intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Thẩm quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:90

56
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn này nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận về thẩm quyền điều tra vụ án hình sự, thẩm quyền điều tra của Cơ quan cảnh sát điều tra trong CAND. Nghiên cứu dưới góc độ lịch sử về thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự của Cơ quan cảnh sát điều tra trong CAND từ năm 1945 đến na. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Thẩm quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN NGỌC MAI THẨM QUYỀN ĐIỀU TRA CỦA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, 2019
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN NGỌC MAI THẨM QUYỀN ĐIỀU TRA CỦA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHÙNG THẾ VẮC HÀ NỘI, 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực. Luận văn này chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Hà Nội, ngày 09 tháng 8 năm 2019 TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Ngọc Mai
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1. LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN ĐIỀU TRA7CỦA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA .................................................................................. 7 1.1. Khái niệm thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra ............. 7 1.2. Căn cứ để phân định thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự của cơ quan điều tra trong Công an nhân dân .................................................................. 16 1.3. Khái quát lịch sử hình thành và hoàn thiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra trong Công an nhân dân ................................................................................................................ 26 Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN THẨM QUYỀN ĐIỀU TRA CỦA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA................................................................................................................. 34 2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra .......................................................................................... 34 2.2. Thực tiễn thực hiện thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra theo quy định của pháp luật hiện hành ............................ 50 2.3. Đánh giá những thuận lợi và những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra ......................................................................................................... 53 Chương 3. MỘT SỐ YÊU CẦU, GIẢI PHÁP CƠ BẢN GÓP PHẦN HOÀN THIỆN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HIỆN THẨM QUYỀN ĐIỀU TRA CỦA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ...................................... 63 3.1. Dự báo tình hình tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra .......................................................................................... 63 3.2. Yêu cầu đối với việc hoàn thiện thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra .................................................................................................... 70 3.3. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật về thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra ............................................. 72 KẾT LUẬN .................................................................................................... 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Cơ quan điều tra: CQĐT Cơ quan Cảnh sát điều tra: CQCSĐT Công an nhân dân: CAND Bộ luật hình sự: BLHS Bộ luật tố tụng hình sự: BLTTHS Tổ chức cơ quan điều tra hình sự: TCCQĐTHS Viện kiểm sát nhân dân: VKSND Tòa án nhân dân: TAND Lực lượng cảnh sát nhân dân: LLCSND Điều tra viên: ĐTV
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Giải quyết vụ án hình sự là quá trình áp dụng pháp luật rất phức tạp, tiến hành theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ, trong đó các cơ quan và người có thẩm quyền phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để làm rõ tội phạm, người phạm tội và những vấn đề khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Quá trình này đòi hỏi phải phát hiện, điều tra xử lý tội phạm và người phạm tội được chính xác, nghiêm minh, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, hoạt động của CQĐT có một vị trí hết sức quan trọng. Kết quả của hoạt động điều tra là cơ sở để truy tố và xét xử vụ án hình sự, có ý nghĩa quyết định đến sự thành, bại đối với cả tiến trình tố tụng hình sự. Đối với CQCSĐT - CQĐT có bộ máy lớn nhất, được tổ chức từ Bộ Công an đến Công an cấp huyện, chịu trách nhiệm thụ lý, điều tra phần lớn số vụ án hình sự được phát hiện trong toàn quốc (có thẩm quyền điều tra gần 90% số tội danh quy định trong BLHS hiện hành). Trong 74 năm tồn tại và phát triển, cùng với sự lớn mạnh không ngừng của lực lượng CAND, CQCSĐT trong CAND ngày càng được củng cố và hoàn thiện. Trong 10 năm qua (2009-2019), theo thống kê của Bộ Công an, CQCSĐT các cấp đã tiếp nhận, giải quyết 670.937 tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (chiếm trên 96,3% số lượng tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của cả nước). Từ kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm về kiến nghị khởi tố và phát hiện hành vi phạm tội trong quá trình làm nhiệm vụ, CQCSĐT đã khởi tố, điều tra 603.360 vụ, 938.018 bị can (chiếm tỉ lệ 98,6% số vụ án hình sự đã phát hiện, khởi tố của cả nước). Kết quả hoạt động trong hơn nửa thế kỷ qua đã chứng minh, CQCSĐT trong CAND là một trong những công 1
  7. cụ không thể thiếu được trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, các phần tử phản cách mạng, phát hiện, ngăn chặn và đề xuất xử lý hành vi phạm tội. Tuy nhiên, thực tiễn công tác điều tra các vụ án hình sự của CQCSĐT trong CAND trong thời gian qua cho thấy, bên cạnh những mặt tích cực cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất định. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế thì có nhiều, trong đó có sự bất cập, hạn chế liên quan đến các quy định của pháp luật về phân định thẩm quyền điều tra của cơ quan này. Theo quy định của BLTTHS năm 2015 và Luật TCCQĐTHS năm 2015 thì tổ chức CQĐT và thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự của cả hệ thống CQĐT nói chung và của CQCSĐT trong CAND nói riêng đã thay đổi một cách cơ bản so với trước. Quá trình triển khai thi hành các quy định mới về tổ chức CQĐT và thực hiện thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự của CQCSĐT trong Công an vừa có thuận lợi cơ bản đồng thời cũng gặp những khó khăn, vướng mắc đã và đang hạn chế hiệu quả điều tra tội phạm. Việc nghiên cứu, xác định rõ thẩm quyền điều tra chung của cả hệ thống, của từng cấp và của từng đơn vị điều tra chuyên trách trong CAND, qua đó đề xuất những kiến nghị bổ sung, hoàn thiện những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về CQCSĐT đang là vấn đề cấp thiết đặt ra đối với lực lượng CAND. Trong khi đó, tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng cả về số lượng và mức độ nguy hiểm, đặc biệt là tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm lợi dụng công nghệ cao... Với thực trạng như vậy, để nâng cao hiệu quả công tác điều tra, xử lý tội phạm thì một trong những đòi hỏi đặt ra là phải thực hiện chuyên môn hoá trong hoạt động điều tra. Từ những lý do nêu trên cho thấy, việc nghiên cứu về cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý cũng như thực tiễn thực hiện thẩm quyền điều tra của CQCSĐT 2
  8. trong CAND để trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện cơ sở pháp lý về thẩm quyền điều tra của CQCSĐT trong CAND là việc làm cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong những năm qua, việc luận giải cơ sở lý luận và thực tiến để đề ra các giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền điều tra của CQCSĐT đã được các nhà khoa học và hoạt động thực tiễn quan tâm. Nhờ đó, trong những năm gần đây đã có một số công trình nghiên cứu, đề cập dưới góc độ khác nhau, trong đó, đáng chú ý là các công trình sau: - Nguyễn Ngọc Anh (2007), Đổi mới tổ chức và hoạt động của CQĐT trong CAND theo tiến trình cải cách tư pháp, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội. - Nguyễn Ngọc Anh (2008), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam (đào tạo cao học luật, chuyên ngành Tội phạm học và điều tra tội phạm), Trường Đại học CSND, Thành phố Hồ Chí Minh. - Nguyễn Ngọc Anh (2018), Bình luận khoa học Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội. - Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn Thị Minh Ngọc, Đào Anh Tới (2012), Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của CQĐT theo định hướng cải cách tư pháp, Nhà xuất bản CAND, Hà Nội. - Học viện An ninh nhân dân (2017), Giáo trình Luật tố tụng hình sự, Nhà xuất bản CAND, Hà Nội. - Vũ Duy Công (2015), Cơ quan Cảnh sát điều tra trong TTHS, Luận án tiến sĩ, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. - Đỗ Khắc Hưởng (2005), Thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự của CQĐT trong CAND, Luận văn thạc sỹ, Đại học Luật Hà Nội. - Đỗ Ngọc Quang (2000), Cơ quan điều tra, Thủ trưởng Cơ quan điều tra và Điều tra viên trong CAND, Nhà xuất bản CAND, Hà Nội. 3
  9. - Triệu Văn Đạt (2012), Những vấn đề lý luận và thực tiễn mô hình tổ chức và thẩm quyền của Cơ quan Cảnh sát điều tra trong Công an nhân dân; khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện, tạp chí CSND số 6/2012. - Hồ Sỹ Long (2015), Quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân với Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án hình sự, Luận án tiến sĩ, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội - Đào Anh Tới (2012), Một số ý kiến về giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Cơ quan Cảnh sát điều tra cấp huyện, tạp chí CAND kỳ 2 tháng 12/2012. - Nguyễn Xuân Ngư (2012), Giải pháp tăng cường toàn diện Công an cấp huyện trong tình hình hiện nay, tạp chí CAND kỳ 1 tháng 06/2012. - Trần Trọng Lượng (2012), Một số ý kiến về điều chỉnh mô hình Cảnh sát điều tra trong tình hình hiện nay, tạp chí CAND kỳ 01tháng 10/2012. - Đào Anh Tới (2018), Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội. Tuy nhiên, do mục đích, cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu của các tác giả ở những góc độ, khía cạnh khác nhau nên các công trình nghiên cứu ấy mới chỉ đề cập đến thẩm quyền điều tra hình sự của từng hệ CQĐT và của từng cấp CQĐT trong CAND mà chưa xem xét vấn đề một cách có hệ thống. Mặt khác, hiện nay, theo quy định của BLTTHS năm 2015 và Luật TCCQĐTHS năm 2015, tổ chức CQĐT và thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự của CQĐT nói chung và của CQCSĐT trong CAND nói riêng có sự thay đổi cơ bản so với trước. Do đó, có thể khẳng định, nghiên cứu vấn đề thẩm quyền điều tra của CQCSĐT trong CAND dưới góc độ khoa học luật hình sự, luật tố tụng hình sự là cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. 4
  10. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích chính của luận văn này là nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến thẩm quyền điều tra nói chung, thẩm quyền điều tra của CQCSĐT trong CAND nói riêng; những hạn chế trong hoạt động của CQCSĐT trên toàn quốc và những nguyên nhân của những bất cập, hạn chế đó để làm cơ sở đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền điều tra của CQCSĐT trong CAND, góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý về tổ chức, hoạt động và nâng cao hiệu quả điều tra vụ án hình sự của các CQCSĐT trong CAND. Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau: - Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về thẩm quyền điều tra vụ án hình sự, thẩm quyền điều tra của CQCSĐT trong CAND. - Nghiên cứu dưới góc độ lịch sử về thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự của CQCSĐT trong CAND từ năm 1945 đến nay. - Khảo sát, đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự của CQCSĐT trong CAND để tìm ra những bất cập, trở ngại cần được giải quyết. - Đưa ra các giải pháp góp phần hoàn thiện chế định về thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự của CQCSĐT trong CAND và nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan này. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn đi sâu làm sáng tỏ cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về thẩm quyền điều tra của CQCSĐT trong CAND, thực tiễn thực hiện thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự của CQCSĐT trong CAND những năm gần đây, trong đó BLTTHS năm 2015 là nguồn pháp luật được chú trọng. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta 5
  11. về tổ chức các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong đó có CQCSĐT và thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự. Bên cạnh đó, tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu của chuyên ngành luật hình sự, tố tụng hình sự và các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát thực tiễn và tham khảo ý kiến của chuyên gia, của ĐTV trong CAND... để làm sáng tỏ những vấn đề cần giải quyết của luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về thẩm quyền điều tra của CQCSĐT trong CAND nên những kết quả rút ra qua nghiên cứu có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao. Ý nghĩa lý luận của luận văn thể hiện ở chỗ, những kết quả nghiên cứu sẽ góp phần làm phong phú thêm lý luận về thẩm quyền điều tra hình sự. Về ý nghĩa thực tiễn, CQCSĐT trong CAND có thể tham khảo nội dung luận văn để vận dụng vào thực tiễn công tác điều tra vụ án hình sự, góp phần nâng cao hiệu quả công tác điều tra. Với ý nghĩa đó, luận văn có thể được coi là tài liệu tham khảo khi học tập, nghiên cứu về chuyên ngành và khi xây dựng, bổ sung pháp luật về điều tra hình sự. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương. Chương 1. Lý luận về thẩm quyền điều tra của CQCSĐT Chương 2. Quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện thẩm quyền điều tra của CQCSĐT Chương 3. Một số yêu cầu, giải pháp cơ bản góp phần nâng cao chất lượng thực hiện thẩm quyền điều tra của CQCSĐT 6
  12. Chương 1 LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN ĐIỀU TRA CỦA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA 1.1. Khái niệm thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra 1.1.1. Khái niệm Cơ quan Cảnh sát điều tra Quá trình giải quyết vụ án hình sự ở nước ta được chia thành các giai đoạn: Giai đoạn khởi tố, giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố, giai đoạn xét xử và giai đoạn thi hành án. Quyền tiến hành điều tra vụ án hình sự thuộc về CQĐT và một số cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Các cơ quan khác đó là cơ quan của Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, cơ quan Kiểm lâm, cơ quan của lực lượng Cảnh sát biển, cơ quan Kiểm ngư và một số cơ quan trong CAND và QĐND. Để xác định những nội dung liên quan đến Cơ quan CSĐT thì cần làm rõ một số vấn đề sau: Một là, Khoản 1 Điều 34 Bộ luật TTHS 2015 quy định: Cơ quan tiến hành tố tụng gồm có: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án. Trên cơ sở phân công thẩm quyền điều tra, hệ thống CQĐT của Nhà nước ta hiện nay được tổ chức gồm: CQĐT của CAND, CQĐT trong QĐND và CQĐT của VKSND tối cao. CQĐT trong CAND gồm CQCSĐT và CQANĐT. Như vậy, về địa vị pháp lý thì CQCSĐT là một trong những cơ quan tiến hành tố tụng được quy định trong Luật TTHS. Hai là, khoản 2 Điều 5 Luật TCCQĐTHS 2015 quy định, trong CAND có các CQĐT sau: - Cơ quan CSĐT Bộ Công an; Cơ quan CSĐT Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Cơ quan CSĐT Công an cấp 7
  13. tỉnh); Cơ quan CSĐT Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trung ương (sau đây gọi chung là Cơ quan CSĐT Công an cấp huyện) [46]; - Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an; Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Cơ quan An ninh điều tra Công an cấp tỉnh) [46]. Như vậy, về vị trí thì CQCSĐT là một trong những CQĐT của CAND và trong tổ chức của CQCSĐT gồm có: Cơ quan CSĐT Bộ Công an; Cơ quan CSĐT Công an cấp tỉnh và Cơ quan CSĐT Công an cấp huyện. Ba là, theo quy định tại Điều 8 Luật TCCQĐTHS năm 2015 thì CQĐT có nhiệm vụ, quyền hạn sau: tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; tiếp nhận hồ sơ vụ án do cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra chuyển giao; tiến hành điều tra các tội phạm, áp dụng mọi biện pháp do luật định để phát hiện, xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội; lập hồ sơ, đề nghị truy tố; tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội và yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Như vậy, cũng như các CQĐT khác, CQCSĐT được pháp luật TTHS xác định vị trí pháp lý là Cơ quan tiến hành tố tụng, là cơ quan đầu tiên tiếp cận thông tin về tội phạm. Do đó CQCSĐT có nhiệm vụ thực hiện những biện pháp theo quy định của pháp luật để thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm và những vấn đề cần phải chứng minh khác trong một vụ án hình sự. Bốn là, thẩm quyền điều tra của CQCSĐT từng cấp được BLTTHS năm 2015 và Luật TCCQĐTHS năm 2015 quy định khá cụ thể, rõ ràng. Theo quy định tại Điều 163 và Điều 164 của BLTTHS năm 2015, CQĐT của CAND điều tra tất cả các tội phạm, trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT trong QĐND và CQĐT VKSND tối cao. 8
  14. CQĐT trong QĐND điều tra các tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự. CQĐT VKSND tối cao, CQĐT VKS quân sự trung ương điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV của Bộ luật hình sự xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp. Còn đối với cơ quan của Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, cơ quan Kiểm lâm, cơ quan của lực lượng Cảnh sát biển, cơ quan Kiểm ngư được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm trong lĩnh vực và địa bàn quản lý của mình thì: Đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lý lịch người phạm tội rõ ràng thì quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, tiến hành điều tra và chuyển hồ sơ vụ án cho VKS có thẩm quyền trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án hình sự; đối với tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì quyết định khởi tố vụ án hình sự, tiến hành hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ vụ án cho CQĐT có thẩm quyền trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Các cơ quan khác trong CAND và QĐND được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, trong khi làm nhiệm vụ của mình, nếu phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm thì có quyền khởi tố vụ án hình sự, tiến hành hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ vụ án cho CQĐT có thẩm quyền trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án hình sự [44]. Theo quy định tại Điều 19, Điều 20 và Điều 21 Luật TCCQĐTHS năm 2015, CQCSĐT có thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại Chương XIV đến Chương XXIV của BLHS năm 2015, trừ các 9
  15. tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của của CQĐT trong QĐND, của CQĐT của VKSND tối cao và của CQANĐT trong CAND, cụ thể như sau: + CQCSĐT Công an cấp huyện có thẩm quyền điều tra vụ án vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại các chương từ Chương XIV đến Chương XXIV của BLHS năm 2015 khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện, trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSNDTC và CQANĐT của CAND [46]. + CQCSĐT Công an cấp tỉnh có thẩm quyền điều tra vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại các chương từ Chương XIV đến Chương XXIV của BLHS năm 2015 khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của CQCSĐT Công an cấp huyện xảy ra trên địa bàn nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, phạm tội có tổ chức hoặc có yếu tố nước ngoài nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra [46]. + CQCSĐT Bộ Công an có thẩm quyền điều tra vụ án hình sự thuộc thẩm quyền điều tra của CQCSĐT Công an cấp tỉnh về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, xảy ra trên địa bàn nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra; các vụ án đặc biệt nghiêm trọng thuộc thẩm quyền điều tra của CQCSĐT do Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hủy để điều tra lại[46]. Trên cơ sở phân tích như trên có thể hiểu: CQCSĐT là một trong những cơ quan tiến hành tố tụng được tổ chức trong hệ thống CQĐT trong CAND, được tổ chức từ cấp Bộ đến cấp huyện, có trách nhiệm điều tra tất cả những tội phạm theo thẩm quyền, được áp dụng các biện pháp điều tra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nhằm xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ, đề nghị truy tố trước pháp luật [34, tr.22]. 10
  16. 1.1.2. Khái niệm thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra trong Công an nhân dân Theo Từ điển tiếng Việt, "Thẩm quyền" nói chung là quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp luật (như thẩm quyền xét xử của Toà án, cơ quan có thẩm quyền); xét về tư cách chuyên môn (người có thẩm quyền) thì đó là người được pháp luật thừa nhận để có ý kiến có tính chất quyết định về một vấn đề [39]. Như vậy, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì thẩm quyền là quyền được thực hiện những hành vi và ra các quyết định pháp lý nhất định của chủ thể theo quy định của pháp luật. Nói cách khác, thẩm quyền là quyền hạn của một cơ quan, một tổ chức hoặc của một cá nhân được làm một việc hoặc một loại công việc nào đó trong phạm vi pháp luật cho phép. Phạm vi đó là giới hạn của thẩm quyền. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, sự phân định thẩm quyền được thiết lập giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Từ góc độ tố tụng hình sự thì thẩm quyền được hiểu là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ pháp lý thực hiện các hành vi tố tụng và ra các quyết định tố tụng của cơ quan, tổ chức, cá nhân được pháp luật tố tụng hình sự quy định. Cũng theo Từ điển tiếng Việt thì điều tra là những hành động "tìm hỏi, xem xét để biết rõ sự thật" [39]. Như vậy, thẩm quyền điều tra trong tố tụng hình sự là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ thực hiện các hành động như tìm hỏi, xem xét về các sự việc phạm tội nhằm xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội; làm rõ những chứng cứ xác định có tội và những chứng cứ xác định vô tội; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; xác định hậu quả của tội phạm; thực hiện các biện pháp bảo đảm bồi thường thiệt hại; tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội; lập hồ sơ, đề nghị truy tố; yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục ngăn ngừa. Để thực hiện các hành vi nêu trên, CQĐT, 11
  17. ĐTV có quyền ban hành các quyết định tương ứng. Các quyền và nghĩa vụ này không chỉ được giao cho thủ trưởng, phó thủ trưởng CQĐT, ĐTV mà còn là thủ trưởng các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Nói một cách khái quát, thẩm quyền điều tra tố tụng là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các chủ thể nhất định theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự thể hiện qua việc tìm tòi, xem xét để biết rõ sự thật của vụ án hình sự ở giai đoạn điều tra. Với tính chất là một giai đoạn của tố tụng hình sự, giai đoạn điều tra vụ án được bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc bằng việc CQĐT ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc ra bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra (tuy nhiên trong một số trường hợp, hoạt động điều tra có thể được tiến hành trước khi có quyết định khởi tố vụ án như xác minh tin báo, tố giác về tội phạm, khám nghiệm hiện trường...). Xét trong mối quan hệ tố tụng thì điều tra vụ án là giai đoạn tiếp diễn sau khi khởi tố vụ án hình sự, là khâu đột phá trong cả tiến trình tố tụng hình sự. Hoạt động điều tra là giai đoạn tố tụng có ý nghĩa hết sức quan trọng, những kết quả khả quan cũng như những sai lầm tư pháp nghiêm trọng như bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội... thường bắt nguồn từ giai đoạn điều tra. Số lượng và chất lượng tài liệu, chứng cứ mà CQĐT thu thập được là cơ sở cho việc nhận định, đánh giá và truy tố người phạm tội của Viện kiểm sát và là tiền đề để quyết định giới hạn và chất lượng xét xử của Toà án. Vai trò của giai đoạn điều tra được thể hiện rõ nét trong các nhiệm vụ điều tra cụ thể, đó là: Thứ nhất, thu thập chứng cứ, áp dụng mọi biện pháp do pháp luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội. 12
  18. Tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội là vấn đề cần phải chứng minh, làm rõ trong vụ án hình sự. Trong giai đoạn điều tra, CQĐT vụ án hình sự phải thu thập chứng cứ để xác định có hay không có sự việc phạm tội, đối chiếu với BLHS để xác định tội danh mà người phạm tội đã thực hiện, cùng với những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Khi xác định có tội phạm xảy ra, CQĐT vụ án hình sự phải làm rõ ai là người đã thực hiện hành vi phạm tội. Nếu vụ án có đồng phạm thì phải xác định tính chất của đồng phạm, vai trò của từng người trong vụ đồng phạm đó. Khi đã xác định được người thực hiện hành vi phạm tội, nếu thấy cần phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì khởi tố họ với tư cách là bị can. Tùy theo tính chất, mức độ của tội phạm, thái độ của bị can, yêu cầu của công tác điều tra mà CQĐT áp dụng biện pháp ngăn chặn. Trường hợp bị can bỏ trốn thì phải ra quyết định truy nã, tổ chức truy bắt. Đối với những vụ án bị can bị bắt quả tang về một tội phạm ít nghiêm trọng, sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng và nhân thân bị can đã được xác định thì CQĐT đề nghị VKS ra quyết định để áp dụng thủ tục rút gọn. Thứ hai, qua công tác điều tra, CQĐT xác định được tính chất, mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra, làm cơ sở cho Toà án quyết định mức bồi thường thiệt hại được chính xác. Mỗi tội phạm xảy ra đều gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nhất định cho xã hội. Trong điều tra vụ án hình sự, CQĐT phải làm rõ được loại và mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra hoặc đe doạ gây ra để đánh giá đúng tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm. Rằng thiệt hại do tội phạm đó gây ra hoặc đe doạ gây ra là thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khoẻ, tinh thần hay gây ra tình trạng nguy hiểm cho người khác và ở mức độ nào. Để tạo điều kiện cho việc giải quyết vụ án, nết xét thấy cần thiết CQĐT phải áp dụng biện pháp kê 13
  19. biên tài sản đối với những người phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại hoặc có thể tịch thu tài sản hay phạt tiền... Thứ ba, lập hồ sơ đề nghị truy tố bị can. Để ra quyết định truy tố và tiến hành xét xử vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, VKS và TAND phải căn cứ vào hồ sơ vụ án. Nếu hồ sơ không đầy đủ, VKS sẽ gặp khó khăn trong việc đưa ra các quyết định và những yêu cầu hợp lý trong và sau quá trình điều tra như khởi tố bổ sung, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn khi có căn cứ theo luật định; thay đổi ĐTV, yêu cầu CQĐT ra quyết định khởi tố hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án nếu việc khởi tố của CQĐT không có căn cứ và hợp pháp theo luật định; ra bản cáo trạng truy tố bị can... Đồng thời Tòa án cũng không có cơ sở để xem xét bản án hoặc quyết định cần thiết khác trong khi thực hiện chức năng và nhiệm vụ của minh. Vi vậy, việc lập và thường xuyên củng cố hồ sơ vụ án trong giai đoạn điều tra là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết. Hồ sơ vụ án hình sự trong giai đoạn điều tra là tập hợp hệ thống các văn bản, tài liệu được thu thập hoặc lập từ khi khởi tố cho đến khi kết thúc điều tra và được đóng dấu bút lục và sắp xếp theo một trình tự nhất định, nhằm phục vụ cho việc giải quyết vụ án và lưu trữ lâu dài. Khi đã có đầy đủ chứng cứ để xác định chính xác tội phạm và cong người thực hiện hành vi phạm tội (bị can) thì CQĐT có nhiệm vụ làm bản kết luận điều tra đề nghị truy tố. Căn cứ vào bản kết luận điều tra, VKS chỉ ra bản cáo trạng truy tố bị can về các tội phạm đã được điều tra và có đủ chứng cứ chứng minh. Những tội phạm và bị can chưa được điều tra sẽ không bị truy tố. Do vậy, đi đôi với việc thu thập chứng cứ để làm rõ vụ án, CQĐT phải thường xuyên chủ động và tích cực hoàn chỉnh hồ sơ theo quy định của pháp luật TTHS. 14
  20. Thứ tư, thông qua hoạt động điều tra tội phạm, CQĐT phát hiện những nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm để trên cơ sở đó yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục, ngăn ngừa tội phạm. Trong điều tra vụ án hình sự, một trong những nhiệm vụ không kém phần quan trọng là xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để có biện pháp phòng ngừa tội phạm. Thực hiện nhiệm vụ này, đối với mỗi tội phạm, cơ quan tiến hành điều tra vụ án phải tìm ra nguyên nhân và điều kiện thúc đẩy việc thực hiện tội phạm. Nếu tội phạm phát sinh do thiếu sót của cơ quan, tổ chức thì yêu cầu cơ quan, tổ chức áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Thứ năm, thông qua công tác điều tra tội phạm, CQĐT tội phạm góp phần vào việc giáo dục công dân có ý thức chấp hành pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện những nhiệm vụ đặt ra đó, CQĐT phải tiến hành hàng loạt các hoạt động và hành vi điều tra. Và chất lượng hoạt động điều tra của CQĐT vụ án hình sự mang tính quyết định và chi phối sâu sắc đến toàn bộ quá trình xử lý vụ án. Giai đoạn điều tra nhanh chóng, chuẩn xác thì việc truy tố và xét xử sẽ nhanh chóng và đạt chất lượng cao. Ngược lại, giai đoạn điều tra kéo dài, kết quả điều tra không chính xác thì sẽ dẫn đến những ảnh hưởng xấu, thậm chí là sai lầm của việc xử lý vụ án ở các giai đoạn tiếp theo. Về bản chất, hoạt động điều tra chính là quá trình chủ thể tiến hành điều tra (cán bộ điều tra) nhận thức về thực tế khách quan của sự việc phạm tội. Bởi vậy, xét đến cùng thì mục đích của giai đoạn điều tra có đạt được hay không, bên cạnh những yếu tố cơ sở là tính khả thi của hệ thống pháp luật, chính là phụ thuộc vào việc tổ chức, nhận thức, thái độ và khả năng của ĐTV được giao thụ lý điều tra vụ án. Vì vậy, việc hoàn thiện các khâu tổ chức CQĐT, phân công nội bộ, xác định rõ thẩm quyền điều tra của cơ quan và 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
19=>1