Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội nhận hối lộ theo pháp luật hình sự ở Việt Nam hiện nay
lượt xem 10
download
Kết cấu của luận văn gồm phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1 - Những vấn đề lý luận về tội nhận hối lộ theo pháp luật hình sự Việt Nam; Chương 2 - Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội nhận hối lộ ở Việt Nam; Chương 3 - Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội nhận hối lộ ở Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội nhận hối lộ theo pháp luật hình sự ở Việt Nam hiện nay
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI DƯƠNG THỊ HẢI YẾN TỘI NHẬN HỐI LỘ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội - 2019
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI DƯƠNG THỊ HẢI YẾN TỘI NHẬN HỐI LỘ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8380104 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS. NGUYỄN VĂN HUYÊN Hà Nội - 2019
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn nghiên cứu Đề tài “Tội nhận hối lộ theo pháp luật hình sự ở Việt Nam hiện nay” là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Văn Huyên. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong luận văn này là trung thực, chính xác, đồng thời có tham khảo, sử dụng một số tài liệu, thông tin được đăng tải trên các tác phẩm, bài viết, tạp chí theo danh mục tài liệu tham khảo của luận văn. Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về lời cam đoan này./. Tác giả luận văn Dương Thị Hải Yến
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI NHẬN HỐI LỘ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM................................................ 6 1.1. Khái niệm, các dấu hiệu pháp lý cơ bản và ý nghĩa của việc quy định tội nhận hối lộ ..................................................................................... 6 1.2. Quy định hình phạt, đường lối xử lý tội phạm trong Bộ luật hình sự ..... 19 1.3. Phân biệt tội nhận hối lộ với 1 số tội phạm khác có liên quan .......... 35 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI NHẬN HỐI LỘ Ở VIỆT NAM ................................................... 41 2.1. Khái quát tình hình tội phạm tham nhũng, tội phạm nhận hối lộ ...... 41 2.2. Thực tiễn định tội danh tội nhận hối lộ (trong xét xử) ...................... 46 2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội nhận hối lộ ..................... 53 2.4. Đánh giá chung .................................................................................. 59 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI NHẬN HỐI LỘ Ở VIỆT NAM ............ 69 3.1. Tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về tội nhận hối lộ ................................................................................................. 69 3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng hiệu quả áp dụng pháp luật ........ 72 KẾT LUẬN .............................................................................................. 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự CSGT Cảnh sát giao thông CTPTN Các tội phạm tham nhũng CTPVCV Các tội phạm về chức vụ CHLB Cộng hòa liên bang HĐQT Hội đồng quản trị TAND Tòa án nhân dân TNHS Trách nhiệm hình sự TPHCM Thành phố Hồ Chí Minh TTGT Thanh tra giao thông
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tham nhũng là một “căn bệnh” đã xuất hiện từ rất lâu đời, nó là kết quả của việc thâu tóm quyền lực tạo điều kiện cho một bộ phận nhỏ lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình được giao cho để trục lợi riêng, hòng chiếm đoạt tài sản công làm giàu bất chính cho bản thân mình. Tham nhũng tồn tại ở mọi chế độ với những mức độ khác nhau. Ngày nay, khi xã hội ngày càng phát triển thì vấn nạn tham nhũng diễn ra với tình hình hết sức phức tạp và tinh vi. Tham nhũng là mối đe dọa làm ảnh hưởng đến sự ổn định của nền chính trị và sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Không một quốc gia nào trên thế giới đứng ngoài vấn nạn này, trong đó có cả Việt Nam. Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của tội phạm tham nhũng, tại Điều 56 Hiến pháp 2013 quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng, chống tham nhũng trong hoạt động kinh tế - xã hội và quản lý nhà nước”. Việc Hiến pháp quy định điều này là sự khẳng định của Đảng và Nhà nước ta về công cuộc đấu trang phòng chống tham nhũng luôn được chú trọng, quan tâm, đó là một cuộc chiến lâu dài đòi hỏi tất cả mọi người dân, mọi thành phần xã hội chung tay, góp sức đẩy lùi tệ nạn tham nhũng, bảo vệ cuộc sống giàu đẹp hơn. Trong số các tội phạm về tham nhũng gây ảnh hưởng nghiêm trọng thì tội nhận hối lộ trong những năm gần đây có những diễn biến rất phức tạp. Nhiều vụ án lớn, nghiêm trọng về tội nhận hối lộ đã xảy ra trong mọi lĩnh vực như: giao thông vận tải, xây dựng, thi hành án, thanh tra…gây bức xúc trong dư luận xã hội, ảnh hưởng đến uy tín và niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự trong đấu tranh với loại tội phạm này còn gặp nhiều khó khăn do chủ thể của tội phạm là chủ thể đặc biệt, các dấu hiệu phạm tội dễ bị nhầm lẫn với các tội phạm chức vụ khác. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của Luật hình sự Việt Nam cho thấy, từ khi thành lập nước (năm 1945) đến trước khi thông qua BLHS năm 1985, khái niệm về tội phạm chức vụ nói chung, tội phạm nhận hối lộ nói 1
- riêng chưa được quy định trong các văn bản pháp luật hình sự. Trên cơ sở kế thừa và phát triển Luật Hình sự của Nhà nước ta từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến đầu năm 1980, tổng kết thực tiễn đấu tranh, phòng chống tội phạm về chức vụ, có dự đoán đến những diễn biến tình hình tội phạm này trong thời gian tới, cũng như dựa trên khái niệm chung về tội phạm, các nhà làm luật quy định khái quát nhất về tội phạm chức vụ trong Điều 219 BLHS năm 1985 phản ánh những dấu hiệu đặc trưng nhất của nhóm tội phạm chức vụ nói chung. Đến năm 1999 với việc pháp điển hóa lần thứ hai BLHS, các tội phạm về chức vụ được quy định tại Chương XXI, được chia ra làm 2 mục: Mục A – Các tội phạm về tham nhũng, Mục B – Các tội phạm khác về chức vụ, trong bộ luật này, lần đầu tiên tội nhận hối lộ được quy định cụ thể. Kế thừa thành tựu lập pháp trong BLHS năm 1999, BLHS 2015 về cơ bản giữ nguyên khái niệm về tội nhận hối lộ, đồng thời bổ sung một số quy định cụ thể về dấu hiệu và hình phạt ở từng mức độ khác nhau. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật hình sự liên quan đến tội phạm nhận hối lộ còn cho thấy nhiều bất cập về lý luận dẫn đến những vướng mắc trong thực tiễn làm ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của công tác đấu tranh, phòng chống loại tội phạm này. Điều đó đặt ra một thực tế cấp bách cần phải nghiên cứu các quy định của BLHS cũng như các quy định khác của pháp luật có liên quan để làm sáng tỏ quy định về tội nhận hối lộ trong khía cạnh lập pháp và thực tiễn áp dụng từ đó đưa ra các giải pháp để đảm bảo việc áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội nhận hối lộ ở Việt Nam. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Tội nhận hối lộ theo pháp luật hình sự ở Việt Nam hiện nay” làm luận văn thạc sỹ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Tội phạm tham nhũng nói chung và tội phạm nhận hối lộ nói riêng, hiện là vấn đề được Đảng, Nhà nước và đông đảo các tầng lớp nhân dân đặc biệt quan tâm, nó chỉ xảy ra ở một bộ phận nhỏ người có chức vụ quyền hạn nhưng lại có ảnh hưởng rất lớn trên nhiều phạm vi của chính trị, của đời sống xã hội. 2
- Trên thế giới đã có rất nhiều các tổ chức, học giả có các công trình nghiên cứu trên diện rộng, căn cứ vào tình hình khái quát sự phát triển kinh tế - chính trị của nhiều quốc gia, đặc biệt là các công trình nghiên cứu của tổ chức minh bạch quốc tế (Transparency International), Ngân hàng thế giới (World Bank), Đại học Columbia, Trung tâm nghiên cứu thị trường thế giới... Tại Việt Nam, các tội phạm về nhận hối lộ được coi là tội phạm “nhạy cảm”, do chủ thể, do cách thức phạm tội và hậu quả nó để lại, đã có nhiều nhà chính trị, nhà nghiên cứu khoa học pháp luật quan tâm và nghiên cứu. Trong những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu khoa học về các tội phạm tham nhũng nói chung và tội nhận hối lộ nói riêng đã được công bố như: Giáo trình Tội phạm học của GS.TS Võ Khánh Vinh, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2008; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm của Đại học Luật Hà Nội, GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội 2014; Tìm hiểu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ, GS.TS Võ Khánh Vinh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996; PGS.TS Hồ Sỹ Sơn, Tham nhũng và phòng chống tham nhũng ở nước ta hiện nay, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội 2017... - Luận án tiến sĩ luật học “Các tội phạm về tham nhũng theo pháp luật hình sự Việt Nam” của Trần Văn Đạt, Học viện khoa học xã hội, 2012; - Luận án tiến sĩ luật học “ Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam” của Nguyễn Ngọc Tính, Học viện khoa học xã hội, 2017; - Luận văn thạc sĩ luật học “Tội nhận hối lộ trong luật hình sự Việt Nam” của Triệu Là Pham, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2016 - Bình luận điều 354 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 về tội nhận hối lộ của Đỗ Đức Hồng Hà, Tạp chí kiểm sát, tháng 12 năm 2017. Trên cơ sở, một số nghiên cứu khảo sát trên đây cho thấy, có rất nhiều công trình nghiên cứu về tội phạm tham nhũng nói chung, tội nhận hối lộ nói riêng dưới dạng lý luận, tập trung nghiên cứu trên khía cạnh pháp lý của điều luật nhưng chưa toàn diện, đầy đủ với thực tiễn tình hình tội phạm trong giai 3
- đoạn ngày nay. Việc tác giả lựa chọn đề tài “Tội nhận hối lộ theo pháp luật hình sự ở Việt Nam hiện nay” nghiên cứu trên cả khía cạnh lý luận pháp luật và thực tiễn là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, góp phần vào việc nghiên cứu tội phạm nhận hối lộ nói riêng và các tội phạm tham nhũng nói chung, từ đó rút ra được một số kiến nghị, giải pháp khắc phục những tồn tại trong thực tiễn xét xử và công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về tội nhận hối lộ dưới khía cạnh lập pháp hình sự, áp dụng thực tiễn và đề xuất giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định về tội nhận hối lộ trong luật hình sự Việt Nam. Xuất phát từ mục đích tổng quát trên, nhiệm vụ là: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về tội nhận hối lộ trong pháp luật hình sự; - Nghiên cứu các quy định pháp luật hình sự Việt Nam về tội nhận hối lộ; - Khảo sát thực tiễn tội nhận hối lộ ở nước ta, thực tiễn xét xử tội nhận hối lộ ở Việt Nam hiện nay; - Đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội nhận hối lộ ở Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội nhận hối lộ, trên cơ sở đánh giá tình trạng tội phạm, thực tiễn xét xử về tội này để đưa ra các giải pháp nhằm đảm báo áp dụng đúng pháp luật hình sự Việt Nam trong việc xét xử nói chung góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng nói riêng. Đề tài nghiên cứu về “Tội nhận hối lộ” dựa trên cơ sở của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 được quy định chi tiết tại Điều 354 Và các văn bản pháp luật, tài liệu trong phạm vi pháp luật Việt Nam có liên quan đến tội nhận hối lộ. Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng trong thời gian từ năm 2013 đến 6 tháng đầu năm 2019. 4
- 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận về chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng; tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng chính sách hình sự áp dụng đối với tội nhận hối lộ. Đề tài nghiên cứu sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: - Phương pháp thống kê; - Phương pháp phân tích và so sánh; - Phương pháp khảo sát; - Phương pháp xử lý thông tin; - Phương pháp quy nạp – diễn dịch; Trong các phương pháp nêu trên thì phương pháp phân tích luật giữ vai trò quan trọng nhất. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Luận văn tập trung làm rõ những vấn đề lý luận, quy định pháp luật hình sự Việt Nam về tội nhận hối lộ; phân tích, rõ hơn các dấu hiệu phạm tội, đường lối xử lý tội phạm nhận hối lộ; Thông qua luận văn, việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về cơ bản đã chỉ ra những mặt ưu điểm, hạn chế, khó khăn trong việc áp dụng cơ sở lý luận về tội nhận hối lộ vào hoạt động xét xử tội phạm, đồng thời, phân tích, đánh giá được nguyên nhân của hạn chế, khó khăn, trên cơ sở đó luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm áp dụng pháp luật vào thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân các cấp, góp phần đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả loại tội phạm này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và dạnh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về tội nhận hối lộ theo pháp luật hình sự Việt Nam Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội nhận hối lộ ở Việt Nam Chương 3: Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội nhận hối lộ ở Việt Nam. 5
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI NHẬN HỐI LỘ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm, các dấu hiệu pháp lý cơ bản và ý nghĩa của việc quy định tội nhận hối lộ 1.1.1. Khái niệm 1.1.1.1. Khái niệm chung về các tội phạm tham nhũng Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng đã sử dụng thuật ngữ nói về tham nhũng như sau: “Cộng đồng quốc tế bày tỏ sự lo ngại về tính nghiêm trọng của các vấn đề cũng như các mối đe dọa do tham nhũng gây ra đối với sự ổn định và an ninh xã hội, xói mòn các thể chế và giá trị dân chủ, các giá trị đạo đức, công lý và gây tổn hại đến sự pháp triển bền vững và chế độ.” [27, trg.24]. Tại Việt Nam hiện nay, tham nhũng đang là một trong những vấn đề gây nhức nhối, được toàn Đảng, toàn xã hội rất quan tâm. Tham nhũng là căn bệnh của bộ máy quyền lực, là một trong những nguyên nhân tạo ra sự trì trệ, làm giảm tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, gây mất lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng luôn được Đảng và Nhà nước ta chú trọng hàng đầu, coi đó là một trong những “vấn nạn quốc gia” cần được từng bước loại bỏ trong tương lai để tiến tới xây dựng một đất nước phát triển phồn vinh, ổn định. Nhìn từ góc độ chính trị, tham nhũng là hiện tượng xã hội tiêu cực thể hiện sự tha hóa của quyền lực chính trị, quyền lực Nhà nước mà một trong những biểu hiện của sự tha hóa đó là đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích của tập thể, của xã hội, đây là hiểm họa đe dọa sự tồn tại của một nền chính trị, một chế độ Nhà nước [27, trg 25]. Nhìn từ góc độ đạo đức, tham nhũng là hiện tượng trái với đạo đức của xã hội, làm tha hóa, hủy hoại giá trị tốt đẹp của con người, làm ranh giới giữa lòng tham, cái ác, sự vô cảm được tăng lên, đi ngược với truyền thống đạo đức của xã hội. Nhìn từ góc độ kinh tế, tham 6
- nhũng là hiện tượng tiêu cực của nền kinh tế khi nó dùng phương thức bất hợp pháp để làm giàu cho một bộ phận nhỏ trong xã hội, gây thất thoát tài sản của Nhà nước, cản trở phá hoại nên kinh tế và các chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhìn từ góc độ pháp lý, tham nhũng là hành vi trái pháp luật hình sự với lỗi cố ý, được bộ luật hình sự quy định và trừng trị. Tại khoản 1 Điều 3 Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định:”1. Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”. Theo từ điển Tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học thì: “Tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu nhân dân lấy của cải” [38, tr.56]. Như vậy, ta có thể hiểu tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng việc thực hiện quyền lực của nhà nước để thực hiện các hành vi trục lợi cho bản thân. CTPTN, CTPVCV thể hiện sự tha hóa của quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước. Nó là sự lạm dụng quyền lực khi Nhà nước trao cho một số cá nhân quyền nhất định thay mặt Nhà nước điều hành, giải quyết các công việc nhằm xây dựng đất nước trên nhiều lĩnh vực khác nhau. CTPTN, CTPVCV là những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm hoạt động đúng đắn và uy tín của cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. 1.1.1.2. Khái niệm về tội nhận hối lộ trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay Tội nhận hối lộ là một trong những tội điển hình của các tội phạm về tham nhũng, chức vụ, nó được coi là một loại tội phạm rất nguy hiểm, làm tổn thất tài sản của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Theo từ điển tiếng việt, “hối lộ” là động từ, được hiểu là: “Lén lút đưa tiền của để nhờ kẻ có quyền làm điều trái với pháp luật nhưng có lợi cho mình”. Còn trong Tiếng Anh, “Bribery” (hối lộ) có nghĩa là “một dạng tham nhũng, là hành vi đưa tiền hoặc quà nhằm thay đổi thái độ của người nhận” [44] 7
- Công ước của Liên Hợp quốc về chống tham nhũng quy định về tội nhận hối lộ như sau: “Hành vi của người có chức vụ (trong lĩnh vực công hoặc tư, của quốc gia hoặc tổ chức quốc tế), trực tiếp hay gián tiếp, đòi hoặc nhận một lợi ích không chính đáng cho chính bản thân công chức hay cho người hoặc tổ chức khác, để người có chức vụ đó làm hoặc không làm một việc trong quá trình thi hành công vụ”. Xét dưới góc độ chính trị, “Hối lộ là một trong những loại bổng lộc của quyền lực và là một hình thức trao đổi chung giữa quyền lực và sự giàu có” [40]. Hiện tượng hối lộ làm mất niềm tin của nhân dân đối với hệ thống chính trị nói chung và cán bộ, công chức được coi là “công bộc của nhân dân” nói riêng. Khi chúng ta nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi hối lộ đối với hệ thống chính trị, sự cần thiết phải xử lý loại hành vi này bằng pháp luật hình sự trở nên rõ ràng hơn. Trong khi đó, từ khía cạnh hành chính - nhà nước, các học giả và đa số các quốc gia đều thống nhất chung “hối lộ” là một loại hành vi tham nhũng. Hiện tượng này đang có xu hướng xảy ra nhiều tại những nơi thiếu sự minh bạch và thiếu sự tôn trọng các quy tắc đạo đức, đồng thời tác động trở lại làm cho bộ máy nhà nước trở nên trì trệ, thối nát và quan liêu. Đặc biệt, hối lộ cũng hủy hoại đạo đức và trách nhiệm của những người thực thi chức trách, làm mất lòng tin của công chúng vào hoạt động công vụ [36, tr.27.] Tuy có nhiều quan điểm tiếp cận khác nhau nhưng về cơ bản, có thể hiểu khái quát: Nhận hối lộ là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận lợi ích vật chất hoặc phi vật chất để sử dụng quyền lực được nhà nước, tổ chức giao phó thực hiện hoặc không thực hiện mong muốn có lợi cho người đưa hối lộ. Dưới góc độ của pháp luật hình sự Việt Nam, tội nhận hối lộ là một trong các tội cơ bản của tội phạm về chức vụ được quy định tại điều 354, Bộ luật hình sự năm 2015. Nhận hối lộ là một trong những tội phạm có tính đặc trưng, nghiêm trọng nhất trong nhóm các tội phạm về tham nhũng. Tác hại của tội phạm này gây 8
- hậu quả trên nhiều phạm vi, nhiều lĩnh vực là trở ngại lớn trong quá trình đất nước đổi mới, đến sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. 1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý cơ bản của tội nhận hối lộ trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 1.1.2.1. Dấu hiệu về khách thể của tội nhận hối lộ Khách thể của Tội nhận hối lộ là hoạt động đúng đắn, những quan hệ xã hội liên quan đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức trong Nhà nước và của cả các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước; làm cho cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp này bị suy yếu, mất uy tín; làm cho nhân dân mất niềm tin vào Đảng và Nhà nước. Đa số các hành vi nhận hối lộ của người có chức vụ, quyền hạn là làm trái với công vụ được giao, gây thiệt hại trực tiếp cho cơ quan, đơn vị nơi mình công tác. Bên cạnh đó, những trường hợp người có chức vụ, quyền hạn giải quyết đúng pháp luật, đúng công việc trong thẩm quyền của cá nhân được giao phó nhưng vẫn nhận hối lộ để giải quyết công việc theo yêu cầu của người hối lộ thì hành vi đó vẫn xâm phạm đến hoạt động bình thường của cơ quan tổ chức, xâm phạm đến uy tín của cơ quan, tổ chức mà họ là thành viên. Một hành vi nhận hối lộ khi bị phát giác, tạo thành sự bức xúc không nhỏ trong đại đa số nhân dân, từ đó làm giảm sút niềm tin của nhân dân vào chế độ, vào Đảng, đây cũng là mầm mống manh nha gây ảnh hưởng đến chế độ đất nước, cần phải kiên quyết đấu tranh, đẩy lùi trong mọi thời điểm, trên mọi lĩnh vực. Đối tượng tác động của tội nhận hối lộ được pháp luật xác định là “của hối lộ”, bao gồm: tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác hoặc lợi ích phi vật chất. Trong cấu thành tội phạm nhận hối lộ, “của hối lộ” được coi là tình tiết quan trọng để xác định mức độ phạm tội và khung hình phạt dành cho hành vi này. Tiền là một phương tiện thanh toán ngang giá được dùng để trao đổi hàng hóa và dịch vụ nhằm thỏa mãn bản thân và mang tính dễ thu nhận. Tiền được Nhà nước phát hành bảo đảm giá trị bởi các tài sản khác như vàng, kim loại quý, trái phiếu, ngoại tệ hoặc được một thuật toán mã hóa trên một mạng máy tính đảm bảo phát hành như Bitcoin, Ethereum. Tiền là một chuẩn mực 9
- chung để có thể so sánh giá trị của các hàng hóa và dịch vụ. Bộ luật dân sự năm 2015 quy định tiền là một loại tài sản nhưng lại không có quy định để làm rõ bản chất pháp lý của tiền, chỉ có loại tiền có giá trị đang được lưu hành trên thực tế, tức là được pháp luật thừa nhận mới được coi là tài sản. Tiền là công cụ thanh toán đa năng, là công cụ tích lũy tài sản và là thước đo giá trị. Tài sản được quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 như sau: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.” Tài sản là của cải vật chất dùng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng. Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu có hình thái vật chất thoả mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định hữu hình, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu như nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải… Tài sản lưu động là những tài sản ngắn hạn và thường xuyên luân chuyển trong quá trình kinh doanh, bao gồm: tiền mặt, tiền gửi ngân hàng và những khoản có thể chuyển ngay thành tiền mặt như cổ phiếu, séc… Ngoài tiền và tài sản pháp luật cũng quy định lợi ích vật chất khác là những lợi ích thỏa mãn yêu cầu của người nhận hối lộ, tồn tại dưới dạng vật chất nhưng lại không thể quy đổi thành tiền, cũng không tồn tại dưới dạng tài sản cụ thể. Trong thực tiễn xét xử, đã phát hiện nhiều trường hợp người nhận hối lộ nhận lợi ích như: vé xem hòa nhạc, buổi gặp gỡ với nhân vật nổi tiếng có tầm ảnh hưởng, hứa cho hưởng lãi suất cao, hứa đảm bảo thủ tục đi du học… Pháp luật quy định lợi ích vật chất khác để đảm bảo việc xác định “của hối lộ” không bị bỏ sót, tránh tình trạng lách luật và đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trong tình hình hiện nay. Điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 so với Bộ luật hình sự năm 1999 là quy định thêm về lợi ich phi vật chất. Quy định này đã mở rộng nội hàm của thuật ngữ “của hối lộ”. Theo đó, lợi ích phi vật chất là những lợi ích vô hình, phi tiền tệ, đó là lợi ích về mặt tinh thần được biểu hiệu thông qua nhiều hình thức khác nhau 10
- và mang lại giá trị về mặt tinh thần cho người nhận hối lộ. Một số lợi ích phi vật chất như: hối lộ tình dục, vị trí, việc làm… Các nhà làm luật đã nghiên cứu, cân nhắc và đưa vào Bộ luật hình sự năm 2015 thuật ngữ “lợi ích phi vật chất” trong đó quy định của hối lộ là tình dục. Loại hình hối lộ này liên quan đến bản năng sinh lý của con người, nó kéo theo là sự bất ổn đến đời sống gia đình, phát sinh nhiều vấn đề không chỉ dừng lại ở thỏa mãn mục đích hối lộ. Loại hình này đã phát sinh từ rất lâu, không còn là vấn đề mới mẻ, nhưng tính chất nhạy cảm, tế nhị nên khi cân nhắc đưa vào chế định luật cụ thể thì đây là lần đầu tiên hình thức này được đề cập. Trên thực tế, loại hình hối lộ này đều được mọi người hiểu nhưng rất khó để phát hiện, rất khó đưa ra bằng chứng luận tội, các chế tài xử lý phù hợp nhất. Công ước quốc tế đã quy định hối lộ tình dục thuộc phạm trù hối lộ “phi vật chất”, việc bước đầu đưa hình thức hối lộ phi vật chất vào Bộ luật hình sự là một bước tiến mới, phù hợp với hệ thống hóa pháp luật trên thế giới, cũng như đáp ứng được công cuộc phòng chống tham nhũng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Cho dù “của hối lộ” có là lợi ích vật chất hay phi vật chất thì đều phải đảm bảo phù hợp với nhu cầu hoặc yêu cầu của người nhận hối lộ. 1.1.2.2 Dấu hiệu về mặt khách quan của tội nhận hối lộ Mặt khách quan của tội nhận hối lộ bao gồm những hành vi xâm phạm đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức. Đặc trưng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất và phi vật chất của người đưa hối lộ. Tài sản trong tội nhận hối lộ là tài sản mà người nhận hối lộ có được một cách bất hợp pháp, còn gọi là “của hối lộ” do người đưa hối lộ đưa bằng con đường trung gian hay trực tiếp. Dấu hiệu hành vi: Hành vi nhận hối lộ được thực hiện thông qua sự thỏa thuận, thống nhất giữa người nhận hối lộ và đưa hối lộ. Sự thỏa thuận là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này, giữa họ đòi hỏi phải có sự trao đổi, thống nhất, đạt đến nhận thức chung, ngoài ra sự thỏa thuận đó phải có sự cam kết, khẳng định, thỏa thuận bằng miệng, bằng giấy hoặc thỏa thuận ngầm… Kết quả 11
- đạt được của sự thỏa thuận đó là việc người nhận hối lộ sẽ làm hoặc không làm một việc nhất định theo yêu cầu hoặc vì lợi ích của người đưa hối lộ. Tội nhận hối lộ có 02 hành vi cơ bản, quan trọng để cấu thành tội phạm: Hành vi thứ nhất, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất của người đưa hối lộ. Trong hành vi này, người nhận hối lộ sử dụng vị trí, nhiệm vụ của bản thân trong cơ quan, đơn vị, tổ chức của mình để thực hiện nhận về bản thân các lợi ích về vật chất hoặc lợi ích về tinh thần từ người đưa hối lộ. Việc nhận các giá trị này có thể là trực tiếp hoặc trung gian qua người thứ ba. Cần lưu ý, có trường hợp người nhận hối lộ nhận “của hối lộ” không từ người đưa hối lộ, cũng không phải từ người môi giới hối lộ nhưng vẫn là phạm tội nhận hối lộ (xét trong trường hợp việc nhận hối lộ có tổ chức). Trường hợp người nhận hối lộ nhận “của hối lộ” qua trung gian, không nhất thiết phải biết người đưa hối lộ là ai, mà chỉ cần biết đó là “của hối lộ” thì bị coi là nhận hối lộ. Tuy nhiên, người nhận hối lộ phải biết việc nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác hay lợi ích phi vật chất là nhận của hối lộ, nếu có căn cứ xác định người nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác hay lợi ích phi vật chất nhưng không biết đó là của hối lộ thì người nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác, lợi ích phi vật chất không bị coi là nhận hối lộ. Tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác hoặc lợi ích phi vật chất có thể đã được người nhận hối lộ nhận, cũng có thể chưa nhận nhưng giữa người nhận hối lộ và người đưa hối lộ phải có một sự thỏa thuận nhất định. Điều 354 quy định cụ thể về hành vi cụ thể là “nhận” hoặc “sẽ nhận”. Nhận là việc người có chức vụ quyền hạn đã sở hữu tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác hay lợi ích phi vật chất mà người đưa hối lộ đã trực tiếp hoặc qua trung gian giao cho. Trong trường hợp này, của hối lộ đó đã được chuyển dịch sang cho người nhận hối lộ, người nhận hối lộ đã sở hữu các lợi ích về vật chất từ người đưa hối lộ chuyển giao hoặc người nhận hối lộ cũng đã đạt được các thỏa thuận, thỏa mãn về lợi ích tinh thần. Sẽ nhận là việc người nhận hối lộ chưa nhận được, chưa nắm giữ các lợi ích vật chất hoặc phi vật chất từ người đưa hối lộ, mà họ mới chỉ nhận 12
- được lời hứa hẹn sẽ giao, sẽ đưa, sẽ cung cấp các lợi ích vật chất trong tương lai, chưa xảy ra trên thực tế. Hành vi này thể hiện kết quả của sự thỏa thuận, nhấn mạnh tính chất, tầm quan trọng của sự thỏa thuận giữa người nhận hối lộ và người đưa hối lộ. Của hối lộ được xác định là phương tiện để thực hiện tội phạm, là dấu hiệu khách quan của tội nhận hối lộ, không phải là yếu tố quyết định thời điểm tội phạm hoàn thành. Dù nhận hay chưa nhận các lợi ích vật chất, phi vật chất thì người có chức vụ, quyền hạn đó vẫn thực hiện các thỏa thuận với người đưa hối lộ. Hành vi thứ hai, Để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ. Đây là dấu hiệu quan trọng trong mặt khách quan của tội nhận hối lộ. Việc làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ là việc người nhận hối lộ đã sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình như công cụ để thực hiện, giải quyết, thỏa mãn một yêu cầu nào đó cho người đưa hối lộ, đem lại lợi ích cho chính người đưa hối lộ hoặc đem lại lợi ích cho người khác mà người đưa hối lộ quan tâm. Không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ là trường hợp người nhận hối lộ không thực hiện hành vi mà đáng lẽ họ phải thực hiện và do không thực hiện nhiệm vụ đó nên đã đem lại lợi ích cho người đưa hối lộ, hoặc cho người khác mà người đưa hối lộ quan tâm. Trường hợp này, hành vi của người có chức vụ, quyền hạn luôn thực hiện bằng hình thức không hành động. Người mà người đưa hối lộ quan tâm trong trường hợp này là những người thân của người đưa hối lộ cũng có thể là bạn bè của người đưa hối lộ. Trong trường hợp người nhận hối lộ lạm dụng chức vụ, quyền hạn để làm một việc thuộc chức trách của người khác thì người đó vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội nhận hối lộ. - Hình thức biểu hiện của hành vi được khái quát chung là: trực tiếp hoặc qua trung gian. 13
- Trực tiếp nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất là trường hợp người nhận hối lộ trực tiếp gặp gỡ, tiếp xúc nhận của hối lộ từ chính người đưa hối lộ, không qua người khác. Qua trung gian là trường hợp người nhận hối lộ không trực tiếp tiếp xúc gặp gỡ với người đưa hối lộ. Quá trình trung gian này được thực hiện có thể qua người thứ ba hoặc nhiều người trung gian chuyển giao, có thể qua nhiều khâu trung gian, ngụy trang chuyển giao của hối lộ. Trng trường hợp này người hối lộ không nhất thiết phải biết người đưa hối lộ là ai, chỉ cần biết đó là “của hối lộ” và nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất, lợi ích phi vật chất đó thì đã cấu thành tội phạm. - Về dấu hiệu hậu quả: Hậu quả của nhận hối lộ là những thiệt hại vật chất hoặc phi vật chất, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, tổ chức. Dấu hiệu hậu quả không phải dấu hiệu định tội mà là dấu hiệu định khung tăng nặng cho tội này. Tội nhận hối lộ có cấu thành tội phạm hình thức, tội hoàn thành tại thời điểm người nhận và đưa hối lộ đạt được sự thỏa thuận để người có chức vụ, quyền hạn nhận hoặc sẽ nhận của hôi lộ để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ. Tội nhận hối lộ không có hành vi chiếm đoạt và tội phạm hoàn thành không nhất thiết từ thời điểm người phạm tội đã hay chưa nhận được của hối lộ. Tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác được dùng để phân biệt tội phạm nhận hối lộ và các hành vi vi phạm pháp luật khác. - Về thời điểm tội phạm hoàn thành: Tội phạm hoàn thành khi đạt được sự thỏa thuận giữa người nhận và người đưa hối lộ, trên cơ sở căn cứ vào giá trị của tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác hay lợi ích phi vật chất. 1.1.2.3. Dấu hiệu về chủ thể của tội nhận hối lộ Tội nhận hối lộ có điểm đặc biệt về chủ thể là người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan, tổ chức theo quy định. Khái niệm người có chức vụ, quyền hạn được đề cập ngay tại Điều 352 Bộ luật hình sự 2015: “Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, 14
- có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ”. Nhóm chủ thể này đặc trưng cho chủ thể trong các tội phạm về chức vụ. Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội nhận hối lộ phải đảm bảo đầy đủ các điều kiện về năng lực trách nhiệm hình sự, đạt đổ tuổi nhất định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể. Đó là các điều kiện đảm bảo cần và đủ về độ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các điều 12, 21 BLHS 2015, ngoài ra chủ thể của tội hối lộ còn mang nhiều đặc điểm riêng biệt như: Người phạm tội nhận hối lộ thường là những người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong tổ chức, có thể là người đứng đầu, hoặc người có vai trò và tầm ảnh hưởng nhất định trong bộ máy hoạt động của cơ quan, tổ chức đó. Những người đó không chỉ là người có trách nhiệm quản lý tài sản của tổ chức, mà bao hàm phạm vi quyền hạn của người đó có thể rộng hơn. Người phạm tội nhận hối lộ lại không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tư lợi riêng đối với phần tài sản mà mình quản lý, mà lại lợi dụng chính chức vụ, quyền hạn của mình để hứa hẹn thực hiện hay thực hiện một điều gì đó theo ý muốn của người hối lộ để đổi lại là tiền, tài sản, các lợi ích vật chất hay phi vật chất khác. Trong việc xác định tội danh nhận hối lộ, ngoài người thực hiện hành vi nhất thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn, còn có một nhóm đối tượng không phải là người có chức vụ, quyền hạn, nhưng vẫn có thể là chủ thể của tội phạm, đó là người tổ chức, xúi giục, người giúp sức. Tuy nhiên, trong việc định tội danh đồng phạm đối với nhóm chủ thể này, cần phải hết sức cẩn thận do có thể nhầm sang tội “môi giới hối lộ”. Có thể hiểu, trong trường hợp vụ án nhận hối lộ không có đồng phạm thì chủ thể nhận hối lộ là chủ thể đặc biệt, chỉ người có chức vụ quyền hạn mới nhận hối lộ được. Còn trong vụ án có đồng phạm thì có thể có cả những người không có chức vụ, quyền hạn tham gia, nhưng họ chỉ có thể là người tổ chức, người xúc giục, giúp sức. Người có chức vụ quyền hạn phải thực hiện công vụ khi giải quyết yêu cầu của người đưa hối lộ mới được coi là người nhận hối lộ. Đây là hành vi 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội
86 p | 322 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai
86 p | 72 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ
80 p | 188 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận
86 p | 137 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
83 p | 133 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam
84 p | 178 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội gây rối trật tự công cộng từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
85 p | 105 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
82 p | 45 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 60 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lào Cai
81 p | 121 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hoãn chấp hành hình phạt tù từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
92 p | 66 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước
102 p | 47 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
91 p | 39 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hình phạt cải tạo không giam giữ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
85 p | 58 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
88 p | 56 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh
86 p | 36 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Bị hại trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
77 p | 34 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội hủy hoại tài sản từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 32 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn