Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh
lượt xem 5
download
Mục đích nghiên cứu của đề tài là góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về HĐXX sơ thẩm vụ án hình sự và đánh giá thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về HĐXX sơ thẩm vụ án hình từ thực tiễn TP.HCM. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp đảm bảo cho HĐXX thực hiện đúng các quy định của pháp luật TTHS.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN TUẤN ANH HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2020 ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN TUẤN ANH HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8 38 01 04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN TẤT VIỄN Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2020.
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân tôi, được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu tổng hợp lý thuyết, khảo sát tình hình thực tiễn và dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Nguyễn Tất Viễn. Luận văn này chưa từng được công bố. Tp. Hồ Chí Minh, ngày 22 tháng 3 năm 2020 Học viên Nguyễn Tuấn Anh
- MỤC LỤC Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng biểu MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ .......................................................................... 7 1.1 Khái quát chung về Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự .................. 7 1.2. Đặc trưng mô hình tố tụng hình sự ở Việt Nam và sự khác biệt mô hình tố tụng hình sự so với một số nước ................................................................. 20 Tiểu kết chương 1........................................................................................ 27 Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.......................................................................................................... 28 2.1. Khái quát các quy định pháp luật về Hội đồng xét xử từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật TTHS năm 2015 .............................................. 28 2.2. Các quy định về Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo Bộ luật TTHS năm 2015 .......................................................................................... 33 2.3. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về hội đồng xét xử vụ án hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh ................................................................... 41 Tiểu luận Chương 2 ..................................................................................... 56 Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ............................................................................................. 57 3.1. Yêu cầu thực hiện các quy định pháp luật về Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự .................................................................................................... 57 3.2. Một số giải pháp bảo đảm thực hiện đúng các quy định pháp luật về Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ............................................................. 64 KẾT LUẬN ................................................................................................ 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 76
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự TTHS Tố tụng hình sự HĐXX Hội đồng xét xử XHCN Xã hội chủ nghĩa BLHS Bộ luật Hình sự TP.HCM Thành phố Hồ Chí Minh
- DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Số hiệu Tên bảng Trang bảng Bảng thống kê kết quả thụ lý và giải quyết các vụ án Bảng 2.1 hình sự sơ thẩm tại TAND TP.HCM từ năm 2015 đến 45 2019 Bảng thống kê kết quả thụ lý và giải quyết các vụ án Bảng 2.2 hình sự sơ thẩm tại TAND cấp huyện từ năm 2015 đến 47 2019. Số lượng biên chế Thẩm phán ngành Tòa án nhân dân 48, 49 Bảng 2.3 hai cấp Thành phố Hồ Chí Minh tính đến tháng 6/2019 Bảng 2.4 Chất lượng Thẩm phán ngành Tòa án nhân dân hai cấp 50, 51 Thành phố Hồ Chí Minh tính đến tháng 6/2019
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Quá trình giải quyết vụ án hình sự là một quá trình liên tục, trải qua nhiều giai đoạn tố tụng khác nhau như: Khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Mỗi giai đoạn tố tụng đều có những đặc điểm và nhiệm vụ riêng do một cơ quan nhất định thực hiện, các cơ quan này được gọi là cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án). Suy cho cùng, hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đều hướng tới chất lượng xét xử thông qua phiên tòa, thể hiện bằng bản án nghiêm minh, đúng pháp luật và được xã hội đồng tình. Để đạt được điều đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có trách nhiệm và quyền hạn của Hội đồng xét xử để các quy định pháp luật có tính khả thi khi áp dụng. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, tiếp theo đó là Kết luận số 79-KL/TW của Bộ Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của toà án, viện kiểm sát và cơ quan điều tra theo Nghị quyết 49-NQ/TW và Kết luận số 92-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, là bước ngoặt quan trọng trong công cuộc cải cách tư pháp. Theo đó, xác định Tòa án là khâu trung tâm của quá trình cải cách tư pháp, xét xử là khâu trọng tâm của toàn bộ hoạt động tư pháp. Bởi lẽ, thực chất hiệu quả của hoạt động tư pháp thể hiện chủ yếu ở hoạt động xét xử tại phiên tòa của HĐXX bằng bản án hay quyết định của Tòa án. Trong số các quan điểm và chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp thì chủ trương đề cao vai trò của Tòa án trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN là cấp thiết. Theo đó, về mặt nhận thức cũng như quá trình tổ chức thực tiễn và xây dựng, hoàn thiện pháp luật phải đảm bảo để Tòa án thực sự đóng vai trò là trung tâm của hệ thống tư pháp, hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động trọng tâm của tố tụng hình sự (TTHS) ở nước ta mà cụ thể là Hội đồng xét xử.
- Như vậy, khâu đầu tiên trong các nỗ lực này là vấn đề nhận thức, trên cơ sở đó để triển khai các giải pháp tổ chức, hoạt động thực tiễn và hoàn thiện pháp luật mà trọng tâm là pháp luật về TTHS. Thực tiễn công tác triển khai cải cách tư pháp những năm qua, kể từ khi có Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị cho thấy mặc dù đã đạt được những nhận thức chung về vị trí, vai trò của Tòa án trong hệ thống tư pháp, cũng như trong TTHS nhưng vẫn chưa có những chuyển biến tích cực trên thực tiễn. Tình hình này do nhiều nguyên nhân nhưng trước hết là nhận thức lý luận về "khâu trung tâm" của hệ thống tư pháp. Từ đó, đang thiếu những cơ sở pháp lý nhằm chuyển hóa ý chí và nhận thức thành những cơ chế pháp lý, những đảm bảo về chức năng, thẩm quyền và tổ chức cán bộ làm cho Tòa án thực sự đóng vai trò là trung tâm và hoạt động xét xử thực sự là hoạt động trọng tâm. Hiến pháp năm 2013 đã chính thức quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Cùng với đó, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 được ban hành để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với hệ thống pháp luật. Ngày 27/11/2015, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018. Đây là một trong những đạo luật quan trọng về tố tụng tư pháp liên quan trực tiếp đến quyền con người, quyền công dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013. Trong những năm qua, thực hiện các nghị quyết của Đảng, nhận thức của cán bộ, đảng viên và toàn xã hội về quyền tư pháp đã có những chuyển biến tích cực. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra, ngành Tòa án đã không ngừng nâng cao chất lượng trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, đặc biệt trong công tác xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm mà trọng tâm là nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa. Kết quả cho thấy, ngành Tòa án đã thực hiện tốt Trang 9/80
- chức năng, nhiệm vụ của mình, góp phần không nhỏ vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong thời kỳ mới. Tại Thành phố Hồ Chí Minh do đặc thù là đô thị đặc biệt, một trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ, đầu mối giao lưu và hội nhập quốc tế; có vị trí chính trị quan trọng của cả nước là đầu tàu, động lực, có sức hút lan tỏa lớn của vùng kinh tế trong điểm phía Nam. Bên cạnh đó, cũng là địa phương có số lượng các vụ án hình sự lớn hơn rất nhiều so với các tỉnh thành còn lại và chiếm tỷ lệ cao trên cả nước. Do đó, vị trí và vai trò của ngành Tòa án nhân dân hai cấp Thành phố Hồ Chí Minh trong việc thực hiện chức năng xét xử có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Tòa án. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đạt được, công tác thực hành quyền xét xử và thực hiện quyền tư pháp của Tòa án vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế nhất định. Trước tình hình đó, việc tiếp tục nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân hai cấp Thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh là rất cần thiết. Từ những lý do nêu trên, học viên lựa chọn đề tài “Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Từ khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực và trước đó là BLTTHS năm 2003, đã có một số công trình nghiên cứu về Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và một số nội dung có liên quan như: - TS. Uông Chu Lưu (Chủ nhiệm) Báo cáo Tổng hợp kết quả nghiên cứu Đề tài khoa học cấp Nhà nước “Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án Trang 10/80
- trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân”, Mã số: KX.04.06; Bộ Tư pháp, Hà Nội 2006; - Luận án tiến sỹ của Nguyễn Duy Giảng “Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp”, bảo vệ tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014; - Sách“Trình tự thủ tục giải quyết các vụ án hình sự” của Mai Thanh Hiếu và Võ Chí Công, 2005, Nxb Lao động, Hà Nội; - Sách “Cẩm nang pháp luật và nghiệp vụ dành cho Hội thẩm trong xét xử các vụ án hình sự”, Vũ Hoài Nam (2014), Nxb Tư pháp, Hà Nội. - Luận văn Thạc sĩ luật học“Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án nhân dân (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)”, của Tạ Thị Ngọc Điệp (2015), Khoa Luật - Đại học Quốc Gia Hà Nội; - Luận văn Thạc sĩ luật học “Áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân (qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa)”, của Đàm Cảnh Long (2012), Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; - Luận án tiến sỹ luật học “Xét xử sơ thẩm hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”, của Lê Thanh Phong (2018), Học viện Khoa học xã hội; - Luận văn thạc sĩ luật học “Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng”, của Nguyễn Thị Thùy Trang (2018), Học viện Khoa học xã hội; - “Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam”, của Hà Duy Hiển (2016), luận văn thạc sĩ luật học - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; - Luận văn thạc sĩ luật học “Vị trí, vai trò của Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự”, Hà Anh Tuấn (2014), Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Nhìn chung, các bài viết, các công trình nghiên cứu nêu trên đã góp phần tạo ra những cơ sở lý luận và chỉ ra những vấn đề thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật về một số nội dung có liên quan đến HĐXX sơ thẩm vụ án hình sự tại Trang 11/80
- Tòa án. Tuy nhiên, các công trình này trong phạm vi giới hạn nghiên cứu của mình chưa tập trung vào nghiên cứu về Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về HĐXX sơ thẩm vụ án hình sự và đánh giá thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về HĐXX sơ thẩm vụ án hình từ thực tiễn TP.HCM. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp đảm bảo cho HĐXX thực hiện đúng các quy định của pháp luật TTHS. Với mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu được xác định như sau: - Phân tích làm rõ các vấn đề lý luận về HĐXX sơ thẩm vụ án hình sự. - Đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về HĐXX sơ thẩm vụ án hình sự và tình hình thực hiện tại Tòa án nhân dân hai cấp TP.HCM. - Đề xuất một số giải pháp để đảm bảo áp dụng đúng các quy định pháp luật TTHS về HĐXX sơ thẩm vụ án hình sự. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là: Hoạt động của HĐXX sơ thẩm vụ án hình sự. Về phạm vi nghiên cứu: - Về nội dung: Địa vị pháp lý và hoạt động của HĐXX; - Về không gian nghiên cứu: Tòa án cấp huyện ở TP.HCM và Tòa án nhân dân TP.HCM. - Thời gian nghiên cứu: Trong giai đoạn từ năm 2015 - 2019. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trang 12/80
- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong nghiên cứu là: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, logic, thống kê… 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Những kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo cho các cơ quan hữu quan trong quá trình nghiên cứu hoàn thiện chế định về HĐXX sơ thẩm vụ án hình sự trong Tòa án, luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác giảng dạy và hướng dẫn nghiệp vụ xét xử trong thực tiễn. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương: *Chương 1: Những vấn đề lý luận về Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. *Chương 2: Pháp luật về Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng tại Thành phố Hồ Chí Minh *Chương 3: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định pháp luật về Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm của Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 1.1.1. Khái niệm Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Hội đồng xét xử (HĐXX) là thuật ngữ pháp lý thường gặp trong hoạt động tư pháp. Một trong những chức năng quan trọng của HĐXX là nhân danh Nhà nước xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại, hôn nhân và gia đình…; qua đó, thiết lập lại các quan hệ xã hội bị xâm hại, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tổ chức và cá nhân. Tuy nhiên, cho đến nay khái niệm về HĐXX vẫn chưa được làm rõ trong các văn bản quy Trang 13/80
- phạm pháp luật hiện hành, đây là vấn đề cần đặt ra trong quá trình cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền mà Đảng ta đang chỉ đạo thực hiện. Về thuật ngữ pháp lý “Hội đồng xét xử”, theo các tài liệu khoa học, hiện nay có các giải thích sau: “HĐXX gồm các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử một vụ án hình sự hoặc một vụ kiện dân sự…”. [46] “Theo tinh thần của BLTTHS và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân thì việc xét xử do một tập thể quyết định gọi là HĐXX thực hiện. Việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự…”. “Hội đồng gồm các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân do Tòa án có thẩm quyền lập ra để nhân danh Nhà nước trực tiếp xét xử tại phiên tòa các vụ án và ra bản án hoặc quyết định đối với các vụ án. Pháp luật quy định cụ thể thành phần của HĐXX xét xử…”. [45, tr.225]. Các tác giả nêu trên đã không đưa ra khái niệm trực tiếp về HĐXX nhưng thông qua cách giải thích về thành phần, chức năng xét xử, thẩm quyền thành lập… để đưa ra một cách gián tiếp khái niệm về HĐXX. Theo quy định pháp luật hiện hành có liên quan: tại Điều 10 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, quy định: “Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn. Thành phần HĐXX ở mỗi cấp xét xử do luật tố tụng quy định”. Liên quan đến thành phần HĐXX, tại Điều 254 BLTTHS năm 2015 quy định về thành phần HĐXX: “1. HĐXX sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm. Trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm. Đối với vụ án có bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân, tử hình thì Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm. 2. Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba Thẩm phán.” Trang 14/80
- Theo đó, chúng ta có thể thấy rằng: Không phải lúc nào cũng có sự tham gia của Hội thẩm vào HĐXX mà chỉ trong trường hợp xét xử ở cấp sơ thẩm thì sự tham gia của Hội thẩm với tư cách thành viên HĐXX là bắt buộc; còn đối với cấp xét xử phúc thẩm, pháp luật quy định sự tham gia của Hội thẩm vào HĐXX chỉ trong trường hợp cần thiết. Xét xử sơ thẩm là xét xử lần đầu một vụ án theo thẩm quyền của từng cấp Tòa án. Sau khi có bản án sơ thẩm, bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại và đương sự, có thể kháng cáo hoặc Viện kiểm sát có thể kháng nghị bản án của Tòa án, khi đó vụ án sẽ được xét xử phúc thẩm. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, xét xử sơ thẩm được xác định là một giai đoạn kết thúc một vụ án hình sự, mọi chứng cứ của vụ án do cơ quan điều tra thu thập được trong quá trình điều tra đều được xem xét công khai tại phiên tòa, người tham gia tố tụng được nghe trực tiếp lời khai của nhau, được tranh luận những điều mà tại cơ quan điều tra không có điều kiện thực hiện. Do đó, có thể nói xét xử sơ thẩm là trung tâm của quyền tư pháp, đòi hỏi những người tiến hành tố tụng phải tập trung trí tuệ, xử lý các tình huống một cách mau lẹ, các lý lẽ đưa ra không chỉ đòi hỏi sự chính xác mà phải có sức thuyết phục và đồng thời phải tuân theo những quy định của pháp luật. Thông qua chất lượng xét xử tại phiên tòa có thể đánh giá được trình độ nghiệp vụ của Thẩm phán, của Hội thẩm, của Kiểm sát viên, của Luật sư và những người tham gia tố tụng khác. Như vậy, HĐXX sơ thẩm vụ án hình sự, gồm Thẩm phán và Hội thẩm là những người được cơ quan có thẩm quyền bổ nhiệm theo quy định của pháp luật và có nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm tiến hành xét xử lần đầu các vụ án hình sự của Tòa án theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định. 1.1.2. Vị trí, vai trò của Hội đồng xét xử sơ thẩm HĐXX sơ thẩm vụ án hình sự gồm Thẩm phán và Hội thẩm là những người được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm theo quy định của pháp Trang 15/80
- luật có nhiệm vụ, quyền hạn của Nhà nước, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của xã hội, của tổ chức và công dân. Về bản chất, đây là hoạt động giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhằm xác định trách nhiệm hình sự của người đó, có thể đưa đến một hậu quả pháp lý bất lợi cho người bị xét xử cũng như những người khác có liên quan. Bản án, quyết định của Tòa án phải đảm bảo chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Do đó, pháp luật quy định các thủ tục xét xử ở các cấp khác nhau nhằm nhằm mục đích giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, bảo đảm các nhiệm vụ cơ bản của TTHS. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được xác định như là một công đoạn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nhưng là một công đoạn đặc biệt quan trọng. Việc xét xử sơ thẩm chỉ được tiến hành khi cơ quan điều tra đã điều tra vụ án, Viện kiểm sát đã truy tố bị can ra trước Tòa án bằng bản cáo trạng. Trên cơ sở hồ sơ vụ án và quyết định truy tố do Viện kiểm sát chuyển sang, Tòa án có thẩm quyền xét xử lần đầu tiên sẽ nghiên cứu để quyết định có đưa vụ án ra xét xử hay không? Như vậy, vụ án hình sự lần đầu tiên sẽ được đưa ra xem xét công khai tại phiên tòa. Tất cả các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong giai đoạn điều tra cùng với các chứng cứ mới được đưa ra tại phiên tòa sẽ được kiểm tra, xem xét một cách khách quan, toàn diện, trực tiếp, công khai tại phiên tòa. Nếu như bản kết luận điều tra của Cơ quan điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát chỉ là những kết luận sơ bộ về vụ án thì bản án của Tòa án mới là kết luận chính thức và công khai về việc bị cáo có tội hay không có tội? Nếu có tội thì bị cáo phạm tội gì? theo quy định tại điều nào, khoản nào của BLHS? và mức hình phạt cụ thể được áp dụng đối với bị cáo. Với vị trí là hoạt động trung tâm của quá trình giải quyết vụ án hình sự, giai đoạn xét xử có mối quan hệ chặt chẽ với các giai đoạn tố tụng khác. Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng, là cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt động tố tụng tiếp theo, cụ thể là cơ sở để Cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định truy Trang 16/80
- tố và có như vậy, Tòa án mới tiến hành xét xử được. Tuy nhiên, các hoạt động trong giai đoạn khởi tố, điều tra chỉ nhằm thu thập chứng cứ phục vụ cho việc xét xử tại Tòa án. Giai đoạn thi hành án chỉ có thể được thực hiện khi Tòa án đã ra phán quyết bằng bản án hay quyết định có hiệu lực pháp luật. Trên cơ sở các quy định pháp luật hiện hành, chúng ta có thể đưa ra các đặc trưng pháp lý của HĐXX như sau: - Một là, HĐXX là tập thể những người do Thẩm phán được phân công làm Chủ tọa phiên tòa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử thành lập theo sự phân công của Chánh án; - Hai là, thành phần HĐXX bao gồm: Thẩm phán, có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân hay Hội thẩm quân nhân tùy theo phiên tòa; - Ba là, HĐXX chịu sự điều hành của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa. - Bốn là, HĐXX có chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại, hôn nhân và gia đình…, tại các phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm đều quyết định theo nguyên tắc đa số; đồng thời thực hiện các chức năng khác theo quy định pháp luật. Ngoài ra, số lượng, thành phần của HĐXX trong pháp luật TTHS còn phụ thuộc vào tính chất nghiêm trọng, phức tạp của vụ án. Về mặt lý luận, vị trí và vai trò của một chủ thể quan hệ pháp luật (tổ chức, cá nhân) được hiểu là tổng hợp các quy định của pháp luật làm cơ sở cho sự tồn tại, tổ chức và hoạt động, cũng như thực hiện chức năng, nhiệm vụ của chủ thể đó, làm căn cứ để phân biệt chủ thể đó với các chủ thể khác. Vị trí, vai trò của HĐXX xử sơ thẩm về nguyên tắc phải thống nhất, không thể tách rời vị trí, vai trò của các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong hoạt động TTHS, để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan tiến hành tố tụng không thể hoạt động tập thể mà phải thông qua các cá nhân đại diện thường xuyên. Những cá nhân này trong cơ quan Tòa án là Chánh án, Phó Trang 17/80
- Chánh án, Thẩm phán và Hội thẩm được phân công thực hiện nhiệm vụ trong từng giai đoạn tố tụng tương ứng mà pháp luật TTHS quy định. Việc xác định vị trí, vai trò của HĐXX sơ thẩm vụ án hình sự phải xuất phát từ vị trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của cơ quan tiến hành tố tụng. Nghĩa là với vị trí, vai trò của Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán và Hội thẩm được quy định bởi vị trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của Tòa án, cụ thể: ‘‘Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác” (Điều 1 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014). Theo đó, vị trí, vai trò của HĐXX sơ thẩm vụ án hình sự được xác định như sau: - Một là, HĐXX sơ thẩm là người duy nhất được Nhà nước giao trách nhiệm thực hiện các hành vi tố tụng trong hoạt động xét xử sơ thẩm do pháp luật quy định. Nói cách khác, HĐXX sơ thẩm là người nhân danh Nhà nước thực hiện các hoạt động xét xử theo quy định của pháp luật. Khi thực hiện nhiệm vụ chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. HĐXX có vai trò quan trọng, giữ vị trí trung tâm trong hoạt động tố tụng hình sự. Tư cách đạo đức, ý thức pháp luật, trình độ nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp của người tiến hành tố tụng trong HĐXX là những tiêu chí để người dân, dư luận xã hội đánh giá về bộ máy Nhà nước, về tính nghiêm minh của pháp luật trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. HĐXX khi tiến hành các hoạt động tố tụng chỉ được làm những gì pháp luật cho phép và phải tuân theo đúng trình tự, thủ tục, thời gian do pháp luật quy định; phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định của mình. HĐXX sơ thẩm có vị trí mang Trang 18/80
- tính độc lập cả về nhiệm vụ lẫn quyền hạn trong khi thực hiện các hoạt động tố tụng được giao. Khi họ thực thi nhiệm vụ, không ai, không cơ quan nào được can thiệp, tác động để có thể buộc họ làm trái pháp luật hay lấy quyền hành chính để thay thế, chỉ đạo hoạt động tố tụng của họ. Trong hệ thống những chức danh của bộ máy Nhà nước, chức danh tư pháp là chức danh đặc thù, chỉ do Nhà nước quy định và bổ nhiệm để làm nhiệm vụ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử... (như chức danh Điều tra viên chỉ có trong cơ quan điều tra để làm nhiệm vụ điều tra vụ án hình sự; chức danh Kiểm sát viên chỉ có trong hệ thống viện kiểm sát để thực hiện quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật; chức danh Thẩm phán chỉ có trong cơ quan Tòa án để làm nhiệm vụ xét xử...). Vì vậy, khi nói đến HĐXX sơ thẩm vụ án hình sự là nói đến người duy nhất có thẩm quyền thay mặt Nhà nước để tổ chức và thực hiện các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật TTHS. Trong quá trình giải quyết vụ án, Nhà nước trao cho HĐXX nói chung và HĐXX sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng trong tòa án những nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm để thực hiện chức năng xét xử, được quy định cụ thể trong BLTTHS năm 2015 (từ Điều 44 đến Điều 54). - Hai là, HĐXX sơ thẩm vụ án hình sự là hạt nhân của hoạt động tố tụng, tạo nên uy tín, sức mạnh của cơ quan tiến hành tố tụng. Nếu như hoạt động của tòa án là trung tâm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm, thì hoạt động của HĐXX sơ thẩm vụ án hình sự là hạt nhân của hoạt động tố tụng thông qua việc thực hiện chức năng xét xử của mình và tạo nên sức mạnh, uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng. Hiệu quả hoạt động của HĐXX sơ thẩm vụ án hình sự cũng chính là hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng. Tòa án có rất nhiều cán bộ, các chức danh tư pháp nhưng chỉ có Thẩm phán và Hội thẩm là người có thẩm quyền tố tụng để thực hiện chức năng xét xử. Chính vì thế, HĐXX sơ thẩm vụ án hình sự có vai trò đặc biệt quan trọng trong cơ quan tiến hành tố tụng, vì hoạt động của họ mang tính chất quyết định đến hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng Trang 19/80
- trước đó và trực tiếp tác động đến quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân. Do đó, nếu hiệu quả hoạt động xét xử tốt sẽ tạo nên dư luận xã hội tốt, tạo dựng được uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng và cao hơn nữa là sự tin tưởng vào tính nghiêm minh, công bằng của pháp luật. Ngược lại, nếu hiệu quả kém sẽ gây nên dư luận bất bình trong xã hội và làm suy giảm lòng tin của Nhân dân đối với cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng và đối với nhà nước XHCN Việt Nam nói chung. - Ba là, hoạt động của HĐXX nói chung và HĐXX sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng góp phần quyết định trong việc bảo vệ trật tự pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN. Việc áp dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử... là yêu cầu quan trọng nhất đối với HĐXX. Vì khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng đúng pháp luật thì việc phát hiện, xác định tội phạm và người phạm tội mới chính xác, xử lý nghiêm minh, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân. Đồng thời, hoạt động này có hiệu quả sẽ củng cố hiệu lực của pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN, nâng cao uy tín của bộ máy Nhà nước mà đại diện là các cơ quan bảo vệ pháp luật. Từ những phân tích nêu trên có thể thấy, HĐXX sơ thẩm vụ án hình sự có vị trí, vai trò rất quan trọng trong cơ quan tòa án, trong việc tổ chức xét xử để thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm. Do đó, trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã hết sức chú trọng đến việc củng cố, xây dựng và đào tạo những người tiến hành tố tụng trong HĐXX sơ thẩm vụ án hình sự không chỉ tăng về lượng, mà còn tăng về chất nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động tố tụng hình sự. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hiệu quả hoạt động của HĐXX sơ thẩm còn có những mặt hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được nhiệm vụ so với yêu cầu cải cách tư pháp trong thời kỳ mới đặt ra. Điều này có nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân cơ bản là quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của HĐXX sơ thẩm vụ án hình sự còn chưa cụ thể, dẫn đến tình trạng làm giảm vai Trang 20/80
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội
86 p | 322 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai
86 p | 75 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ
80 p | 188 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận
86 p | 138 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
83 p | 133 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam
84 p | 179 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội gây rối trật tự công cộng từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
85 p | 112 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
82 p | 46 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 60 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lào Cai
81 p | 124 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hoãn chấp hành hình phạt tù từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
92 p | 67 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước
102 p | 47 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
91 p | 39 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hình phạt cải tạo không giam giữ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
85 p | 60 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
88 p | 56 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh
86 p | 36 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Bị hại trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
77 p | 34 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội hủy hoại tài sản từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 32 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn