Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Thực hành quyền công tố trong vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Gia Lai
lượt xem 7
download
Đề tài này nghiên cứu, phân tích làm rõ các đặc điểm của công tác thực hành quyền công tố của VKSND dưới góc độ Luật Hiến pháp và Bộ luật TTHS, BLHS; xây dựng một số khái niệm, nội dung, phương pháp công tác thực hành quyền công tố vụ án huỷ hoại và cố ý làm hư hỏng tài sản. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Thực hành quyền công tố trong vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Gia Lai
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THẾ BĂNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG VỤ ÁN HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH GIA LAI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2019
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THẾ BĂNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG VỤ ÁN HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH GIA LAI Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số : 8 38 01 04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐINH XUÂN NAM HÀ NỘI, năm 2019
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN TRẦN THẾ BĂNG
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VỤ ÁN HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN .......................................... 7 1.1. Những vẫn đề lý luận về công tác thực hành quyền công tố vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của Viện kiểm sát nhân dân ..................... 7 1.2. Những quy định của pháp luật về công tác thực hành quyền công tố vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của Viện kiểm sát nhân dân ............ 21 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VỤ ÁN HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI TRONG NHỮNG NĂM QUA ..................................................................................... 33 2.1. Tình hình tội phạm về hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh Gia Lai ............................................................................................... 33 2.2. Đánh giá tình hình hoạt động thực hành quyền công tố đối với tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của VKSND tỉnh Gia Lai trong những năm qua ........................................................................................................... 36 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VỤ ÁN HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI ......................................................................................................... 55 3.1. Các giải pháp chung ................................................................................. 58 3.2. Các giải pháp cụ thể ................................................................................. 61 KẾT LUẬN .................................................................................................... 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ 1 BLHS Bộ luật Hình sự 2 CQ ĐT Cơ quan điều tra 3 KSV Kiểm sát viên 4 TAND Tòa án nhân dân 5 TNHS Trách nhiệm hình sự 6 TTHS Tố tụng hình sự 7 VKS Viện kiểm sát 8 VKSND Viện kiểm sát nhân dân 9 VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao
- DANH MỤC BẢNG BIỂU Số hiệu Tên bảng Trang bảng Thống kê số vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài 2.1 sản trên tổng số vụ án hình sự mà Viện kiểm sát nhân dân 39 tỉnh Gia Lai đã thụ lý giai đoạn năm 2014-2018 Thống kê kết quả điều tra vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm 2.2 hư hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh Gia Lai giai đoạn 2014 – 41 2018 Thống kê kết quả truy tố vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm 2.3 hư hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh Gia Lai giai đoạn 2014 – 43 2018 Thống kê kết quả xét xử sơ thẩm vụ án hủy hoại hoặc cố 2.4 ý làm hư hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh Gia Lai giai đoạn 44 2014 – 2018
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của VKSND là thừa hành quyền lực từ Quốc hội, là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước, nhân danh Nhà nước. Với vị trí, vai trò quan trọng đó, Đảng ta đã dành sự quan tâm lớn đến công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc xét xử sơ thẩm của VKSND như: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 01/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới đã chỉ rõ: "Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác...". Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: “Viện kiểm sát nhân dân tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”. Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 khẳng định: “Trước mắt, viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp... tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra”. "Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp". Các chủ trương, quan điểm đó đã được cụ thể hóa trong Hiến pháp năm 2013, tại khoản 1, Điều 107 và khoản 2, Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 khẳng định: “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố...của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. “Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế sâu 1
- rộng, các khu công nghiệp, khu chế xuất được đầu tư, xây dựng nhiều, do đó đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được tăng lên. Tuy nhiên dưới tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Gia Laitrong những năm vừa qua diễn ra hết sức phức tạp, trung bình mỗi năm các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, điều tra, truy tố và đưa ra xét xử sơ thẩm từ 350 vụ - 600 vụ án hình sự, trong đó có lúc tăng, lúc giảm nhưng nhìn chung luôn có chiều hướng gia tăng. Đặc biệt các loại tội phạm như: Cố ý gây thương tích, cướp tài sản, trộm cắp tài sản luôn có chiều hướng gia tăng cả về số lượng tội phạm, người phạm tội, với tính chất ngày càng nguy hiểm, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra ngày càng lớn. Trước tình hình đó, CQĐT, VKSND, TAND tỉnh Gia Lai đã phối hợp với các cơ quan hữu quan và quần chúng nhân dân tập trung đấu tranh triệt phá nhiều loại tội phạm khác nhau đặc biệt là tội phạm huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, tập trung chỉ đạo điều tra, phá án nhanh, đưa ra truy tố và xét xử kịp thời, tổ chức một số phiên tòa xét xử lưu động các loại án điểm, án điển hình phức tạp, đã được cấp ủy Đảng, chính quyền hoan nghênh, nhân dân đồng tình ủng hộ. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác đấu tranh phòng chống tội phạm của CQĐT, VKSND, TAND vẫn còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế nhất định như: Vẫn còn một số tội phạm chưa được phát hiện (tội phạm ẩn) một số vụ án phải trả hồ sơ điều tra bổ sung nhiều lần dẫn đến kéo dài thời hạn điều tra, truy tố, xét xử; Một số vụ án vẫn bị kháng cáo, kháng nghị và bị Tòa án cấp trên cải sửa, hủy án... Thực trạng đó có nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng một trong những nguyên nhân cơ bản là VKSND hai cấp tỉnh Gia Lai chưa thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố. Chính vì vậy, từ những phân tích nêu trên, việc lựa chọn vấn đề “Thực hành quyền công tố trong vụ án huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Gia Lai” làm 2
- đề tài luận văn Thạc sĩ là đáp ứng yêu cầu cấp thiết khách quan cả về lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Qua khảo sát tác giả thấy có một số đề tài nghiên cứu liên quan đến luận văn như sau: - Lê Cảm (2011), Về Viện kiểm sát Việt Nam, Tạp chí Kiểm sát số 21 tháng 11/2011. - Nguyễn Hải Phong (2014), Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp, Sách tham khảo, Nxb chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội - Lê Hữu Thể (Chủ biên) (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Nxb Tư pháp. - Nguyễn Tiến Sơn (2012), Mối quan hệ Toà án nhân dân với Viện kiểm sát nhân dân, Luận án Tiến sĩ. - Nguyễn Hải Phong (2014), Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm của công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp, Sách tham khảo, Nxb chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội. Những công trình trên đã trình bày những lý luận căn bản về chức năng của VKSND theo quy định của Hiến pháp, Bộ luật TTHS, chỉ ra những đặc điểm trong các khâu công tác của VKSND. Tuy nhiên, chưa có công trình này đi sâu nghiên cứu đặc điểm công tác thực hành quyền công tố vụ án huỷ hoại và cố ý làm hư hỏng tài sản của VKSND. Do vậy, đề tài của luận văn đã đáp ứng các yêu cầu thực tiễn cũng như lý luận đang đặt ra hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ 3.1. Mục đích nghiên cứu Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hành quyền công tố vụ án huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sảncủa VKSND thông qua thực tiễn tỉnh 3
- Gia Lai. Từ đó, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác này trong thời gian tới đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và các quy định của Hiến pháp năm 2013. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu trên, luận án đặt ra và giải quyết những nhiệm vụ như sau: - Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài để xác định những nội dung cần tiếp tục nghiên cứu; - Nghiên cứu, phân tích làm rõ các đặc điểm của công tác thực hành quyền công tố của VKSND dưới góc độ Luật Hiến pháp và Bộ luật TTHS, BLHS; xây dựng một số khái niệm, nội dung, phương pháp công tác thực hành quyền công tố vụ án huỷ hoại và cố ý làm hư hỏng tài sản; - Khảo sát, thống kê, đánh giá tình hình thực tế của công tác thực hành quyền công tố vụ án huỷ hoại làm và cố ý hư hỏng tài sản VKSND hai cấp tỉnh Gia Lai từ năm 2015 đến năm 2019; - Tổng hợp kết quả nghiên cứu, dự báo những yếu tố ảnh hưởng và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thực hành quyền công tố vụ án huỷ hoại và có ý làm hư hỏng tài sản của VKSND. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. 4.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu một số vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố vụ án huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sảncủa VKSND từ thực tiễn tỉnh Gia Lai . 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Các hoạt động thực hành quyền công tố vụ án huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của VKSND. - Về đối tượng: Hoạt động thực hành quyền công tố vụ án huỷ hoại hoặc cố 4
- ý làm hư hỏng tài sản của VKSND hai cấp tỉnh Gia Lai . - Về địa bàn và thời gian nghiên cứu: Trên địa bàn tỉnh Gia Lai và thời gian từ năm 2015 đến hết năm 2019. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Phương pháp luận Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận là phép luận chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về hoạt động thực hành quyền công tố vụ án huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của VKSND. 5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể Luận văn nghiên cứu theo chuyên ngành luật hiến pháp và tố tụng hình sự cùng với các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: - Phương pháp thu thập và nghiên cứu các tài liệu có liên quan để làm rõ tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố vụ án huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của VKSND. - Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp được sử dụng để thống kê và phân tích tài liệu, báo cáo tổng kết hoạt động thực hành quyền công tố vụ án huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của VKSND trong thực tiễn nhằm tổng hợp rút ra những ưu điểm, hạn chế, vướng mắc - Phương pháp nghiên cứu điển hình được sử dụng để tiến hành nghiên cứu, phân tích hoạt động thực hiện công tác thực hành quyền công tố ở một số vụ án cụ thể để tìm ra những ưu điểm và khuyết điểm, thiếu sót mang tính phổ biến. Từ đó rút ra những nguyên nhân, điều kiện dẫn đến các vi phạm của VKSND khi thực hiện công tác thực hành quyền công tố. - Phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia được sử dụng để tọa đàm, trao đổi với các chuyên gia nhằm tìm hiểu các kinh nghiệm trong hoạt động thực hành quyền công tố vụ án huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của VKSND. - Phương pháp luận của khoa học tố tụng hình sự được sử dụng để xác 5
- định cơ sở pháp lý việc thực hiện công tác thực hành quyền công tố vụ án huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của VKSND; làm rõ quan hệ phối hợp và chế ước giữa VKSND với các cơ quan tố tụng . 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1 Ý nghĩa lý luận Luận văn đã góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận khoa học pháp lý chuyên ngành kiểm sát; làm rõ nội dung thực thực hành quyền công tố vụ án huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của VKSND nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động này 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu nghiệp vụ kiểm sát trong Trường Đại học kiểm sát Hà Nội, Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại thành phố Hồ Chí Minh;. Một số đề xuất giải pháp của luận án là tài liệu phục vụ để các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu, tham khảo khi sửa đổi, bổ sung BLHS và Bộ Luật TTHS hiện hành của Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được kết cấu thành 03 Chương cụ thể như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố và qui định của pháp luật về thực hành quyền công tố trong vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Chương 2: Thực trạng hoạt động thực hành quyền công tố vụ án huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai trong những năm qua. Chương 3: Kiến nghị và giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố vụ án huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của Viện kiểm sát nhân tỉnh Gia Lai. 6
- CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VỤ ÁN HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 1.1. Những vẫn đề lý luận về công tác thực hành quyền công tố vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của Viện kiểm sát nhân dân 1.1.1. Khái niệm công tác thực hành quyền công tố vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản 1.1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố Xuất phát từ quan niệm quyền công tố là quyền nhân danh quyền lực công thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, nên thực hành quyền công tố chính là thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó. Tuy vậy, xuất phát từ những quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố đã được pháp luật quy định, việc sử dụng những quyền năng này để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với kẻ phạm tội chính là thực hành quyền công tố. Do vậy, thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử. Trên cơ sở đó, theo tác giả thực hành quyền công tố là “ hoạt động thực hiện các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố của cơ quan được giao thực hiện quyền công tố thông qua các hành vi tố tụng theo định của Bộ 7
- luật tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử”. Để buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội, pháp luật đã quy định hàng loạt các hoạt động tố tụng, như: khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành điều tra thu thập chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của người đã thực hiện hành vi phạm tội, buộc tội đối với bị can, bị cáo và bảo vệ quan điểm truy tố. Việc sử dụng các quyền năng pháp lý để thực hiện các hoạt động tố tụng này chính là thực hiện chức năng thực hành quyền công tố. 1.1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản Khái niệm vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản Hiện nay chưa có quy định và khái niệm cụ thể về vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Qua nghiên cứu quy định về thẩm quyền điều tra trong Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự, nội dung tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, tác giả đưa ra khái niệm vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hỏng tài sản như sau: Vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là vụ án hình sự phát sinh khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án (thông qua Hội đồng xét xử) khởi tố vụ án hình sự về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và áp dụng các biện pháp được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội. Khái niệm thực hành quyền công tố vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản Nghiên cứu về hoạt động thực hành quyền công tố trong vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản hiện nay chưa nhiều, do đó chưa có quy định 8
- cũng như khái niệm về vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Trên cơ sở tìm hiểu và nghiên cứu về thực hành quyền công tố và vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản ở trên. Thực hành quyền công tố vụ án hủy hoại cố ý hoặc làm hư hỏng tài sản được hiểu là “hoạt động thực hiện các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân thông qua các hành vi tố tụng theo định của Bộ luật tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. 1.1.2. Đối tượng công tác thực hành quyền công tố vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản Đối tượng của hoạt động thực hành quyền công tố là tội phạm và người phạm tội. Từ đó có thể suy luận đối tượng của hoạt động thực hành quyền công tố vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là tội phạm và người phạm tội hủy hoại hoặc hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản được quy định cụ thể tại Điều 178 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là hành vi làm cho tài sản bị mất giá trị sử dụng hoặc làm giảm đáng kể giá trị sử dụng của tài sản. Đây là tội phạm gồm hai hành vi độc lập nhưng lại cùng tính chất, nên nhà làm luật quy định chung trong cùng một điều luật. Do đó, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà xác định người phạm tội huỷ hoại tài sản hay chỉ cố ý làm hư hỏng tài sản. Nếu người phạm tội có cả hai hành vi huỷ hoại và cố ý làm hư hỏng tài sản thì phải định tội là huỷ hoại và cố ý làm hư hỏng tài sản, chứ không định tội là huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Các yếu tố cấu thành tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản Cấu thành tội phạm là tổng thể các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội 9
- phạm cụ thể được quy định trong Luật hình sự. Cấu thành tội phạm phải có đầy đủ bốn yếu tố: mặt khách quan, khách thể, mặt chủ quan và chủ thể. Yếu tố cấu thành tội hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản cũng có đầy đủ bốn yếu tố này. Thứ nhất, mặt khách quan của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản có một trong hai hành vi: Hành vi hủy hoại tài sản và hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản. Hành vi hủy hoại tài sản là hành vi làm cho tài sản mất hẳn giá trị sử dụng; không thể khôi phục lại được hoặc khó có thể khôi phục lại được. Hành vi này có thể được thực hiện dưới dạng: hành đồng (đập, đốt, phá,..) và không hành động (bỏ mặc cho tài sản rơi vào tình trạng bị hư hại hoặc tiêu huỷ). Hành vi có thể được người phạm tội thực hiện bằng các hình thức, công cụ, phương tiện khác nhau (dùng dao, búa, gậy, hóa chất,….) Hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác là hành vi làm tài sản của người khác bị mất một phần hoặc giảm giá trị, giá trị sử dụng nhưng ở mức độ có thể khôi phục lại được (ví dụ: Đập phá làm hư hỏng kính của xe hơi nhưng các bộ phận khác của xe vẫn còn). Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác. Người phạm tội khi thực hiện hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng đối với những tài sản sau sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này: tài sản có trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc tài sản trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác mà còn vi phạm; đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật. Thứ hai, khách thể của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản Cũng như những tội xâm phạm đến quyền sở hữu khác, tội hủy hoại 10
- hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Tuy nhiên, khác với các tội xâm phạm đến quyền sở hữu khác, những người phạm tội này không phải đều vì mục đích thu lợi bất chính. Những người phạm tội này, nếu vì mục đích thu lời thì thường không phải là chủ mưu mà chỉ đóng vai trò đồng phạm, tham gia hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác để nhận được một khoản tiền hoặc lợi ích khác từ người chủ mưu. Thứ ba, mặt chủ quan của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản Người phạm tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản luôn thực hiện hành vi phạm tội của mình với lỗi cố ý. Người phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác luôn đặt ra mục đích trước khi thực hiện hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác nên không thể có trường hợp phạm tội do vô ý. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Mục đích của người phạm tội là mong muốn huỷ hoại hoặc làm hư hỏng tài sản của người khác. Ngoài mục đích này, người phạm tội không có mục đích nào khác và mục đích này cũng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Nếu người phạm tội có mục đích khác, còn việc huỷ hoại tài sản hoặc làm hư hỏng tài sản chỉ là phương pháp để đạt được mục đích khác thì không phạm tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản mà tuỳ trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội tương ứng. Ví dụ: Người phạm tội đốt nhà với mục đích giết người thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội là tội hủy hoại tài sản và tội giết người. Thứ tư, chủ thể của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản 11
- Chủ thể của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, những người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này khi thực hiện các hành vi được quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 178 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Người phạm tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xuất phát từ nhiều động cơ khác nhau như: để trả thù, vì ghen tuông... nhưng chủ yếu là vì tư thù. Động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành, mà nó chỉ có ý nghĩa trong việc xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm. Người phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là người thực hiện hành vi tác động vào tài sản thuộc sở hữu của người khác, làm cho tài sản đó bị mất giá trị sử dụng (hủy hoại tài sản) hoặc làm giảm đáng kể giá trị sử dụng của tài sản (làm hư hỏng tài sản) với giá trị thiệt hại từ 2 triệu đồng trở lên hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng thuộc các trường hợp được luật hình sự quy định (Điều 178 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hay nói cách khác, người phạm tội thực hiện hành vi thỏa mãn bốn yếu tố cấu thành tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản như đã phân tích ở trên. Người phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản phải chịu trách nhiệm hình sự với 04 khung hình phạt, cụ thể: - Khung hình phạt quy định hình phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm áp dụng đối với người phạm tội không có tình tiết tăng nặng định khung hình phạt. - Khung hình phạt quy định hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm áp dụng đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: có tổ chức; gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng; tài sản là bảo vật quốc gia; dùng chất nguy hiểm về cháy, nổ hoặc thủ đoạn nguy 12
- hiểm khác; để che dấu tội phạm khác; vì lý do công vụ của người bị hại; tái phạm nguy hiểm. Trong đó: + Dùng chất nổ, chất cháy phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là trường hợp thực hiện các hành vi phạm tội nêu trên bằng chất nổ hoặc chất cháy. Chất nổ là chất có khả năng gây nên một phản ứng hóa học nhanh, mạnh, các loại thuốc nổ, dây nổ, dây cháy chậm, thuốc phóng v.v…Chất cháy là chất có đặc tính tự bốc cháy khi tiếp xúc với ô xi trong không khí, nước hoặc khi có tác động của các yếu tố khác và những chất dễ bị bốc cháy ở nhiệt độ cao, diêm tiêu, phốt pho, thuốc đạn… + Dùng thủ đoạn nguy hiểm khác phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là: sử dụng vũ khí, phương tiện nguy hiểm; sử dụng thuốc ngủ, thuốc mê với liều lượng có thể nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người đang quản lý, trông coi để thực hiện việc hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản được dễ dàng. + Để che giấu tội phạm khác là trường hợp hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản nhằm mục đích che dấu một tội phạm khác đã được thực hiện. Tài sản hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng có thể là những vật, tiền bạc có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội, bao gồm: vật, tiền bạc là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội; vật, tiền bạc do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; vật khác mang dấu vết của tội phạm mà người hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng nhằm mục đích che giấu. + Vì lý do công vụ của người bị hại là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xuất phát từ việc người chủ sở hữu hoặc quản lý tài sản thực hiện công vụ của mình. Mục đích của việc hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là để trả thù người sở hữu hoặc người quản lý tài sản. - Khung hình phạt quy định hình phạt tù từ 05 năm đến 10 năm áp dụng 13
- đối với người phạm tội gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ 200 triệu đồng đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Khung hình phạt quy định hình phạt tù từ 10 năm đến 20 năm áp dụng đối với người phạm tội gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 500 triệu đồng trở lên. - Khung hình phạt bổ sung, quy định hình phạt bổ sung là người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Tóm lại, có thể thấy, đối tượng của công tác thực hành quyền công tố vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là tội phạm là người phạm tội. Xác định đúng đối tượng có ý nghĩa quan trọng trong việc phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố xét xử kịp thời nghiêm minh người phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản; đảm bảo truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người, đúng tội, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội. 1.1.3. Phạm vi công tác thực hành quyền công tố vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản Với mục tiêu mọi tội phạm xảy ra đều phải được phát hiện và xử lý theo pháp luật của trách nhiệm hình sự, nên về mặt nguyên tắc, cứ có tội phạm xảy ra là đòi hỏi quyền công tố phải được phát động. Khi quyền công tố được phát động thì đồng nghĩa với hoạt động thực hành quyền công tố được triển khai và khi quyền công tố không còn thì hoạt động thực hành quyền công tố cũng được kết thúc. Quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì thực hành quyền công tố là hoạt động “được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”. Như vậy, có thể xác định phạm vi thực hành quyền công tố vụ án hủy 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội
86 p | 322 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai
86 p | 73 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ
80 p | 188 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận
86 p | 138 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
83 p | 133 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam
84 p | 179 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội gây rối trật tự công cộng từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
85 p | 105 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
82 p | 46 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 60 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lào Cai
81 p | 122 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hoãn chấp hành hình phạt tù từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
92 p | 66 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước
102 p | 47 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
91 p | 39 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hình phạt cải tạo không giam giữ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
85 p | 59 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
88 p | 56 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh
86 p | 36 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Bị hại trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
77 p | 34 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội hủy hoại tài sản từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 32 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn