Luận văn Thạc sĩ Luật học: Bảo hiểm xã hội tự nguyện trong Luật bảo hiểm xã hội năm 2014
lượt xem 12
download
Kết cấu của luận văn gồm Lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương: Chương 1 - Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội tự nguyện và sự điều chỉnh của pháp luật; Chương 2 - Thực trạng bảo hiểm xã hội tự nguyện trong Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 và thực tiễn thi hành; Chương 3 - Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện trong Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Bảo hiểm xã hội tự nguyện trong Luật bảo hiểm xã hội năm 2014
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐOÀN MINH HIỀN B¶O HIÓM X· HéI Tù NGUYÖN TRONG LUËT B¶O HIÓM X· HéI N¡M 2014 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2020
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐOÀN MINH HIỀN B¶O HIÓM X· HéI Tù NGUYÖN TRONG LUËT B¶O HIÓM X· HéI N¡M 2014 Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8380101.05 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. LÊ THỊ HOÀI THU HÀ NỘI - 2020
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Đoàn Minh Hiền
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục bảng, biểu đồ và hình MỞ ĐẦU................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT ............... 6 1.1. Khái quát chung về bảo hiểm xã hội tự nguyện ............................ 6 1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa bảo hiểm xã hội tự nguyện ................................. 6 1.1.2. Bản chất của bảo hiểm xã hội tự nguyện ........................................ 10 1.2. Điều chỉnh pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ................... 12 1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện......................... 12 1.2.2. Nguyên tắc pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ....................... 13 1.2.3. Nội dung của pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện .................... 15 1.2.4. Vai trò của pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện........................ 22 1.3. Pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện ở một số nước trên thế giới và những gợi mở cho Việt Nam............................................ 25 Kết luận Chương 1.................................................................................. 31 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN TRONG LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI NĂM 2014 VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH ........................................................................ 32 2.1. Thực trạng các quy định về bảo hiểm xã hội tự nguyện ............. 32 2.1.1. Về đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện .......................... 32 2.1.2. Về các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện ...................................... 33 2.1.3. Về mức đóng và phương thức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện ...... 38
- 2.1.4. Về quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện và quản lý bảo hiểm xã hội tự nguyện ..................................................................................... 41 2.2. Thực tiễn thi hành bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam ........ 43 2.2.1. Những kết quả đạt được ................................................................ 43 2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế .................................. 49 Kết luận Chương 2.................................................................................. 55 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM............................................................... 56 3.1. Các yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện.......................................................................... 56 3.1.1. Cần phù hợp với định hướng phát triển kinh tế xã hội..................... 56 3.1.2. Cần phù hợp với xu thế quốc tế ..................................................... 57 3.1.3. Cần đa dạng hóa các đối tượng tham gia ........................................ 58 3.1.4. Cần xây dựng các quy định linh hoạt ............................................. 61 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện và các vướng mắc có thể gặp phải ........................ 62 3.2.1. Về mức đóng và phương thức đóng ............................................... 62 3.2.2. Về chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện ............................................ 64 3.2.3. Về chủ thể trong quan hệ bảo hiểm xã hội tự nguyện ...................... 67 3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam................................ 68 3.3.1. Kiến nghị với BHXH Việt Nam .................................................... 68 3.3.2. Đối với địa phương ....................................................................... 71 Kết luận Chương 3.................................................................................. 74 KẾT LUẬN ............................................................................................. 75 TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................... 77
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ASXH: An sinh xã hội BHXH: Bảo hiểm xã hội BHXHTN: Bảo hiểm xã hội tự nguyện DN: Doanh nghiệp ILO: Tổ chức Lao động Quốc tế
- DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ VÀ HÌNH Số hiệu Tên bảng, biểu đồ và hình Trang Bảng 2.1 Số người tham gia Bảo hiểm xã hội tự nguyện qua các năm 46 Biểu đồ 2.1 Số người tham gia Bảo hiểm xã hội tự nguyện qua các năm 47 Hình 1.1 Bảng chế độ hưu trí 3 tầng tại Canada 28
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Các chính sách xã hội, cụ thể là vấn đề an sinh xã hội (ASXH) của mỗi quốc gia có vai trò đặc biệt quan trọng, vừa là mục tiêu vừa là động lực để phát triển kinh tế nhanh và bền vững cũng như đảm bảo sự ổn định xã hội. Trong đó, bảo hiểm xã hội (BHXH) đóng vai trò trụ cột trong sàn an sinh xã hội, là bộ phận lớn nhất trong hệ thống an sinh xã hội, không có bảo hiểm xã hội thì không thể có một nền an sinh xã hội vững mạnh. Các chuyên gia về BHXH đánh giá hiện nay là thời điểm phù hợp để tiến hành cải cách chính sách BHXH tại Việt Nam. Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ nhấn mạnh tại Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII diễn ra vào tháng 5 năm 2018: “Chính sách BHXH của nước ta đã đạt được những kết quả tích cực, đồng thời cũng đặt ra những vấn đề lớn cần phải cải cách, điều chỉnh nhiều nội dung để khắc phục những hạn chế, yếu kém, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, phù hợp xu hướng phát triển và bối cảnh mới”. Ðề án cải cách chính sách BHXH được nhận định là một trong ba đề án quan trọng được thông qua tại Hội nghị này. Nội dung đầu tiên của Đề án là xây dựng hệ thống BHXH đa tầng bao gồm: Lương hưu xã hội; BHXH cơ bản gồm BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện; bảo hiểm hưu trí bổ sung nhằm tăng diện bao phủ, hướng tới mục tiêu BHXH toàn dân; đồng thời tạo cơ hội cho người về hưu có điều kiện đa dạng hóa các nguồn lương hưu. Trong đó, việc nâng cao hiệu quả của chính sách BHXH tự nguyện đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính vững chắc cho hệ thống trên. Tiếp đó tại Hội thảo xây dựng kế hoạch đánh giá chính sách trợ giúp xã hội quy định tại Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1/6/2012 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 1
- 2012- 2020 diễn ra vào ngày 29 tháng 6 năm 2018 tại Hòa Bình, một trong hai lĩnh vực chính được các chuyên gia, các tổ chức quốc tế và đại diện các địa phương tổ chức tập trung đánh giá là bảo hiểm xã hội, đặc biệt là chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện. Bởi lẽ, trước những thay đổi nhanh chóng của bối cảnh trong nước và quốc tế, đặc biệt là dưới tác động của các xu thế mang tính thời đại như già hóa dân số, biến đổi khí hậu, cách mạng công nghiệp 4.0, việc bảo đảm cuộc sống cho người lao động và gia đình họ, nhất là những lao động phi chính thức trước những rủi ro xã hội ngày càng trở thành vấn đề bức thiết. Theo Báo cáo tổng kết công tác năm 2017 và phương hướng nhiệm vụ năm 2018 của Vụ Bảo hiểm xã hội, Bộ Lao động Thương bình và Xã hội, tính đến ngày 30/11/2017, số người tham gia BHXH ước đạt 13,715 triệu người đạt tỷ lệ 24,95% lực lượng lao động tham gia BHXH, trong đó số người tham gia BHXH tự nguyện ước tính đạt 245 nghìn người, chiếm 0,45% lực lượng lao động tham gia BHXH. Trong khi đó, theo thống kê của Tổ chức Lao động Thế Giới (ILO), tại Việt Nam, tính đến cuối năm 2017, tỉ lệ lao động khu vực phi chính thức chiếm 57,2% - tương đương hơn 18 triệu người. Như vậy, tỉ lệ người lao động tham gia BHXH tự nguyện chỉ đạt xấp xỉ 0.014% lao động trong khu vực phi chính thức trong khi lao động phi chính thức thường có đặc điểm là việc làm bấp bênh và thiếu ổn định, thu nhập thấp và thời gian làm việc dài. Có thể nhận thấy rằng, việc nghiên cứu và tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về chế độ BHXH tự nguyện cho nhóm đối tượng chiếm quá nửa lực lượng lao động tại thời điểm Việt Nam đang tiến hành cải cách chính sách BHXH trở nên vô cùng cấp thiết, đặc biệt quan trọng; sẽ góp phần làm vững chắc hơn trụ cột của hệ thống an sinh xã hội – bảo hiểm xã hội tại nước ta. 2
- 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện vẫn được nghiên cứu bởi các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước trong mối quan tâm chung về việc đảm bảo đời sống của người lao động, đặc biệt là nhóm lao động phi chính thức vốn được cho là bị bỏ ngỏ nhiều khoảng trống về quyền lợi. Tại Việt Nam, các tài liệu nghiên cứu về bảo hiểm xã hội đều nghiên cứu chung cho cả bảo hiểm xã hội bắt buộc lẫn bảo hiểm xã hội tự nguyện. Phần lớn các công trình nghiên cứu trong nước gần đây thường giới hạn tại một số các khu vực nhất định hoặc đối với một số nhóm chủ thể nhất định nên thiếu đi công trình nghiên cứu mang khái quát, tổng hợp, đánh giá chung các quy định pháp luật về BHXH tự nguyện trên phạm vi cả nước. Một số các nghiên cứu trong đó có khuôn khổ hợp tác nghiên cứu về “Khảo sát lao động phi chính thức” thuộc Dự án “Hỗ trợ chuyển đổi sang chính thức” do Viện Khoa học Lao động và Xã hội phối hợp với Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) năm 2017, nghiên cứu cấp Bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng chính sách khuyến khích tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện đối với lao động nghèo, lao động là người dân tộc thiểu số, nông dân có mức thu nhập từ trung bình trở xuống” do Viện Khoa học Lao động Xã hội chủ trì đề tài năm 2013, đề tài nghiên cứu “Phân tích thực trạng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện của người lao động tự do” của ThS. Nguyễn Thị Thúy,… 3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu vào những vấn đề về lý luận pháp luật về BHXH tự nguyện và thực trạng thực hiện các quy định về BHXH tự nguyện trong bối cảnh kinh tế xã hội tại Việt Nam hiện nay nhằm đề xuất một số khuyến nghị, giải pháp để hoàn thiện các quy định pháp luật về BHXH tự nguyện phù hợp với bối cảnh trong nước. 3
- 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn áp dụng một số các phương pháp khoa học trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, sử dụng tổng hợp các phương pháp khoa học chuyên ngành và liên ngành, đặc biệt là phương pháp thu thập thông tin, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, nhận xét thực tiễn, nghiên cứu tài liệu thứ cấp, v…v… 5. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn Mục đích nghiên cứu của đề tài này nhằm đưa ra cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật Việt Nam hiện nay về BHXH tự nguyện, từ đó đánh giá và đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật về BHXH tự nguyện phù hợp với bối cảnh trong nước. Với mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn gồm: - Nghiên cứu một số vấn đề về lý luận chung về pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện; - Phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện các quy định về BHXH tự nguyện trong bối cảnh kinh tế xã hội tại Việt Nam hiện nay; - Đề xuất một số khuyến nghị, giải pháp để hoàn thiện các quy định pháp luật về BHXH tự nguyện phù hợp với bối cảnh trong nước 6. Điểm mới của luận văn Đề tài được nghiên cứu trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành đánh giá kết quả thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội và khuyến nghị định hướng, giải pháp giai đoạn tới nhằm cải cách chính sách BHXH sao cho phù hợp với các xu thế mang tính thời đại. BHXH tự nguyện không phải là chủ đề mới tại Việt Nam. Một số công trình gần đây đã được các tác giả nghiên cứu về bảo hiểm xã hội tự nguyện bao gồm: công trình được thực hiện ở cấp độ luận văn thạc sỹ, với đề tài “Bảo hiểm xã hội tự nguyện – Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả 4
- thực thi pháp luật” luận văn thạc sĩ của Hoàng Quốc Đạt do TS. Nguyễn Thị Kim Phụng hướng dẫn năm 2012 và gần đây nhất là đề tài “Thực hiện pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện - qua thực tiễn tỉnh Nghệ An” luận văn thạc sĩ của Trần Văn Kiệm do TS. Dương Đức Chính hướng dẫn năm 2017, …; công trình nghiên cứu cấp Bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng chính sách khuyến khích tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện đối với lao động nghèo, lao động là người dân tộc thiểu số, nông dân có mức thu nhập từ trung bình trở xuống” do Viện Khoa học Lao động Xã hội chủ trì đề tài;… Tuy nhiên, phần lớn các công trình nghiên cứu thường bị giới hạn tại một số các khu vực nhất định (tỉnh Nghệ An, Hà Nội, Vĩnh Phúc…) hoặc đối với một số nhóm chủ thể (lao động nghèo, người dân tộc thiểu số,…) mà thiếu các công trình khái quát, tổng hợp, đánh giá chung các quy định pháp luật về BHXH tự nguyện trên phạm vi cả nước. Vì vậy, tại thời điểm có thể coi như giao thời của các chính sách BHXH tại Việt Nam, tác giả thực hiện nghiên cứu mang tính tổng quát đánh giá chung với mong muốn đóng góp một phần công sức của bản thân vào việc đánh giá thực trạng pháp luật, đưa ra một số giải pháp thực hiện đối với BHXH tự nguyện của Việt Nam hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài Lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội tự nguyện và sự điều chỉnh của pháp luật. Chương 2: Thực trạng bảo hiểm xã hội tự nguyện trong Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 và thực tiễn thi hành. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện trong Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014. 5
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT 1.1. Khái quát chung về bảo hiểm xã hội tự nguyện 1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa bảo hiểm xã hội tự nguyện Giữa thế kỷ XIX, lần đầu tiên hệ thống bảo hiểm xã hội được hình thành trên thế giới dưới thời Thủ tướng Đức Bismark. Năm 1838, chế độ bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ra đời lần đầu tiên ở nước Phổ (Cộng hòa liên bang Đức). Đến năm 1850, quỹ ốm đau được thành lập ở Đức, và tới năm 1861 được thành lập tại Bỉ. Năm 1883, nước Đức ban hành đạo luật đầu tiên về Bảo hiểm xã hội. Tới năm 1893, quỹ bảo hiểm thất nghiệp theo hình thức tự nguyện được thành lập tại Thụy Sĩ. Quỹ được thành lập dưới sự đóng góp của ba bên giữa Nhà nước, giới chủ và giới thợ nhằm bảo hiểm cho người lao động trong trường hợp họ gặp rủi ro. Năm 1894 và 1896 nước Bỉ và Hà Lan đã ban hành Bộ luật đầu tiên về các tổ chức tương tế. Cho tới những năm 30 của thế kỷ XX, hệ thống này đã lan tỏa tới khu vực Châu Mỹ và tiếp tục lan tỏa tới các nước ở Châu Á, Châu Phi và vùng Caribe vào những năm sau đại chiến thế giới lần thứ hai (1940-1945). Sự ra đời của bảo hiểm xã hội là kết quả của một quá trình đấu tranh lâu dài giữa giai cấp công nhân làm thuê với giới chủ tư bản. Kết quả này đã được các nước trên thế giới ghi nhận và dần trở thành trụ cột cơ bản của hệ thống an sinh xã hội. Điều này được thể hiện ngay trong thời kỳ Thế chiến thứ hai, một số vấn đề liên quan đến bảo hiểm xã hội vẫn vô cùng được quan tâm như: tàn tật hay sinh đẻ liên quan đến lao động nữ hay vấn đề tử tuất của các binh sỹ trong chiến tranh. Ngày 25/6/1952, Công ước số 102 về an sinh xã hội đã được thông qua tại hội nghị toàn thể của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) với nội dung được 6
- tập hợp từ các chế độ và các vấn đề an sinh xã hội đã có và được thực hiện ở một số nước trên thế giới trước đó. Dựa trên Công ước số 102, các nước ở Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ La tinh đều xây dựng cho mình một hệ thống bảo hiểm xã hội phù hợp với điều kiện từng nước. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) định nghĩa: BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố rủi ro làm giải hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc lam, bằng cách hình thành và sử dụng một quỹ tài chính tập trung do sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động và sự bảo trợ của Nhà nước, nhằm đảm bảo an toàn đời sóng cho người lao động và cho gia đình, góp phần bảo đảm an toàn xã hội. ILO cũng đưa ra định nghĩa về an toàn xã hội và đưa quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội vào Điều 2 của Công ước số 102. An toàn xã hội là: Sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng, để đối phó với khó khăn về kinh tế xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm nhiều về thu nhập, gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già và chết, việc cung cấp chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con. Sự phát triển của xã hội cùng với sự gia tăng của rủi ro xã hội giống như hai mặt của một đồng tiền luôn song hành. Những rủi ro bất ngờ này không nằm trong mong muốn cũng không nằm trong tầm kiểm soát của con người. Điều này khiến cho nhu cầu về biện pháp bảo đảm khi gặp rủi ro càng trở nên mạnh mẽ, nhất là đối với con người khi tham gia lao động vốn luôn phải chịu sự tác động từ những yếu tố khách quan có thể dẫn tới những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và tài sản. Cùng với đó là sự giới hạn về đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đã gạt khỏi vòng bảo vệ một nhóm người lao động có nhu cầu tham gia bảo hiểm những không thuộc nhóm đối tượng 7
- được tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Những người lao động này không có một cơ chế thích hợp để tự bảo vệ mình trước những rủi ro trong cuộc sống. Vì lẽ đó, nhằm đáp ứng nhu cầu được bảo đảm thu nhập khi gặp rủi ro, vì tình người với người trong xã hội, bảo hiểm xã hội tự nguyện xuất hiện một nhu cầu tất yếu bên cạnh bảo hiểm xã hội bắt buộc. Luật BHXH năm 2014, Điều 3, khoản 3 quy định: BHXH tự nguyện là loại hình BHXH do Nhà nước tổ chức mà người tham gia được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình và Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hôi để người tham gia hưởng chế độ hưu trí và tử tuất. BHXH tự nguyện là loại hình BHXH được xây dựng trên cơ sở tự nguyện. Sự tự nguyện của loại hình bảo hiểm xã hội này được thể hiện trên nguyên tắc có tham gia đóng bảo hiểm xã hội mới được hưởng quyền lợi. Điều này thể hiện ý thức của người tham gia đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện có sự tự do hơn so với những người tham gia đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc. Bên cạnh sự khác biệt về mối quan hệ lao động của những người tham gia BHXH ở hai loại hình này, đây chính là sự khác biệt cơ bản giữa bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm xã hội bắt buộc. Dù vậy nhưng cả hai loại hình bảo hiểm xã hội này vẫn có nét tương đồng: mục tiêu của hai loại hình bảo hiểm xã hội nhằm bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên nguyên tắc có sự chia sẻ giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội. Bản chất, mục đích hoạt động, sự hình thành và sử dụng quỹ cũng tương tự như nhau do BHXH tự nguyện là chính sách của Nhà nước ban hành nhằm đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia nên Nhà nước sẽ quy định mức đóng góp để hình thành quỹ sao cho đảm bảo về kinh phí để chi trả cho những người tham gia BHXH tự nguyện và xây dựng chế độ mà họ được hưởng. 8
- Với mục tiêu thiêng liêng nhằm bảo đảm sự phát triển kinh tế bền vững và thúc đẩu ổn định, thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, BHXH nói chung và BHXH tự nguyện nói riêng có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Thứ nhất, đảm bảo sự công bằng xã hội, tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trên thị trường lao động BHXH là công cụ phân phối lại thu nhập của các thành phần trong xã hội: giữa thu nhập cao với thu nhập thấp; thu nhập của người khoẻ mạnh, công việc ổn định với thu nhập của người ốm yếu, tàn tật, hoặc những người gặp biến cố, rủi ro trong lao động hoặc trong cuộc sống. Với tư cách là một công cụ phân phối lại thu nhập, BHXH cũng giúp cân bằng lại phần nào sự phân hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp trong xã hội, giảm khoảng cách giàu nghèo, tạo được sự bình đẳng cho những người lao động. Thứ hai, BHXH phân phối, sử dụng nguồn quỹ dự phòng một cách hiệu quả, tạo cơ chế chia sẻ, nhằm giảm bớt những rủi ro, góp phần phòng tránh và hạn chế tổn thất, đảm bảo an toàn cho sản xuất và đời sống xã hội, tạo động lực cho phát triển kinh tế xã hội Việc xây dựng và duy trì một nguồn quỹ dự phòng có sự đóng góp của cộng đồng để đối phó với những rủi ro sẽ làm giảm bớt gánh nặng cho ngân sách quốc gia, từ đó tạo nguồn lực tài chính để tạo tiền đề cho sự phát triển. Cũng như vậy, sự hỗ trợ của Nhà nước vào quỹ BHXH tự nguyện giúp giảm gánh nặng tài chính đóng góp cho những người tham gia BHXH để xây dựng nguồn quỹ dự phòng phòng ngừa rủi ro. Hai điều này giúp ổn định cả về nhân lực và vật lực cho việc phát triển kinh tế quốc gia. Thứ ba, bảo đảm nguồn thu nhập cho người lao động và gia đình họ trước những rủi ro Đới tượng tham gia BHXH tự nguyện chủ yếu tới từ khu vực phi chính thức. Đặc điểm chung của họ là việc làm không ổn định, thu nhập bấp bênh 9
- hoặc thu nhập thấp, nhiều trường hợp có thể là người lao động chính hoặc lao động duy nhất trong gia đình. Khi họ gặp rủi ro, không thể tự kiếm sống và chăm lo cho gia đình điều này sẽ gây ảnh hưởng tới nguồn thu nhập không chỉ của riêng họ mà có thể là cả gia đình. Lúc này, việc tham gia BHXH tự nguyện sẽ giúp họ và gia đình phần nào được bảo đảm. Thứ tư, BHXH tự nguyện góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội, thúc đẩy sản xuất phát triển BHXH là sự bảo đảm về tinh thần cho những người tham gia lao động để họ an tâm làm việc khi đã có sự chuẩn bị sẵn đề phòng khi già yếu, mất sức lao động hoặc gặp những rủi ro bất chợt trong cuộc sống. Đồng thời đây cũng là động lực để thu hút người lao động của các chủ sử dụng lao động, thúc đẩy sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Thứ năm, phân phối lại thu nhập quốc dân, giảm chi ngân sách nhà nước, bảo đảm an sinh xã hội Như đã phân tích, BHXH là một công cụ phân phối lại thu nhập, BHXH cũng giúp cân bằng lại phần nào sự phân hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp trong xã hội, giảm khoảng cách giàu nghèo, tạo được sự bình đẳng cho những người lao động. BHXH tự nguyện cũng là sự vận động thực hiện trách nhiệm đối với xã hôi, để cả xã hội cùng tương trợ những số phận bất hạnh gặp rủi ro, khó khăn; người có thu nhập cao, năng lực cao cùng trợ giúp nhóm người yếu thế trong xã hội. 1.1.2. Bản chất của bảo hiểm xã hội tự nguyện Xuất hiện như một nhu cầu tất yếu của xã hội và là sản phẩm của nền kinh tế, BHXH tự nguyện vừa mang bản chất kinh tế vừa mang bản chất xã hội. - Tính kinh tế của BHXH tự nguyện Người tham gia BHXH tự nguyện đã tự nguyện đóng góp một phần thu nhập của mình để xây dựng nguồn quỹ dự phòng rủi ro không chỉ cho mình mà 10
- cho những người khác cùng tham gia BHXH tự nguyện. Sự đa dạng về mức thu nhập của những người tham gia khiến cho mức đóng BHXH tự nguyện cũng không cố định. Nguồn quỹ này sau khi được hình thành sẽ được rút ra trợ giúp cho những đối tượng già yếu, hoặc mất khả năng lao động để tìm kiếm thu nhập, đảm bảo cho những người này có nguồn thu nhập để sinh sống. Về mặt kinh tế, BHXH tự nguyện là một hình thức tổ chức, đã phân phối lại thu nhập của xã hội dựa trên hoạt động thu – trợ cấp để đảm bảo an toàn về kinh tế cho những người lao động và gia đình của họ. GDP của quốc gia được cấu thành từ nhiều nguồn trong đó bao gồm BHXH mà sẽ được phân phối lại cho các thành viên trong xã hội khi phát sinh các nhu cầu BHXH như đau ốm, bệnh tật, chết …. Bên cạnh đó, BHXH tự nguyện cũng kéo ngắn khoảng cách phân hoá giàu nghèo của các thành phần trong xã hội. Có thể nói rằng, việc hình thành nguồn quỹ BHXH tự nguyện cũng như sử dụng quỹ để phần nào phân phối lại thu nhập của xã hội nhằm bảo đảm đời sống cho người lao động và gia đình họ chính là bản chất kinh tế của BHXH tự nguyện. - Tính xã hội của BHXH tự nguyện Khác với bảo hiểm thương mại, BHXH tự nguyện được xây dựng không vì mục tiêu lợi nhuận mà vì mục tiêu xã hội. Dựa trân nguyên tắc “lấy số đông bù số ít”, quỹ BHXH xã hôi được sử dụng để bù đắp một phần hoặc toàn bộ thu nhập của người lao động tham gia BHXH tự nguyện khi họ gặp phải rủi ro khiến họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động để tìm kiếm thu nhập. Khoản tiền người lao động tham gia BHXH tự nguyện đóng có thể không bằng mức hưởng bảo hiểm mà họ nhận được để chia sẻ rủi ro cho người lao động và gia đình họ khi thu nhập bị giảm sút hoặc mất hoàn toàn. BHXH tự nguyện không phải là hoạt động kinh doanh của bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào mà là một trong những chính sách xã hội nhằm đảm bảo cho an toàn xã hội. 11
- Bản chất xã hội và bản chất kinh tế của BHXH tự nguyện không tách rời mà đan xen lẫn nhau. Trong bản chất kinh tế có tính xã hội và trong bản chất xã hội có tính kinh tế, chính vì lẽ đó, sự ra đời của BHXH tự nguyện là nhu cầu tất yếu của xã hội và là sản phẩm của nền kinh tế. 1.2. Điều chỉnh pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện 1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện Ở Việt Nam, ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Chính phủ đã thể hiện mối quan tâm đặc biệt tới vấn đề an sinh xã hội, trong đó có chính sách bảo hiểm xã hội. Điều 13 và điều 14 của Hiến pháp năm 1946 đã quy định: “Quyền lợi của giới cần lao trí thức và chân tay được đảm bảo, và những người công dân già cả hoặc tàn tật, không làm được việc thì được giúp đỡ”. Tuy nhiên, do đặc thù của hoàn cảnh kháng chiến gian khổ, các chính sách về bảo hiểm xã hội trong thời kỳ trước năm 1954 có đối tượng áp dụng hạn hẹp, mức trợ cấp thấp, việc thực hiện còn nhiều hạn chế. Mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, Nhà nước sẽ xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật phù hợp với kinh tế, văn hoá, xã hội của từng thời điểm. Năm 1986, Việt Nam thực hiện cải cách kinh tế, chuyển đổi từ nền kinh cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Hiệu ứng ảnh hưởng từ việc thay đổi cơ chế đòi hỏi các chính sách xã hội nói chung và chính sách bảo hiểm xã hội nói riêng cần có những thay đổi tương ứng, phù hợp với thời đại mới. Tháng 01 năm 1995, Bộ Luật Lao động có hiệu lực, trong đó, bảo hiểm xã hội được quy định tại Chương XII. Mặc dù ở thời kỳ này, các quy định về loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện chỉ mang tính nguyên tắc chung, nhưng việc bảo hiểm xã hội tự nguyện được đưa vào trong Bộ luật Lao động là một bước tiến để tạo tiền đề cho việc đưa bảo hiểm xã hội tới với mọi người trong xã hội. Ngày 12/7/2006, Quốc hội đã thông qua Luật BHXH đầu tiên trong đó BHXH bắt buộc có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 và BHXH tự nguyện có hiệu 12
- lực từ ngày 01/01/2018. Trải qua các lần sửa đổi bổ sung cho phù hợp với sự phát triển của kinh tế xã hội, ngày 20 tháng 11 năm 2014, Quốc hội đã thông qua Luật BHXH có hiệu lực từ ngày 01/01/2016 trong đó quy định đầy đủ về đối tượng, mức đóng, phương thức đóng, các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện. Có thể nói rằng, ở Việt Nam, BHXH được biết tới từ rất sớm và được xem như là một công cụ đắc lực để trợ giúp cho người lao động trang trải khi gặp những biến cố đột xuất hoặc những rủi ro không lường trước. Những quy định về BHXH nói chung và BHXH tự nguyện nói riêng là sự bảo đảm trong việc thực hiên BHXH trong khuôn khổ pháp luật, đảm bảo cho sự an toàn xã hội. Do vậy, pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia quan hệ BHXH tự nguyện: người tham gia BHXH tự nguyện, người hưởng BHXH tự nguyện và người thực hiện BHXH tự nguyện. 1.2.2. Nguyên tắc pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện Pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện được thực hiên dựa trên ba nguyên tắc cơ bản: Thứ nhất, pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của người tham gia bảo hiểm Đây là nguyên tắc cơ bản, đặc trưng của bảo hiểm xã hội tự nguyện. Nguyên tắc này thể hiện sự tự do ý chí của người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện khác với bảo hiểm xã hội bắt buộc mà trong đó người lao động và người sử dụng lao động đều buộc phải tham gia theo quy định của pháp luật. Sự tự do ý chí của người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện cho họ quyền tự quyết định sẽ tham gia loại hình bảo hiểm này hay không. Nếu tham gia, họ được quyền lựa chọn mức đóng bảo hiểm, phương thức đóng bảo hiểm phù hợp với nhu cầu và điều kiện kinh tế của bản thân họ. 13
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 99 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 65 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn