Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh
lượt xem 8
download
Bố cục của luận văn gồm có 3 chương: Chương 1 - Những vấn đề lý luận và pháp luật về Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; Chương 2 - Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh; Chương 3 - Giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN KHÁNH TOÀN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, năm 2020
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN KHÁNH TOÀN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8380104 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LẠI VIẾT QUANG Hà Nội, năm 2020
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong Luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong Luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Khánh Toàn
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN “LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN” ............................................................................. 7 1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản ............................................................................. 7 1.2. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án hình sự ......................................................................................................... 26 Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN “LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN” TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........................... 33 2.1. Kết quả hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại thành phố Hồ Chí Minh ........................ 33 2.2. Những khó khăn, vướng mắc và tồn tại hạn chế trong thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ...................................................................... 35 2.3. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc và tồn tại, hạn chế khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án “Lừa đảo đảo chiếm đoạt tài sản” trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. ........................ 54 Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN ............................................................................................ 60 3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật ............................................................ 60 3.2. Giải pháp khác...................................................................................... 60 KẾT LUẬN .................................................................................................... 70 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT - BLHS : Bộ luật hình sự - CĐTS : Chiếm đoạt tài sản - CQĐT : Cơ quan điều tra - ĐTV : Điều tra viên - HĐXX : Hội đồng xét xử - KSV : Kiểm sát viên - TAND : Tòa án nhân dân - TNHS : Trách nhiệm hình sự - TTHS : Tố tụng hình sự - VAHS : Vụ án hình sự - VKS : Viện kiểm sát - VKSND : VKS nhân dân - XHCN : Xã hội chủ nghĩa
- DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Thống kê số vụ án và bị can đã khởi tố, truy tố phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ năm 2015 đến 2019 ....................................................... 33 Bảng 2.2. Tỷ lệ tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản so với tổng số tội phạm chung từ năm 2015 đến năm 2019. ............................................................................ 34
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh đất nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, với xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa, các giao dịch dân sự, kinh tế diễn ra một cách thường xuyên và đạt những thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội thì mặt trái của sự phát triển là tình hình tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp, nhiều loại tội phạm gia tăng, tính chất, mức độ ngày càng nguy hiểm hơn. Trong đó, tội Lừa đảo CĐTS là một trong những tội phạm xảy ra phổ biến trong thời gian qua, gây nhiều biến động trong xã hội và cản trở sự phát triển của đất nước. Trong những năm qua, thông qua công tác Thực hành quyền công tố, Kiểm sát điều tra, Kiểm sát xét xử VAHS nói chung, các vụ án Lừa đảo CĐTS nói riêng, VKSND các cấp đã góp phần không nhỏ vào việc thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Tuy nhiên, qua theo dõi tình hình chung trên toàn quốc, cũng như từ thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh, thấy rằng nhiều vụ án Lừa đảo CĐTS cơ quan tiến hành tố tụng có sai sót trong quá trình điều tra các dẫn đến vụ án bị trả điều tra bổ sung hoặc Tòa án cấp phúc thẩm phải hủy án để điều tra lại. Theo thống kê, tại thành phố Hồ Chí Minh, tội Lừa đảo CĐTS bị Tòa án cấp phúc thẩm hủy để điều tra lại chiếm tỷ lệ cao nhất trong các loại án đã xét xử phúc thẩm. Để xảy ra những sai sót dẫn đến hủy án có phần trách nhiệm thuộc về VKSND khi Thực hành quyền công tố trong điều tra các VAHS nói chung, tội Lừa đảo CĐTS nói riêng. 1
- Về mặt lý luận vẫn còn những nội dung liên quan đến thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết các vụ án hình sự nói chung, các vụ án liên quan đến lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng cần được nghiên cứu một cách tường minh hơn nhằm phục vụ thực tiễn áp dụng. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu nào về thực trạng hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh. Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc hoạt động Thực hành quyền công tố trong điều tra của VKSND Thành phố Hồ Chí Minh, thông qua các vụ án Lừa đảo CĐTS là cần thiết cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Từ những lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài: “Thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” làm Luận văn Thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiện chưa có công trình nghiên cứu về Thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS; nhưng có một số công trình nghiên cứu về hai nhóm vấn đề có tính chất liên quan đến đề tài là “Thực hành quyền công tố trong điều tra” của VKSND và “Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Sách chuyên khảo có các công trình nghiên cứu liên như: "Quyền con người" của GS.TS Võ Khánh Vinh do Nhà xuất bản khoa học xã hội xuất bản năm 2015; "Chức năng của tố tụng hình sự Việt Nam: Nhìn từ lý thuyết chức năng" của TS. Đinh Đinh Thị Mai năm 2015 đăng trên tạp chí Nhân lực khoa học xã hội; “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra” của Lê Hữu Thể (chủ biên) và các tác giả, Nhà xuất bản Tư pháp năm 2008; “Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư 2
- pháp” của Nguyễn Hải Phong (chủ biên) và các tác giả, Nhà xuất bản Tư pháp năm 2013. Luận án Tiến sĩ Luật học có các công trình: “Hoạt động của VKSND trong điều tra VAHS” của tác giả Đoàn Tạ Cửu Long, bảo vệ tại Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh năm 2014; “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn miền đông nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” của tác giả Bùi Thị Lan Hương, bảo vệ tại Học viện Khoa học xã hội năm 2018. Luận văn Thạc sĩ Luật học liên quan đến hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra có công trình: “Thẩm quyền của VKS trong giai đoạn truy tố” của Vũ Đức Ninh, bảo vệ tại Khoa Luật Trường Đại học Quốc Gia Hà Nội năm 2013; liên quan đến tội Lừa đảo CĐTS có công trình: “Tội lừa đảo CĐTS - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Trần Thị Phương Hiền, bảo vệ tại Khoa Luật Trường Đại học Quốc Gia Hà Nội năm 2007; “Tội lừa đảo CĐTS trong pháp luật hình sự Việt Nam” của Đặng Thị Thanh Huyền, bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2016; “Đấu tranh phòng, chống tội Lừa đảo CĐTS tại thành phố Hồ Chí Minh” của Dương Thị Ngọc Thủy, bảo vệ tại Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh năm 2008; "Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự" của Nguyễn Công Cường bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2016; "Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hải Phòng" của Phạm Thị Tuyết Chinh, bảo vệ năm 2017 tại Trường Đại học Luật Hà Nội; "Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự" của Bùi Trọng Thắng, bảo vệ năm 2018 tại Trường Đại học Luật Hà Nội; "Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam - trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định" của Nguyễn Tiến Dũng, bảo vệ năm 2014 tại Đại học Quốc gia Hà Nội.... Ngoài ra còn có một số bài viết trên Tạp chí khoa học 3
- chuyên ngành bàn về các khía cạnh hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra. Qua khảo sát tổng quan về các nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận văn, thấy rằng các công trình nghiên cứu trên với những cách tiếp cận khác nhau, đã làm rõ một số vấn đề liên quan trực tiếp và gián tiếp đến các vấn đề lý luận, thực tiễn cũng như định hướng, giải pháp giải quyết vấn đề liên quan đến hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra VAHS. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu này hoặc quá rộng, quá bao quát, toàn diện nên không trùng lặp về phạm vi nghiên cứu với đề tài, hoặc quá hẹp, chuyên sâu, chi tiết và thiên về diễn giải, hướng dẫn thực hiện các thao tác nghiệp vụ kiểm sát đối với Cán bộ kiểm sát. Đồng thời, các công trình nghiên cứu trên chưa chỉ rõ những tồn tại, hạn chế trong hoạt động Thực hành quyền công tố trong điều tra của VKS nói chung, đối với các vụ án Lừa đảo CĐTS nói riêng, để từ đó có những đề xuất nhằm nâng cao chất lượng công tác này trong thực tiễn. Những hạn chế trên đã đặt ra yêu cầu phải có công trình chuyên khảo nghiên cứu một cách toàn diện và đầy đủ về hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS. Đặc biệt là nghiên cứu từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh thông qua các vụ án Lừa đảo CĐTS bị trả điều tra bổ sung hoặc Tòa án các cấp tuyên hủy để điều tra lại. Trên cơ sở nghiên cứu các vi phạm, thiếu sót phổ biến trong quá trình điều tra, dẫn đến trả điều tra bổ sung hoặc hủy án để cùng nghiên cứu, nhằm rút kinh nghiệm và đề ra các giải pháp khắc phục trong thời gian tới. Đây là yêu cầu khách quan, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát trong thời gian tới. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong TTHS nói chung, hoạt động của VKSND khi Thực hành quyền công tố trong điều tra các 4
- vụ án Lừa đảo CĐTS nói riêng và thực trạng hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS tại Thành phố Hồ Chí Minh, trọng tâm là những vi phạm trong hoạt động điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS - Đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS nhằm hạn chế tình trạng cấp phúc thẩm hủy án sơ thẩm để điều tra lại. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra đối với các vụ án Lừa đảo CĐTS; tập trung nghiên cứu hoạt động này dưới góc độ thực trạng quy định và thực tiễn áp dụng để làm rõ những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân. Trên cơ sở đó có các kiến nghị, giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động này trong thực tiễn. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu về không gian: Luận văn nghiên cứu về hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra đối với các vụ án Lừa đảo CĐTS của các Viện kiểm sát nhân dân hai cấp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Các số liệu khảo sát trong khoảng thời gian 05 năm (từ năm 2015 đến hết năm 2019). 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận tiếp cận vấn đề nghiên cứu của Luận văn dựa trên cơ sở lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền Tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê cùng với việc tham khảo kinh 5
- nghiệm của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng để làm rõ mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu các vấn đề của Luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS; chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn và nguyên nhân. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác trong thực tiễn. - Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể sử dụng cho mục đích tham khảo trong việc nghiên cứu, giảng dạy. Luận văn cũng đề ra các đề xuất, kiến nghị có thể dùng vào việc phục vụ cho hoạt động thực tiễn, qua đó đóng góp một phần vào việc nâng cao chất lượng và hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này trong thời gian tới. 7. Cơ cấu của luận văn Luận văn có kết cấu gồm phần mở đầu,Bảng chữ cái viết tắt, Bảng kê mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và nội dung chính được trình bày trong 3 chương như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” Chương 2: Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản 6
- Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN “LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN” 1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản 1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản Hoạt động TTHS là một dạng hoạt động quyền lực Nhà nước do một số cơ quan Nhà nước được pháp luật giao nhiệm vụ tiến hành, hay còn gọi là thực hiện chức năng, nhiệm vụ. TTHS còn được hiểu là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng từ khi người thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, cho đến khi hành vi đó được cơ quan tố tụng hình sự giải quyết bằng quyết định hoặc bản án của Tòa án. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến các quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của công dân, đến lợi ích của Nhà nước, của xã hội. Các cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng mọi biện pháp do luật định để khám phá tội phạm, đối tượng phạm tội và trừng phạt theo quy định của pháp luật, bảo đảm nguyên tắc tội phạm không tránh khỏi hình phạt. Do vậy hoạt động TTHS là hoạt động quyền lực công – hoạt động vì lợi ích chung của Nhà nước, của xã hội, nhưng khi thực thi phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của BLTTHS đã qui định. Quá trình thực hiện hoạt động tố tụng hình sự gồm các giai đoạn diễn ra liên tục và nối tiếp nhau tạo thành một thể thống nhất, đó là: Giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố (còn gọi là giai đoạn tiền khởi tố hoặc giải quyết tin báo, tin tố giác); Giai đoạn điều tra; Giai đoạn truy tố và giai xét xử. 7
- Ngoài ra, trong Bộ luật tố tụng hình sự còn quy định một số thủ tục như Thi hành án hình sự; thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm nhưng không phải là một gia đoạn của tố tụng hình sự. Về giai đoạn điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự; trong đó cơ quan điều tra trong ngành Công an, trong Quân đội và Bộ đội Biên phòng và cơ quan khác được giao một số hoạt động điều tra được sử dụng một số biện pháp nghiệp vụ do Luật tố tụng hình sự quy định để thu thập chứng cứ, chứng minh hành vi phạm tội, người phạm tội và những vấn đề khác có liên quan. Đồng thời thông qua hoạt động điều tra, xác định nguyên nhân, điều kiện phạm tội đối với từng vụ án cụ thể để kiến nghị đối với cơ quan Nhà nước, tổ chức….có các biện pháp phòng ngừa không để xảy ra hành vi phạm tội xảy ra. Giai đoạn điều tra có những đặc điểm sau: Thứ nhất, hoạt động điều tra vụ án hình sự là hoạt động đặc biệt của một số cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành theo qui định của Bộ luật tố tụng hình sự. Thứ hai, giai đoạn điều tra vụ án hình sự bắt đầu khi CQĐT ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc bằng việc ban hành bản kết luận điều tra, quyết định truy tố (thủ tục rút gọn) hoặc ra quyết định đình chỉ vụ án. Thứ ba, trong giai đoạn điều tra, CQĐT được áp dụng mọi biện pháp do pháp luật tố tụng hình sự quy định để thu thập chứng cứ chứng minh có sự việc phạm tội và người thực hiện tội phạm và các tình tiết khác có liên quan đến vụ án và qua công tác điều tra các loại tội phạm CQĐT sẽ kiến nghị biện pháp phòng ngừa với cơ quan và tổ chức hữu quan góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm hiệu quả hơn. Theo Hiến pháp năm 2013, thì VKSND là cơ quan được giao nhiệm vụ Thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, 8
- bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Như vậy, Thực hành quyền công tố là chức năng Hiến định của Ngành Kiểm sát. Tại khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014 thì Thực hành quyền công tố “là hoạt động của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội”. Theo đó, đối tượng của hoạt động thực hành quyền công tố là tội phạm (là hành vi nguy hiểm cho xã hội có dấu hiệu của một tội phạm cụ thể được qui định trong Bộ luật hình sự) và người bị tình nghi đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đó. VKS có nhiệm vụ sử dụng các quyền năng pháp lý để truy cứu TNHS (truy tố) người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phạm tội ra trước Tòa án để xét xử. Hoạt động thực hành quyền công tố của VKS với mục đích bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được kịp thời phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội; không để bất kỳ một người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật. Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam: “Lừa đảo là dùng thủ đoạn gian dối đánh lừa người khác để mưu lợi. Thủ đoạn gian dối rất đa dạng, nhằm giấu giếm nội dung sai sự thật (ít, nhiều hoặc hoàn toàn) làm cho người khác tin, nhầm, tưởng giả là thật để chiếm đoạt tài sản, tiền bạc, thu lợi vật chất khác hoặc che giấu một việc làm xấu. Sự lừa đảo được thực hiện trước hoặc liền ngay với hành động chiếm đoạt, nó thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: nói dối, dùng giấy tờ giả mạo, giả danh người có chức, có quyền….” Dưới góc độ pháp lý, “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý...” Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được xếp vào nhóm các 9
- tội phạm “xâm phạm về sở hữu” được quy định tại Điều 174 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về cấu thành cơ bản của tội lừa đảo CĐTS: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm…”. Như vậy, Tội lừa đảo CĐTS là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối, do người có năng lực TNHS thực hiện với lỗi cố ý, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân. Để xác định hành vi có đủ yếu tố cấu thành tội phạm Lừa đảo CĐTS hay không cần đảm bảo có yếu tố đặc trưng là thủ đoạn gian dối đây nhưng còn phải có điều kiện người phạm tội còn có hành vi chiếm đoạt tài sản. Như vậy, lừa đảo CĐTS là việc người phạm tội đã dùng những thủ đoạn gian dối, đưa ra những thông tin sai sự thật, có thể bằng lời nói hoặc hành động làm cho người có tài sản hoặc người có trách nhiệm trông giữ, quản lý tài sản tin, tưởng giả là thật, mà “tự nguyện” giao tài sản cho người phạm tội, sau đó người phạm tội đã CĐTS đó. Dấu hiệu pháp lý của tội Lừa đảo CĐTS Theo Điều 139 BLHS năm 1999, Lừa đảo CĐTS là hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Điều 174 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 giữ nguyên quy định này. Có thể thấy tội Lừa đảo CĐTS có các dấu hiệu pháp lý đặc trưng như sau: - Khách thể của tội Lừa đảo CĐTS là quan hệ xã hội về sở hữu và quản lý tài sản. Quan hệ sở hữu có nội dung là quyền của sở hữu tài sản (gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt) đối với tài sản. Đối tượng tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tài sản thuộc quyền sở hữu; thuộc quyền quản lý, quyền sử dụng hợp pháp của người khác, có thể là tài sản hợp 10
- pháp, cũng có thể là tài sản bất hợp pháp. Tài sản được hiểu là vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá bằng tiền và các quyền về tài sản. Giá trị của tài sản đó một phần hay toàn bộ là do sức lao động của con nguời tạo nên.; Những tài sản có tính chất đặc biệt không phải đối tuợng của các tội xâm phạm sở hữu mà là đối tuợng của tội phạm khác (ví dụ: Công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia, ma túy, vũ khí...). Thông qua việc tác động lên đối tượng của tội phạm là chiếm đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu và quản lý hợp pháp của người khác đã xâm phạm đến khách thể là quyền sở hữu và quản lý tài sản. - Chủ thể: Chủ thể của tội Lừa đảo CĐTS là người có năng lực TNHS, nghĩa là không mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình và đủ tuổi chịu TNHS. Theo Điều 12 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì tuổi chịu TNHS đối với tội Lừa đảo CĐTS là từ đủ 16 tuổi trở lên. Đây là sự thay đổi lớn so với BLHS năm 1999 về tuổi chịu TNHS, vì BLHS năm 1999 quy định người từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu TNHS đối với tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, nghĩa là người từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu TNHS về tội Lừa đảo CĐTS nếu phạm vào khoản 2, 3, 4 Điều 139 của BLHS năm 1999. - Mặt chủ quan của tội Lừa đảo CĐTS gồm các yếu tố lỗi, động cơ, mục đích phạm tội, là trạng thái tâm lý bên trong của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của hành vi đó. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, khi thực hiện hành vi Lừa đảo CĐTS, người phạm tội mong muốn chiếm đoạt tài sản nên cố ý thực hiện hành vi và mong muốn cho hậu quả xảy ra người phạm nên đây là lỗi cố ý trực tiếp nghĩa là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã 11
- hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Khi thực hiện hành vi, người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải có mục đích chiếm đoạt được tài sản của người khác và mục đích này tồn tại trước khi thực hiện hành vi. Trong trường hợp người phạm tội đã có tài sản một cách hợp pháp rồi mới có ý định chiếm đoạt tài sản, thì hành vi của họ không cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để xem xét người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với một tội danh khác. - Mặt khách quan của tội Lừa đảo CĐTS được nêu trong đoạn đầu của Điều 174 BLHS 2015: Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác...”, Như vậy, mặt khách quan của tội phạm bao gồm 2 dấu hiệu cơ bản, bắt buộc, đó là: + Thủ đoạn gian dối. Theo Từ điển tiếng Việt thì thủ đoạn là cách làm khôn khéo, thường là xảo trá, chỉ cốt sao cho đạt mục đích; còn gian dối là có ý lừa lọc, không thật thà ngay thẳng. Như vậy thủ đoạn gian dối được hiểu là cách làm xảo trá, có ý lừa lọc chỉ cốt đạt mục đích. Thủ đoạn gian dối là đưa ra thông tin giả (không đúng sự thật) bằng nhiều hình thức khác nhau làm cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản tin là thật và giao tài sản cho người phạm tội. + Chiếm đoạt tài sản là chiếm lấy tài sản của nguồi khác thành tài sản của mình. Hay nói cách khác là là chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền quản lý của người khác thành của mình. Hai dấu hiệu khách quan của tội lừa đảo có mối quan hệ nhân quả, đó là dùng thủ đoạn gian dối mục đích để chiếm đoạt tài sản. Thủ đoạn gian dối bao giờ cũng phải có trước khi phát sinh việc giao nhận tài sản giữa người bị hại với người phạm tội thì mới là hành vi Lừa đảo CĐTS; còn nếu thủ đoạn gian 12
- dối có sau khi người phạm tội nhận được tài sản thì không thuộc tội danh này, mà có thể phạm tội che giấu tội phạm hoặc tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS… Tội Lừa đảo CĐTS thường dựa trên các giao dịch dân sự, kinh tế nên trong thực tiễn có tình trạng hình sự hóa các giao dịch dân sự, kinh tế, hoặc ngược lại, dân sự hóa các hành vi phạm tội. Tội Lừa đảo CĐTS và các giao dịch dân sự, kinh tế đều có điểm giống nhau là các bên đã xác lập một giao dịch dân sự, kinh tế theo quy định của pháp luật. Các bên xác lập và thực hiện giao kết với quyền và nghĩa vụ đã thỏa thuận về tài sản nhưng trong quá trình thực hiện, có một bên hưởng lợi nhưng không thực hiện nghĩa vụ về tài sản tương ứng đã thỏa thuận, dẫn đến thiệt hại cho bên kia. Trường hợp này cần xem xét cụ thể có hành vi gian dối và chiếm đoạt tài sản hay không để kết hành vi cấu thành tội Lừa đảo CĐTS hay chỉ là vi phạm nghĩa vụ trong giao dịch dân sự, kinh tế. Yếu tố chiếm đoạt và thủ đoạn gian dối là điểm khác nhau cơ bản để phân biệt tội Lừa đảo CĐTS với các giao dịch dân sự. Nếu một người vi phạm nghĩa vụ về tài sản đã giao kết do nguyên nhân khách quan sau đó sử dụng nhiều phương thức gian dối để chậm thực thi nghĩa vụ thì không có cơ sở xác định hành vi phạm tội lừa đảo nhưng nếu xác định họ có ý thức chiếm đoạt ngay từ đầu thì đây là hành vi phạm tội Lừa đảo CĐTS. Như vậy, để phân biệt tội Lừa đảo CĐTS với các giao dịch dân sự, kinh tế, phải chứng minh được yếu tố chiếm đoạt và hành vi gian dối, trong khi việc chứng minh yếu tố chiếm đoạt trong một số trường hợp rất khó khăn. Trên thực tế, để phân định ranh giới giữa các giao dịch dân sự, kinh tế và tội Lừa đảo CĐTS còn nhiều vấn đề chưa được làm rõ dẫn đến có những thiếu sót trong việc chứng minh yếu tố chiếm đoạt và phân định thủ đoạn gian dối làm xuất hiện tình trạng “hình sự hóa” các quan hệ dân sự, kinh tế hoặc ngược lại. Trong thực tiễn có một số trường hợp người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối nhằm CĐTS, nhưng thủ đoạn gian dối này đã được BLHS quy định thành 13
- tội phạm độc lập, ví dụ “làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức” nhằm “lừa đảo CĐTS”. Do chưa có hướng dẫn thống nhất của liên ngành tư pháp Trung ương nên đối với các trường hợp này có địa phương xử lý về hai tội nhưng có địa phương chỉ xử lý về tội “Lừa đảo CĐTS”. Về hậu quả của tội phạm, tội Lừa đảo CĐTS phải gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên. Trường hợp tài sản bị chiếm đoạt có giá trị không đến 2 triệu đồng thì để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Lừa đảo CĐTS cần phải có đủ điều kiện là đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về các tội có tính chất chiếm đoạt được quy định cụ thể trong BLHS 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đã liệt kê cụ thể các tội CĐTS, thay vì chỉ quy định chung chung “tội CĐTS” như BLHS năm 1999. Ngoài ra BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 còn bổ sung thêm trường hợp Lừa đảo CĐTS dưới 2 triệu đồng nhưng gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; bỏ tình tiết tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại và tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng trong cấu thành cơ bản, bỏ tình tiết gây hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng trong cấu thành tăng nặng của tội phạm. Ngoài hành vi và hậu quả, các yếu tố khác thuộc về mặt khách quan của tội phạm như: phương pháp, thủ đoạn, phương tiện thực hiện tội phạm và thời gian, hoàn cảnh, địa điểm xảy ra tội phạm không phải là tình tiết định tội mà có thể là tình tiết định khung hoặc tăng nặng, giảm nhẹ. 1.1.2. Phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản Theo BLTTHS năm 2015 thì Thực hành quyền công tố bao gồm các hoạt động cơ quan tố tụng từ khi tiếp nhận tin báo, tin tố giác về tội phạm và kiến 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội
86 p | 322 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai
86 p | 76 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ
80 p | 188 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận
86 p | 138 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
83 p | 133 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam
84 p | 179 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội gây rối trật tự công cộng từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
85 p | 112 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
82 p | 46 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 60 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lào Cai
81 p | 124 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hoãn chấp hành hình phạt tù từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
92 p | 67 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước
102 p | 47 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
91 p | 39 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hình phạt cải tạo không giam giữ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
85 p | 60 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
88 p | 56 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh
86 p | 36 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Bị hại trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
77 p | 34 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội hủy hoại tài sản từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 32 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn