thực hiện tội phạm mà có dấu hiệu bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Theo quy định tại Điều 110 BLTTHS, có 3 trường hợp giữ người trong trường hợp khẩn cấp: Trường hợp một người đang chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng; Trường hợp một người đã thực hiện tội phạm và có người đã chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đó đã phạm tội và cơ quan, người có thẩm quyền xem xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn; Trường hợp thấy có dấu vết tội phạm ở người, tại nơi ở, nơi làm việc, địa điểm của người bị nghi thực hiện tội phạm và cơ quan, người có thẩm quyền xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Theo quy định của BLTTHS năm 2015, người bị bắt theo quyết định truy nã là bị can, bị cáo hoặc người chấp hành án đang bỏ trốn và cơ quan có thẩm quyền đã có quyết định truy nã để bắt họ. Như vậy, trước khi trở thành người bị tạm giữ thì người phải có hành vi tự thú, đầu thú, hoặc đã bị áp dụng các BPNC như trên. Thứ hai, về hình thức, người đó đã bị cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ. Theo quy định của BLTTHS năm 2015, người có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ gồm: Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương; Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp; Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành 11
  19. phố trực truộc trung ương; Đồn trưởng Đồn biên phòng; Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển; Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng; Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng; Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển. Tóm lại, phải đảm bảo đồng thời hai vấn đề trên thì một người mới trở thành người bị tạm giữ trong TTHS. Có nghĩa là không phải tất cả người phạm tội tự thú, đầu thú hay người bị giữ khẩn cấp, người bị bắt quả tang, bị bắt truy nã đều trở thành người bị tạm giữ. Những người này chỉ trở thành người bị tạm giữ nếu cơ quan, người có thẩm quyền xem xét thấy cần thiết và có thể áp dụng biện pháp tạm giữ theo quy định của BLTTHS. Có nhiều trường hợp người phạm tội tự thú, đầu thú, người phạm tội bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt quả tang, bắt truy nã nhưng không bị tạm giữ. Người tự thú nếu cơ quan có thẩm quyền xét thấy họ phạm tội ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, không có ý thức chống đối, gây cản trở cho hoạt động TTHS thì cũng không cần thiết phải áp dụng BPNC, do đó không nhất thiết phải tạm giữ. Người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang nhưng sau khi lấy lời khai kiểm tra xác minh thì nếu xét thấy hành vi không cấu thành tội phạm (ví dụ gây nguy hiểm không đáng kể; do phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ; không đủ năng lực trách nhiệm hình sự…) thì cơ quan có thẩm quyền không được tạm giữ mà phải trả tự do. Theo quy định của BLTTHS, sau khi bắt người đang bị truy nã, cơ quan có thẩm quyền phải lấy lời khai ngay, sau khi lấy lời khai thì phải thông báo để cơ quan có thẩm quyền đến ngay để nhận người bị bắt. Như 12
  20. vậy, người bị bắt theo quyết định truy nã chỉ bị tạm giữ nếu CQĐT đã ra quyết định truy nã không thể đến nhận ngay người bị bắt, lúc này, CQĐT đang giữ người mới phải ra quyết định tạm giữ [15]. 1.1.2.2. Quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam - Khái niệm quyền con người của người bị tạm giữ Quyền con người của người bị tạm giữ trong TTHS là tập hợp các quyền dân sự, chính trị nhằm mục đích khẳng định danh dự nhân phẩm của con người trong mọi hoàn cảnh, bảo vệ các cá nhân khỏi sự tùy tiện và sự lạm quyền của các cơ quan và nhân viên nhà nước trong các hoạt động TTHS. Theo các văn bản pháp lý quốc tế về QCN thì QCN của người bị tạm giữ về cơ bản là quyền an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm… của cá nhân khi họ tham gia tố tụng với tư cách người bị tạm giữ. Từ những phân tích trên, khái niệm QCN trong TTHS đối với người bị tạm giữ có thể hiểu như sau: QCN trong TTHS của người bị tạm giữ là tổng hợp các quyền dân sự, chính trị nhằm mục đích khẳng định việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tôn trọng danh dự nhân phẩm…của người bị tạm giữ trong TTHS. - Phạm vi quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật TTHS Việt Nam Quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật TTHS Việt Nam được thể hiện ở 2 phạm vi sau đây: + Quyền con người, quyền công dân chung của người bị tạm giữ: Quyền con người, quyền công dân nói chung của người bị tạm giữ được ghi nhận trong Hiến pháp và được cụ thể hóa bởi các nguyên tắc chung của BLTTHS năm 2015. Trong số 27 nguyên tắc cơ bản của luật TTHS được quy định trong BLTTHS năm 2015 thì những nguyên tắc sau đây thể hiện rõ nhất QCN nói chung của người bị tạm giữ: . Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2