Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội
lượt xem 16
download
Luận văn trình bày các nội dung chính sau: Một số vấn đề chung về xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự; Thực trạng xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội; Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN XUÂN MINH HÀ PHÊ CHUẨN CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN XUÂN MINH HÀ PHÊ CHUẨN CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Ngành: Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8 38 01 04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN ANH TUẤN HÀ NỘI, 2021
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi thực hiện từ tháng 7 năm 2020 và hoàn thành vào tháng 2 năm 2021. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn là trung thực. Các kết quả nghiên cứu của luận văn không trùng với bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Nguyễn Xuân Minh Hà
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÉT PHÊ CHUẨN CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ...................... 9 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự ............................................................................................ 9 1.2. Các quy định về xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam ................................................................... 16 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG XÉT PHÊ CHUẨN CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI................................................................................................. 45 2.1. Những kết quả đạt được trong xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS từ thực tiễn thành phố Hà Nội .............................................. 45 2.2. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS từ thực tiễn thành phố Hà Nội ....................................................................... 54 CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA XÉT PHÊ CHUẨN CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............................................ 64 3.1. Hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản khác có liên quan đến xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn ............................................. 64 3.2. Các giải pháp khác ............................................................................. 67 KẾT LUẬN .................................................................................................... 72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 74
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Danh mục 1. BLHS Bộ luật Hình sự 2. BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự 3. CQĐT Cơ quan điều tra 4. ĐTV Điều tra viên 5. KSV Kiểm sát viên 6. TTHS Tố tụng hình sự 7. TA Tòa án 8. TAND Tòa án nhân dân 9. TANDTC Tòa án nhân dân tối cao 10. TAQS Tòa án quân sự 11. TTHS Tố tụng hình sự 12. VKS Viện kiểm sát 13. VKSND Viện kiểm sát nhân dân 14. VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao 15. VKSQS Viện kiểm sát quân sự
- DANH MỤC BẢNG, BIỂU Bảng 2.1. Tình hình thụ lý án hình sự trên địa bàn Thành phố Hà Nội.......... 48 từ năm 2016 đến năm 2020 ............................................................................. 48 Biểu đồ 2.1. Tình hình thụ lý án hình sự trên địa bàn Thành phố Hà Nội...... 49 từ năm 2016 đến năm 2020 ............................................................................. 49 Bảng 2.2. Tình hình xét phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp trong TTHS trên địa bàn Thành phố Hà Nội ................................... 51 từ năm 2016 đến năm 2020 ............................................................................. 51 Bảng 2.3. Tình hình VKS không phê chuẩn lệnh tạm giam và lệnh bắt tạm giam của CQĐT trên địa bàn Thành phố Hà Nội ........................................... 53 từ năm 2016 đến năm 2020 ............................................................................. 53
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong tiến trình cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 37/2012/QH13, ngày 23/11/2012; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005; Nghị quyết số 63/2013/QH13 ngày 27/11/2013; Nghị quyết số 111/2015/QH13 ngày 27/11/2015 và các Nghị quyết khác của Quốc hội đặt ra yêu cầu phải nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND), thực hiện gắn công tố với hoạt động điều tra; đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm; bảo đảm việc giải quyết các nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đúng quy định của pháp luật; không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Để thực hiện tốt các yêu cầu trên, một mặt phải đảm bảo hồ sơ vụ án khi được đưa ra truy tố, xét xử phải được điều tra một cách khách quan, toàn diện, chứng cứ thu thập được phải bảo đảm đầy đủ, rõ ràng, mọi tình tiết của vụ án phải được làm sáng tỏ, mặt khác phải đảm bảo đúng thủ tục tố tụng và hình thức của hồ sơ vụ án cũng được thiết lập theo đúng quy định của pháp luật. Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (gọi tắt là BLTTHS năm 2015) ra đời đã đánh dấu một bước tiến trong công tác lập pháp nói chung và trong công tác xây dựng pháp luật trong lĩnh vực tố tụng hình sự (TTHS) nói riêng. BLTTHS năm 2015 đã sửa đổi một cách tương đối toàn diện BLTTHS năm 2003 theo hướng tăng cường trách nhiệm và quyền hạn cho VKSND, cụ thể hóa các trách nhiệm và quyền hạn này một cách rõ nét hơn so với BLTTHS năm 2003. Viện kiểm sát (VKS) vẫn giữ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự. BLTTHS năm 1988 quy định các quyền và nhiệm vụ của VKS trong giai đoạn điều tra được tập trung chủ yếu ở Điều 141. Trong đó, không quy định phân biệt nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra và nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát điều tra. BLTTHS năm 2003 đã có sự phân biệt rõ giữa các nhóm nhiệm vụ, 1
- quyền hạn khi thực hành quyền công tố (Điều 112) và nhiệm vụ, quyền hạn khi kiểm sát điều tra (Điều 113). Trong đó, xác định quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra (CQĐT) theo quy định của BLTTHS là thuộc nhóm nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hành quyền công tố. Đến BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong 04 giai đoạn tố tụng bao gồm: khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử và chức năng công tố sớm hơn từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm với nhiều thẩm quyền. BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể hơn và chặt chẽ hơn về vai trò của VKS trong việc phê chuẩn các quyết định của CQĐT trong TTHS nói chung và các biện pháp ngăn chặn nói riêng. Đã tạo ra một cơ chế vừa có sự phân định rõ ràng nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐT và VKS vừa đảm bảo tính phối hợp, chế ước giữa hai cơ quan này nhằm đảm bảo cho việc giải quyết các vụ án hình sự được thực hiện đúng pháp luật. BLTTHS năm 2015 cũng quy định rõ về các biện pháp ngăn chặn bảo đảm cho việc giải quyết vụ án của cơ quan tiến hành tố tụng được thuận lợi; bảo đảm dân chủ, tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn đòi hỏi phải hết sức thận trọng, đúng căn cứ pháp luật mà pháp luật TTHS quy định. Thực tế chỉ ra rằng, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong TTHS không đúng không chỉ xâm phạm các quyền cơ bản của công dân, gây nên những khó khăn nhất định cho việc giải quyết vụ án hình sự, mà còn tạo dư luận xã hội không tốt và có thể dẫn đến những hậu quả như bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn của CQĐT đòi hỏi phải có sự phê chuẩn của VKS để đảm bảo việc thực hiện đúng pháp luật. VKSND với vai trò, chức năng, nhiệm vụ được quy định trong Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND năm 2014 có nhiệm vụ góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ Xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, 2
- danh dự, nhân phẩm của công dân… Một trong những nhiệm vụ được cụ thể hoá của ngành kiểm sát là công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án hình sự. VKS thể hiện quyền năng của mình rõ ràng nhất thông qua xét phê chuẩn các lệnh, quyết định của CQĐT. Xét phê chuẩn vừa thể hiện quyền năng vừa thể hiện trách nhiệm của VKS. Đồng thời cũng cần khẳng định rằng xét phê chuẩn là hoạt động đặc thù và duy nhất chỉ VKS mới có quyền phê chuẩn các quyết định của CQĐT trong TTHS. Các quy định và văn bản hướng dẫn về thủ tục phê chuẩn và xét phê chuẩn của VKSND nói chung và xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS nói riêng vẫn còn những khó khăn, vướng mắc dẫn đến ảnh hưởng đáng kể đến việc giải quyết các vụ án hình sự. Việc xem xét, đánh giá những ưu điểm và hạn chế trong xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS, làm rõ những nguyên nhân của tình trạng này để đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả xét phê chuẩn của VKS là một vấn đề bức thiết trong tình hình hiện nay. Nhận thức được điều đó, tác giả đã chọn vấn đề “Phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu luận văn của mình, nghiên cứu những vấn đề chung cũng như thực trạng xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS từ thực tiễn thành phố Hà Nội nói riêng để làm rõ vấn đề này. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Từ khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thi hành quy định về xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề này như sau: Thứ nhất, có thể kể đến các nghiên cứu có tính đại cương, cơ bản như: giáo trình giảng dạy của các trường đại học như cuốn Giáo trình Luật tố tụng hình sự của các trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Kiểm sát Hà Nội, Học viện An ninh nhân dân, Học viện Cảnh sát nhân dân; Bình luận khoa học BLTTHS Việt Nam năm 2003, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2004 của Bộ Tư pháp- Võ Khánh Vinh; Bình luận khoa học 3
- BLTTHS năm 2015, Nhà xuất bản Lao Động, 2018 của TS. Phạm Mạnh Hùng.... Các tài liệu này đã phân tích nội dung các quy định của BLTTHS trong đó có các quy định về việc phê chuẩn của VKS, hoạt động của các cơ quan có liên quan đến việc phê chuẩn của VKS. Các nghiên cứu có tính lý luận chung về chức năng của VKS như các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học: Một số ý kiến về tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế gắn công tố với hoạt động điều tra, Tạp chí kiểm sát số 16/2009; Nguyễn Tiến Sơn (2009), Phân biệt thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Tạp chí kiểm sát số 09/2009; Lê Ngọc Duy, Về chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước Việt Nam theo Hiến pháp năm 2013, Tạp chí kiểm sát số 14/2019... Những bài viết nêu trên nghiên cứu về các hoạt động của VKS trong thực hành quyền công tố, gắn công tố với điều tra. Đưa ra một số điểm hạn chế và đề xuất nhằm tăng cường trách nhiệm, nâng cao hiệu quả của hoạt động thực hành quyền công tố của VKS. Những nghiên cứu này đã phần nào làm rõ được một số vấn đề chung liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong xét phê chuẩn. Các nghiên cứu chuyên sâu về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS ở các phạm vi và mức độ khác nhau có liên quan đến xét phê chuẩn của VKS trong TTHS như luận văn “Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự” của tác giả Nguyễn Vũ Quang (2011), Luận văn thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội; “Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Vũ Thị Nhiên (2017), Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa Luật trường Đại học Quốc gia Hà Nội; “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn” của tác giả Nguyễn Hữu Tùng Lâm (2018), Luận văn thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội. Hay các sách chuyên khảo như: “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra” Lê Hữu Thể, Đỗ Văn Đương, Nông Xuân Trường (2005), NXB Tư pháp, Hà Nội; “Kỹ 4
- năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong Tố tụng hình sự” Học viện tư pháp (2006), NXB ĐHQG Hà Nội; “Tổng hợp những vướng mắc trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2003 liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát” Ban biên tập Tạp chí kiểm sát (2010), Tạp chí kiểm sát số chuyên đề tháng 12/2010; “Hướng dẫn, chỉ dẫn BLTTHS năm 2015”, TS. Lại Viết Quang (2019), NXB Thông tin và truyền thông... Những luận văn, sách chuyên khảo trên không trực tiếp nghiên cứu về xét phê chuẩn của VKS trong TTHS nhưng đã làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nội dung, căn cứ pháp luật, thủ tục tiến hành đề nghị phê chuẩn và phê chuẩn của VKS đối với quyết định của CQĐT. Các công trình trên cũng đưa ra một số những hạn chế, bất cập trong việc áp dụng pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động TTHS nói chung, hoạt động thực hành quyền công tố của VKS nói riêng. Các nghiên cứu trên về xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS đã có những đóng góp khoa học nhất định và đáng trân trọng cả về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, hiện nay chưa có đề tài khoa học nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về mặt lý luận, cũng như đưa ra các giải pháp toàn diện cho những khó khăn, vướng mắc trên thực tế của xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS từ thực tiễn thành phố Hà Nội. Xuất phát từ tình hình nghiên cứu như trên cho thấy cần phải có nghiên cứu về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật TTHS đối với xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong quá trình thực hành quyền công tố trên địa bàn thành phố Hà Nội và đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện vấn đề này. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu, luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề chủ yếu sau: nghiên cứu những vấn đề lý luận về xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS; nghiên cứu pháp luật TTHS về xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn; nghiên cứu thực tiễn phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS từ thực tiễn thành phố Hà Nội. 5
- - Phạm vi nghiên cứu: + Về lý luận: Luận văn làm sáng tỏ bản chất pháp lý của xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong luật TTHS Việt Nam; xây dựng khái niệm khoa học về xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS và ý nghĩa của hoạt động này trong TTHS. + Về pháp luật: Luận văn tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản của pháp luật TTHS về xét phê chuẩn của VKS đối với các biện pháp ngăn chặn của CQĐT cần có sự phê chuẩn của VKS trong TTHS ở Việt Nam. + Về thực trạng xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS từ thực tiễn thành phố Hà Nội: Nghiên cứu thực trạng xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2016 đến năm 2020. + Về kiến nghị: Tập trung vào kiến nghị hoàn thiện pháp luật TTHS về xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn. 4. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu về lý luận và thực tiễn xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS, luận văn kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này. Để đạt được mục đích trên, tác giả xác định nhiệm vụ cụ thể của luận văn là: - Nghiên cứu, làm rõ khái niệm và ý nghĩa của xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS; - Khái quát pháp luật TTHS về xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn từ năm 1945 đến trước BLTTHS năm 2015 để thấy được sự hình thành và phát triển của chế định này; - Nghiên cứu, phân tích quy định của BLTTHS năm 2015 về xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn nhằm tìm ra những bất cập trong quy định của pháp luật; 6
- - Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật TTHS về xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trên địa bàn thành phố Hà Nội để từ đó rút ra những kinh nghiệm, tìm ra những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn thi hành quy định của luật TTHS về xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn nói chung và xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn từ thực tiễn thành phố Hà Nội nói riêng; - Đề xuất các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả về xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học sau: Thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp, lịch sử, lý luận kết hợp với thực tiễn để nghiên cứu đề tài. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn đã có những đóng góp mới như sau: - Đã xây dựng được khái niệm khoa học về xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS; - Đã làm rõ được ý nghĩa pháp lý và chính trị-xã hội của xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS; - Đã phân tích được những quy định của pháp luật TTHS hiện hành về nội dung của xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn; - Đã phát hiện được một số hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng luật TTHS hiện hành về xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn từ thực tiễn thành phố Hà Nội; - Đã phân tích làm rõ thực trạng xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS từ thực tiễn thành phố Hà Nội, xác định được nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong hoạt động này; 7
- - Đã kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật TTHS đặc biệt là các quy định của BLTTHS năm 2015 và đưa ra một số giải pháp khác nhằm nâng cao chất lượng xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung chính của luận văn bao gồm 03 chương: - Chương 1: Một số vấn đề chung về xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự. - Chương 2: Thực trạng xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội. - Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội. 8
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÉT PHÊ CHUẨN CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự 1.1.1. Khái niệm xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Phê chuẩn là một từ gốc Hán Việt, theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học do Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản năm 1998 thì: “Phê chuẩn” là xét duyệt, đồng ý cho thi hành. Còn theo Từ điển luật học Nhà xuất bản từ điển bách khoa khái niệm phê chuẩn là: “Xét duyệt để cho phép sử dụng hoặc thực hiện một văn bản, công việc, vấn đề hay lĩnh vực nào đó”. Phê chuẩn còn được hiểu là: “Việc thực hiện quyền lực của cá nhân hoặc tổ chức có thẩm quyền (thường là cấp trên) chấp thuận một hay nhiều đề nghị, yêu cầu của cấp phụ thuộc (thường là cấp dưới) được ghi vào văn bản có ký tên hoặc ký tên và đóng dấu, cho phép cấp phụ thuộc được thực hiện yêu cầu, đề nghị đó. Phê chuẩn thường xuất hiện trong quá trình giải quyết những công việc chung của các cơ quan nhà nước, khi cấp phụ thuộc (tổ chức cá nhân) có một số yêu cầu về công việc cần thiết mà điều kiện tiên quyết để thực hiện yêu cầu đó là sự chấp thuận của cá nhân hoặc tổ chức có thẩm quyền, khi đó cấp phụ thuộc phải làm một văn bản như: tờ trình, đơn đề nghị, bản yêu cầu, dự thảo đề án, hiệp ước… gửi cho cá nhân hoặc tổ chức có thẩm quyền. Trong văn bản cấp phụ thuộc nêu rõ yêu cầu, lý do, nội dung, mục đích và các điều kiện thực hiện. Sau khi xem xét các văn bản đó, nếu thấy không trái với pháp luật và thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì cá nhân hoặc tổ chức có thẩm quyền phê vào văn bản đó yêu cầu của mình, có ký tên hoặc ký tên và đóng dấu cho phép hoặc không cho phép cấp phụ thuộc được thực hiện. Có thủ tục phê chuẩn toàn bộ hoặc chỉ phê chuẩn một hay một số yêu cầu đề nghị nào đó trong văn bản yêu cầu của cấp phụ thuộc. Phê chuẩn có giá trị pháp lý nếu các yêu cầu, đề nghị của cấp phụ thuộc được cá nhân hoặc tổ chức có thẩm quyền chấp thuận nằm trong các quy định của pháp 9
- luật hiện hành [34]. Các khái niệm trên về thuật ngữ “phê chuẩn” đều đề cập đến mối quan hệ quyền lực nhà nước giữa cơ quan có thẩm quyền giám sát, thẩm tra với cơ quan có thẩm quyền thi hành những hoạt động nhất định do pháp luật quy định phải chịu sự giám sát, thẩm tra thông qua thủ tục phê chuẩn. Biện pháp ngăn chặn là một loại biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự do các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng đối với người bị buộc tội khi các cơ quan, người có thẩm quyền này có căn cứ cho rằng những người này sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, giải quyết vụ án hình sự. Các BPNC là một trong những chế định pháp lý quan trọng có ý nghĩa to lớn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Việc nhận thức thống nhất, đồng thời các quy định và áp dụng đúng đắn các BPNC là bảo đảm cần thiết cho việc thực hiện tốt các nhiệm vụ của TTHS để phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. BLTTHS năm 2015 mặc dù không đưa ra khái niệm về biện pháp ngăn chặn, nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 109 BLTTHS năm 2015 thì: “ Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.” Các biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất, gây tác động, ảnh hưởng nhất định đến các quyền và lợi ích của đương sự, thậm chí hạn chế một số quyền, hạn chế tự do... đối với người bị áp dụng. Buộc tội là một quá trình diễn ra trong suốt quá trình chứng minh tội phạm, chứng minh người thực hiện hành vi phạm tội. Để thực hiện được nhiệm vụ này đòi hỏi phải có một lực lượng chuyên môn về điều tra thu thập toàn diện chứng cứ xác định tội phạm, người phạm tội hoặc để xác định người vô tội trong giai đoạn điều tra. Những hoạt động điều tra này chủ yếu do CQĐT và các Điều tra viên (ĐTV) 10
- thực hiện. Tuy nhiên, quyền buộc tội phải do cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố tức VKS thực hiện. Trong phạm vi chức năng của mình, VKS có quyền và trách nhiệm quyết định cuối cùng về những vấn đề liên quan đến việc buộc tội một chủ thể nào đó; kiểm soát được việc phát hiện, điều tra tội phạm và xử lý tội phạm. VKS và CQĐT là các cơ quan tiến hành tố tụng có chức năng khác nhau, phải được phân định nhiệm vụ, quyền hạn có tính độc lập tương đối nhằm đảm bảo từng cơ quan thực hiện đúng và đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình. Tuy vậy, luật TTHS không thể chia tách, cắt khúc quyền lực tư pháp để từ đó làm suy giảm khả năng đấu tranh phòng, chống tội phạm. Mối quan hệ giữa VKS và CQĐT là mối quan hệ vừa chế ước, vừa phối hợp. Đó chính là cội nguồn xuất phát của xét phê chuẩn của VKS trong TTHS. Trong luật TTHS có chủ thể tiến hành tố tụng được độc lập thực hiện các hoạt động tố tụng nhưng có những chủ thể khi thực hiện một số hoạt động cần phải được sự phê chuẩn của chủ thể khác. Điều này xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của mỗi chủ thể trong tố tụng là khác nhau. Chủ thể trong TTHS là các cơ quan được tiến hành tố tụng: CQĐT, cơ quan công tố là VKS, cơ quan xét xử là Tòa án (TA) thực hiện các chức năng tương ứng là điều tra, truy tố, xét xử. Trong các cơ quan tiến hành tố tụng tại Việt Nam, hệ thống CQĐT gồm nhiều tiểu hệ thống, với nhiều đầu mối quản lý đang tồn tại và hoạt động độc lập với nhau, được tổ chức trong lực lượng cảnh sát, an ninh, trong quân đội và VKS. Tùy theo chức năng, nhiệm vụ của mỗi hệ thống mà tổ chức nhiều cấp. Trung bình mỗi tỉnh có 3 CQĐT cấp tỉnh, cả nước 63 tỉnh, thành thì chỉ riêng CQĐT cấp tỉnh ở cả nước ta có khoảng 200 CQĐT, chưa kể đến CQĐT cấp huyện và hàng chục CQĐT trong quân đội. Mối quan hệ giữa các CQĐT thuộc hệ thống đều có sự độc lập và khép kín về phương diện, điều hành và lãnh đạo chuyên môn. Hiện tại, BLTTHS, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự và một văn bản pháp luật của cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn chung cho hoạt động của cả bộ máy điều tra tố tụng, xác định rõ mối quan hệ giữa các CQĐT trong cùng ngạch cũng như khác ngạch, chỉ có những văn bản hướng dẫn riêng của cơ quan hành chính quản lý ngành đối 11
- với CQĐT thuộc ngành mình. Bên cạnh các CQĐT mang tính chuyên trách, pháp luật TTHS còn cho phép một số cơ quan hành chính cũng được quyền tham gia vào một số hoạt động điều tra: Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, cơ quan Kiểm lâm và các cơ quan khác thuộc lực lượng cảnh sát nhân dân (Cảnh sát kinh tế, hình sự, cảnh sát phòng chống ma túy …); thuộc lực lượng an ninh nhân dân (chống gián điệp, phản động …) và các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Có thể gọi chung các cơ quan này là các cơ quan có thẩm quyền tố tụng khác. Đây là một phả hệ tổ chức phức tạp, xét cả về chiều dọc lẫn chiều ngang [12]. Luật TTHS quy định người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng được quyền tiến hành một số hoạt động tố tụng hình sự như bắt người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ hình sự, gia hạn tạm giữ hình sự. Đồng thời quy định việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp và gia hạn tạm giữ đều phải có sự phê chuẩn của VKS. Việc áp dụng các lệnh, quyết định này của người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi các phương tiện đã rời khỏi sân bay, bến cảng là họ đã thực hiện hoạt động của CQĐT nhằm đảm bảo hiệu quả của hoạt động TTHS. Như vậy, CQĐT là cơ quan được thành lập để thực hiện nhiệm vụ điều tra các vụ án hình sự, ngoài ra CQĐT còn bao gồm một số các cơ quan có thẩm quyền tố tụng khác được giao tiến hành thực hiện một số hoạt động điều tra và các chủ thể có thẩm quyền ra một số lệnh, quyết định TTHS trong tình huống khẩn cấp theo luật định. Hoạt động điều tra của CQĐT là hoạt động thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ để tìm ra sự thật của vụ án, sự thật của hành vi phạm tội và xác định người đã thực hiện hành vi phạm tội. Trong quá trình điều tra, để thu thập chứng cứ CQĐT có quyền áp dụng các biện pháp tố tụng về điều tra. Song, nhiều biện pháp tố tụng có liên quan tới quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật, như bắt người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giam... phải có sự phê chuẩn của VKS. Nếu VKS không phê chuẩn, thì các lệnh, quyết định đó không được thi hành. Trong trường hợp không phê chuẩn thì trong quyết định không phê chuẩn phải nêu rõ lý do. Ngoài ra BLTTHS, còn quy định VKS phê chuẩn một số quyết định tố tụng của một số cơ quan có thẩm quyền tố tụng khác. Xét về nội dung 12
- và tính chất của các quyết định của CQĐT phải được VKS xét phê chuẩn hoặc không phê chuẩn, thì có thể phân thành hai loại quyết định phê chuẩn: Quyết định phê chuẩn trước bao gồm xét phê chuẩn việc gia hạn tạm giữ; lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh khám xét và lệnh tạm giam bị can và quyết định phê chuẩn sau bao gồm: Phê chuẩn việc bắt khẩn cấp; phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can. Quyết định phê chuẩn trước là việc bắt buộc các quyết định của CQĐT phải được gửi cho VKS xem xét việc phê chuẩn hay không phê chuẩn trước khi thi hành. Nếu VKS phê chuẩn quyết định đó thì mới được thi hành, nếu VKS không phê chuẩn thì quyết định đó không có hiệu lực và không được thi hành. Các quyết định (lệnh) gia hạn tạm giữ, lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh khám xét và lệnh tạm giam bị can do người có thẩm quyền (Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT) quyết định và phải được gửi cùng các tài liệu có liên quan đến VKS cùng cấp để xét phê chuẩn và trong một thời hạn theo quy định của BLTTHS, VKS phải có trách nhiệm ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. Quyết định phê chuẩn sau là việc phê chuẩn của VKS được tiến hành sau khi CQĐT đã ra quyết định và đã thi hành quyết định đó. Đó là các trường hợp xét phê chuẩn việc bắt khẩn cấp; quyết định khởi tố bị can [26]. Có thể thấy rõ điểm chung lớn nhất của các quyết định của CQĐT cần phải có sự phê chuẩn của VKS là chúng đều là các hoạt động mang tính cưỡng chế, khi thi hành chúng đồng nghĩa với việc hạn chế hoặc là tiền đề để hạn chế đáng kể các quyền, tự do đối với công dân. Như vậy mục đích của việc phê chuẩn trong TTHS là nhằm kiểm soát chặt chẽ các hoạt động mang tính chất cưỡng chế bất lợi về quyền tự do đối với công dân của CQĐT; đảm bảo việc áp dụng các biện pháp này là hợp pháp và cần thiết. Thông qua việc phê chuẩn VKS có thể ngăn chặn những hành động xâm phạm các quyền của công dân không được pháp luật cho phép; ngăn ngừa sự lạm quyền, lạm dụng các biện pháp cưỡng chế của CQĐT. Như vậy, có thể hiểu xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là việc Viện kiểm sát xem xét các biện pháp ngăn chặn của Cơ quan điều tra và cơ quan có thẩm quyền tố tụng khác trong giai đoạn điều tra các vụ án hình 13
- sự theo quy định của luật tố tụng hình sự để ra quyết định đồng ý hoặc không đồng ý Cơ quan điều tra và cơ quan có thẩm quyền tố tụng khác được tiến hành một số hoạt động tố tụng hình sự, nhằm đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đảm bảo tính hợp pháp và cần thiết của các biện pháp ngăn chặn, ngăn ngừa việc lạm dụng của cơ quan điều tra và cơ quan có thẩm quyền tố tụng khác. 1.1.2. Ý nghĩa của xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS Xét phê chuẩn trong TTHS là sự thể hiện quyền giám sát của VKS và mối quan hệ vừa chế ước, vừa phối hợp giữa VKS và CQĐT. Xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS có ý nghĩa trong việc đảm bảo cho hoạt động điều tra hình sự với nhiều biện pháp cưỡng chế thường xuyên được áp dụng diễn ra trong phạm vi pháp luật cho phép. Với nhiệm vụ của mình, VKS chỉ được phép phê chuẩn các quyết định của CQĐT khi xét thấy quyết định đó đáp ứng đủ các điều kiện là phù hợp với quy định của pháp luật và cần thiết cho việc điều tra giải quyết vụ án cụ thể đó. - Ý nghĩa pháp lý: Pháp luật TTHS quy định quyền phê chuẩn của VKS là nhằm đòi hỏi những lệnh, quyết định đó được ban hành phải có căn cứ và đúng pháp luật tránh tình trạng lạm dụng các biện pháp tố tụng này. Với nhiệm vụ của mình, VKS chỉ được phép phê chuẩn các lệnh, quyết định của cơ quan có thẩm quyền điều tra khi các lệnh, quyết định đó là phù hợp với quy định của pháp luật và cần thiết cho việc giải quyết vụ án. Thực hiện tốt xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS làm cho các quyết định của cơ quan có thẩm quyền điều tra có hiệu lực thi hành, đảm bảo tính hợp pháp và cần thiết của các lệnh, quyết định đó. - Ý nghĩa chính trị: Xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS góp phần đáp ứng các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đó là Hiến pháp và luật được thượng tôn, tính tối thượng của Hiến pháp và luật được thừa nhận. Nguyên tắc thượng tôn pháp luật của Nhà nước pháp quyền đòi hỏi khách quan hệ thống cơ quan tư pháp phải mở rộng và tăng cường hoạt động kiểm tra, kiểm soát xã hội của mình; trong đó VKS là một trong những thành tố của hệ thống tư pháp có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong phạm vi cả 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội
86 p | 322 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai
86 p | 76 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ
80 p | 188 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận
86 p | 138 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
83 p | 133 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam
84 p | 179 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội gây rối trật tự công cộng từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
85 p | 112 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
82 p | 46 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 60 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
86 p | 56 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lào Cai
81 p | 124 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hoãn chấp hành hình phạt tù từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
92 p | 67 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước
102 p | 48 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
91 p | 39 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hình phạt cải tạo không giam giữ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
85 p | 60 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
88 p | 56 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh
86 p | 36 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Bị hại trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
77 p | 34 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn