Luận văn Thạc sĩ Luật học: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo Luật Sở hữu trí tuệ 2005
lượt xem 6
download
Luận văn nghiên cứu một cách tổng thể các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ 2005 về bảo hộ nhãn hiệu trên cơ sở so sánh với các quy định trong các văn bản luật trước đây, với các đối tượng sở hữu trí tuệ khác, các quy định tương tự của nước ngoài cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật từ đó rút ra được những ưu điểm và hạn chế của cơ chế bảo hộ hiện hành và đưa ra các khuyến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu sao cho đạt được hiệu quả cao nhất và phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo Luật Sở hữu trí tuệ 2005
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HÀ NỘI: 2009 HÀ THỊ NGUYỆT THU - BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP CHUYẤN NGÀNH: LUẬT DÂN SỰ ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU THEO LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ 2005 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC - HÀ THỊ NGUYỆT THU HÀ NỘI - 2009 Page 1
- MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU 1.1. Lý luận chung về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 1.1.1. Khái quát chung về nhãn hiệu 1.1.2. Chức năng của nhãn hiệu 1.1.3. Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 1.1.4. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 1.2. Sơ lược lịch hình thành và phát triển của hệ thống bảo hộ nhãn hiệu trên thế giới và ở Việt Nam 1.2.1. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống bảo hộ nhãn hiệu trên thế giới 1.2.2. Lược sử về sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ chỉ dẫn địa lý 1.3. Nhãn hiệu trong mối tơng quan với một số đối tượng SHTT khác 1.3.1. Nhãn hiệu với tên thương mại 1.3.2. Nhãn hiệu với chỉ dẫn địa lý 1.3.3. Nhãn hiệu với nhãn hàng hóa 1.3.4. Nhãn hiệu với kiểu dáng công nghiệp 1.3.5. Nhãn hiệu với đối tượng được bảo hộ quyền tác giả 1.4. Vai trò bảo hộ nhãn hiệu trong nền kinh tế thị trường 1.4.1. Vai trò bảo hộ nhãn hiệu đối với doanh nghiệp 1.4.2. Vai trò bảo hộ nhãn hiệu đối với người tiêu dùng 1.4.3. Vai trò bảo hộ nhãn hiệu đối với toàn xã hội Chương 2. BẢO HỘ NHÃN HIỆU THEO LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ 2005 2.1. Nhãn hiệu với tư cách là đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp 2.1.1. Khái niệm nhãn hiệu 2.1.2. Điều kiện bảo hộ nhãn hiệu 2.1.2.1. Điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo hộ 2.2.2.2. Khả năng phân biệt của nhãn hiệu 2.2.2.3. Dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu 2.1.3. Phân loại nhãn hiệu Page 4
- 2.2. Xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 2.2.1. Quyền đăng ký nhãn hiệu 2.2.2. Thủ tục xác lập quyền đối với nhãn hiệu 2.2.2.1. Nguyên tắc nộp đơn đầu tiên 2.2.2.2. Nguyên tắc ưu tiên 2.2.2.3. Yêu cầu đối với đơn 2.2.2.4. Thẩm định đơn 2.2.2.5. Công bố đơn, văn bằng bảo hộ 2.2.2.6. Phản đối việc cấp văn bằng bảo hộ 2.2.2.7. Khiếu nại quyết định liên quan đến việc xác lập quyền đối với nhãn hiệu 2.2.2.8. Đăng ký quốc tế nhãn hiệu 2.2.3. Thời hạn bảo hộ 2.2.4. Chấm dứt hiệu lực văn bằng bảo hộ 2.2.5. Hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ 2.2.6. Sửa đổi văn bằng bảo hộ 2.3. Chủ thể quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 2.3.1. Chủ sở hữu nhãn hiệu 2.3.2. Nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 2.3.2.1. Quyền sử dụng nhãn hiệu 2.3.2.2. Quyền định đoạt nhãn hiệu 2.3.2.3. Quyền ngăn cấm ngời khác sử dụng nhãn hiệu 2.3.3. Giới hạn quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 2.4. Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 2.4.1. Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 2.4.2. Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 2.4.2.1. Các quy định chung về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 2.4.2.2. Biện pháp dân sự 2.4.2.3. Biện pháp hành chính, hình sự, kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mang nhãn hiệu đợc bảo hộ tại biên giới Chương 3. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO HỘ NHÃN HIỆU Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU 3.1. Thực trạng hoạt động bảo hộ nhãn hiệu ở Việt Nam 3.2. Một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu 3.2.1. Định hướng chung 3.2.2. Hoàn thiện pháp luật liên quan đến xác lập quyền 3.2.3. Hoàn thiện pháp luật về thực thi quyền Page 5
- 3.2.4. Hoàn thiện pháp luật liên quan đến những vấn đề mới phát sinh trong quá trình phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế 3.2.5. Xây dựng các văn bản dới luật hướng dẫn chi tiết các nội dung được đề cập mang tính nguyên tắc trong Luật SHTT 3.2.5.1. Xây dựng các tình huống điển hình trên cơ sở tổng kết thực tiễn 3.2.5.2. Xây dựng và luật hóa Quy chế thẩm định nhãn hiệu KẾT LUẬN Page 6
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BTA: Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ Công ước Paris: Công ước Paris về Bảo hộ sở hữu công nghiệp Nghị định thư Madrid: Nghị định thư liên quan đến Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa SHCN: Sở hữu công nghiệp SHTT: Sở hữu trí tuệ Thỏa ước Madrid: Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa TRIPS: Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ WTO: Tổ chức thương mại thế giới WIPO: Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới Page 7
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới hiện nay chúng ta đang chứng kiến quá trình tự do hoá thương mại mạnh mẽ với việc phá bỏ các rào cản thương mại, tạo nên một sân chơi chung toàn cầu với luật lệ chung, bình đẳng. Sở hữu trí tuệ đang trở thành một vấn đề thời sự, thành trung tâm của sự chú ý, là vấn đề trọng tâm được thảo luận tại các cuộc đàm phán, hội nghị, hội thảo về quan hệ kinh tế quốc tế, là nội dung không thể thiếu trong các điều ước quốc tế về hợp tác kinh tế song phương và đa phương. Nhận thức được vai trò của hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với việc khuyến khích hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, áp dụng và đổi mới công nghệ, thúc đẩy đầu tư, thương mại… Nhà nước Việt Nam đã rất coi trọng vấn đề sở hữu trí tuệ bằng việc thiết lập được một hệ thống sở hữu trí tuệ có bộ máy tổ chức, quản lý, quy định pháp luật và những bộ phận hợp thành về cơ bản tương tự như mô hình phổ biến trên thế giới. Hệ thống sở hữu trí tuệ Việt Nam đã thiết lập chế độ bảo hộ đầy đủ các đối tượng sở hữu trí tuệ liên quan đến hoạt động của danh nghiệp trong đó có nhãn hiệu. Nhãn hiệu có vai trò quan trọng trong cuộc sống hàng ngày liên quan đến sự lựa chọn của người tiêu dùng. Nhãn hiệu giúp người tiêu dùng có thể mua nhiều lần một thứ hàng hoá, dịch vụ mà không cần phải xem xét tất cả mọi yếu tố liên quan đến hàng hoá, dịch vụ đó trong mỗi lần mua. Nhãn hiệu là biểu tượng mang những thành quả đầu tư của nhà sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ. Mọi nỗ lực của nhà sản xuất hàng hoá, cung cấp dịch vụ trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành đều được “tích tụ” trong nhãn hiệu. Vì nhãn hiệu mang theo những thông điệp về chất lượng, uy tín của hàng hoá, dịch vụ như trên, cần thiết phải có sự bảo hộ pháp lý để chống lại các hành vi sử Page 8
- dụng nhằm mục đích lợi dụng uy tín, danh tiếng gắn liền với nhãn hiệu đó. Việc bảo hộ đó không những nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của chủ sở hữu nhãn hiệu, người đã đầu tư vào việc nâng cao chất lượng và giảm giá thành hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu, mà còn bảo vệ người tiêu dùng khỏi bị nhầm lẫn và lừa dối do mua phải sản phẩm mang nhãn hiệu giả mạo. Vấn đề bảo hộ nhãn hiệu đang nhận được sự quan tâm đặc biệt không chỉ ở góc độ quản lý Nhà nước mà còn là sự quan tâm của toàn xã hội. Về phía lợi ích quốc gia, nhãn hiệu là một công cụ để khẳng định và nâng cao uy tín sản phẩm trong nước, mở đường ra thị trường nước ngoài, ở cấp doanh nghiệp, nhãn hiệu giữ vai trò tích tụ uy tín cho sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp từ đó xây đắp nên uy tín của doanh nghiệp, còn với đông đảo công chúng, nhãn hiệu giúp cho họ có được thông tin về sản phẩm, dịch vụ thông qua đó có sự lựa chọn đúng đắn. Để đáp ứng trước những đòi hỏi của quá trình hội nhập quốc tế đối với hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói riêng về “tính đầy đủ” và “tính hiệu quả”, Luật SHTT 2005 (Luật SHTT) đã được ban hành nhằm thống nhất các quy định điều chỉnh chung đối với việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Trước vai trò đặc biệt quan trọng của nhãn hiệu đối với sự phát triển kinh tế xã hội thì tìm hiểu các quy định của pháp luật liên quan đến bảo hộ nhãn hiêu là việc thực sự cần thiết, có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn. Với lý do đó, tôi quyết định chọn đề tài “Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo Luật Sở hữu trí tuệ 2005” là đề tài nghiên cứu cho luận văn cao học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu vấn đề Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu đã và sẽ là đối tượng nghiên cứu của nhiều công trình nghiên cứu không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước trên thế giới. ở Việt Nam từ trước đến nay đã có khá nhiều nghiên cứu liên quan đến đối tượng này, tuy nhiên các bài viết chủ yếu đề cập đến những vấn Page 9
- đề cụ thể như thủ tục xác lập quyền đối với nhãn hiệu, điều kiện để được bảo hộ là nhãn hiệu, mục đích bảo hộ nhãn hiệu, giới thiệu pháp luật của nước ngoài về bảo hộ nhãn hiệu, giới thiệu các điều ước quốc tế hoặc hệ thống bảo hộ nhãn hiệu trên thế giới… Có thể kể đến những tài liệu sau: “Nhãn hiệu hàng hóa trong pháp luật dân sự”, “Nhãn hiệu hàng hóa và thương hiệu”, “Bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa – Cẩm nang dành cho doanh nhân”, Luận án tiến sỹ “Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam”, Luận án tiến sỹ “Những vấn đề pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ “Bảo hộ nhãn hiệu trong pháp luật Việt Nam và pháp luật của Liên minh Châu Âu”, Luân văn thạc sỹ “Pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam”. Luận văn thạc sỹ “Nhãn hiệu hàng hóa trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế”, Luật văn thạc sỹ “Xác lập quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam”… Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu sâu và toàn diện nào về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ở góc độ của người trực tiếp làm công tác xác lập quyền đối với nhãn hiệu. Hơn nữa, Luật Sở hữu trí tuệ mới được ban hành ngày 29/11/2005 và có hiệu lực từ 01.07.2006 nên các nghiên cứu trước đây chưa đề cập cũng như phân tích được những thay đổi trong các quy định về bảo hộ nhãn hiệu. Qua quá trình thực hiện luật thực tiễn cũng nảy sinh những vấn đề bất cập mà luật chưa điều chỉnh hoặc điều chỉnh chưa đầy đủ cần nghiên cứu, phân tích và đề xuất hướng điều chỉnh. Chính vì vậy, luận văn sẽ tiếp tục nghiên cứu những yêu cầu về mặt lý luận và thực tiễn điều chỉnh pháp luật đặt ra trong giai đoạn hiện nay trên cơ sở xác định thực trạng pháp luật nhằm đề xuất phương hướng hoàn thiện pháp luật bảo hộ nhãn hiệu trong tương lai. 3. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu một cách tổng thể các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ 2005 về bảo hộ nhãn hiệu trên cơ sở so sánh với các quy định trong các văn bản luật trước đây, với các đối tượng sở hữu trí tuệ khác, các quy định tương tự của nước ngoài cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật từ đó rút ra được những ưu điểm và hạn chế của cơ chế bảo hộ hiện hành và đưa ra các khuyến nghị nhằm hoàn thiện các quy Page 10
- định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu sao cho đạt được hiệu quả cao nhất và phù hợp với chuẩn mực quốc tế. 4. Phạm vi nghiên cứu Mục đích nghiên cứu nêu trên đặt ra những nhiệm vụ cần phải giải quyết cụ thể sau: - Tìm hiểu khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu trên thế giới và ở Việt Nam - Nghiên cứu các quy định liên quan đến bảo hộ nhãn hiệu theo quy định của Luật Sở hữu Trí tuệ 2005 trên cơ sở so sánh với các quy định trước đây và các quy định của pháp luật nước ngoài. - Nghiên cứu nhãn hiệu với tư cách là một dạng của chỉ dẫn thương mại trong mối quan hệ với các đối tượng sở hữu trí tuệ gần gũi khác như tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp, quyền tác giả... - Tìm hiểu thực trạng của việc bảo hộ nhãn hiệu ở Việt Nam từ đó rút ra những điểm còn hạn chế và đưa ra những khuyến nghị nhằm tăng cường hiệu quả bảo hộ nhãn hiệu ở Việt Nam. 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong luận văn này là phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành trong vấn đề bảo hộ nhãn hiệu để đưa ra một cái nhìn tổng thể của vấn đề. Với việc sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp này, luận văn chỉ ra một số điểm hạn chế, bất cập của pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu từ đó đưa ra một số giải pháp khắc phục để hoàn thiện các quy định pháp luật này. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp luật học so sánh, thống kê, phân tích để làm rõ quá trình phát triển của vấn đề được nghiên cứu, để đánh giá sự tương thích của pháp luật Việt Nam so với pháp luật quốc tế. Các phương pháp nói trên đều dựa trên nền tảng là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Page 11
- Kết quả nghiên cứu của luận văn không chỉ mang tính lý thuyết mà có tính thực tiễn, bởi trong quá trình nghiên cứu người thực hiện không chỉ nghiên cứu trên các quy định của luật thực định mà còn nghiên cứu qua các tình huống thực tế trong và ngoài nước, việc nghiên cứu được tiến hành bởi chính người làm công tác áp dụng pháp luật trong cơ quan xác lập quyền. Do đó, kết quả nghiên cứu của luận văn một mặt làm rõ các quy định của luật để từ đó tìm ra những điểm phù hợp và chưa phù hợp, đồng thời là cơ sở lý luận cho việc kiến nghị sửa đổi pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu, đặc biệt là việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT. 5. Bố cục của Luận văn Luận án gồm Phần mở đầu, 3 chương, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục. Chương 1: Khái quát chung về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu Chương 2: Bảo hộ nhãn hiệu theo Luật Sở hữu trí tuệ 2005 Chương 3: Thực trạng và hoạt động bảo hộ nhãn hiệu ở Việt Nam và một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu Page 12
- Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU 1.1. Lý luận chung về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 1.1.1. Khái quát chung về nhãn hiệu Nhãn hiệu đã xuất hiện từ thời cổ đại, được người chăn nuôi gia súc, nhà buôn, nhà sản xuất khi đó dùng để đánh dấu các đàn gia súc hoặc các đồ vật của mình. Phát hiện của các nhà khảo cổ hiện đại cho thấy cách đây 3000 năm, những người thợ thủ công ấn Độ đã từng chạm khắc chữ ký của mình trên các tác phẩm nghệ thuật trước khi gửi hàng tới Iran. Các nhà sản xuất Trung Quốc đã bán hàng hóa mang nhãn hiệu của mình tại Địa Trung Hải từ 2000 năm trước và cùng thời gian đó hàng ngàn nhãn hiệu đồ gốm La Mã khác nhau đã được sử dụng. [21] Nhờ sự hưng thịnh của hoạt động giao thương mà việc sử dụng các dấu hiệu đó trên hàng hóa tương đối phát triển. Ban đầu, nhãn hiệu không hoàn toàn thực hiện chức năng phân biệt mà việc sử dụng chúng chỉ để chỉ ra mối liên hệ giữa hàng hóa với nhà sản xuất ra hàng hóa, giữa tài sản với chủ sở hữu của tài sản mà thôi. Cũng chính bởi lẽ đó, ở thời kỳ đầu tầm quan trọng về mặt kinh tế của nhãn hiệu vẫn còn hạn chế. Sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa kéo theo sự phát triển của hoạt động thương mại và buôn bán hàng hóa đã khiến cho nhãn hiệu ngày càng đóng vai trò quan trọng trong giao lưu kinh tế. Việc một hàng hóa có thể được cung cấp bởi nhiều nhà sản xuất hoặc nhà kinh doanh khác nhau khiến cho người tiêu dùng bối rối khi lựa chọn, họ cần có một dấu hiệu chỉ dẫn để nhận biết hàng hóa của từng nhà sản xuất hoặc kinh doanh. Nhãn hiệu chính là dấu hiệu giúp họ phân biệt được nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm. Xã hội hiện đại với sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ trong nền kinh tế thị trường đem lại cho con người cơ hội được sử dụng rất nhiều sản phẩm hàng hóa khác nhau. Các nhà sản Page 13
- xuất và thương gia cạnh tranh đưa đến cho người tiêu dùng sự lựa chọn đa dạng cho hàng hóa cùng loại. Ngoài việc nhận biết qua hình thức, giá cả, chất lượng của sản phẩm thì một dấu hiệu đặc trưng của riêng nhà sản xuất hoặc kinh doanh sẽ giúp cho người tiêu dùng dễ dàng lựa chọn sản phẩm cạnh tranh phù hợp với mình. “Do vậy, hàng hóa phải được đặt tên. Phương tiện để đặt tên hàng hóa trên thị trường chính là nhãn hiệu hàng hóa.” [21] Khi mới ra đời nhãn hiệu thường chỉ là một dấu hiệu hoặc ký hiệu mang tính ngẫu nhiên. Dần dần, cùng với sự phát triển của giao lưu thương mại, nhu cầu cá biệt hóa sản phẩm khiến cho các nhà sản xuất, kinh doanh ý thức hơn về nhãn hiệu. Họ chú tâm nhiều hơn vào việc lựa chọn các dấu hiệu làm nhãn hiệu và lúc này nhiều nhãn hiệu đã không còn mang tính ngẫu nhiên nữa mà chứa đựng trong nó dụng ý, sự gửi gắm của các nhà sản xuất, kinh doanh đối với sản phẩm được đưa ra thị trường. Nhãn hiệu theo nghĩa nguyên thủy thì chỉ dùng để đặt tên cho hàng hóa. Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển của xã hội, hàng hóa được cung cấp cho con người không chỉ bó hẹp ở các sản phẩm cụ thể mà còn là các loại hình dịch vụ được cung cấp đa dạng trên thị trường. Các dịch vụ này cũng cần được đặt tên để cho phép người tiêu dùng có thể phân biệt giữa các dịch vụ của các công ty khác nhau cùng cung cấp. Những dấu hiệu này tạo thành nhãn hiệu dịch vụ. Do nhãn hiệu dịch vụ mang bản chất giống hệt nhãn hiệu hàng hóa nên hiện nay trên thế giới, thuật ngữ “nhãn hiệu” được dùng chung cho cả nhãn hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ. ở Việt Nam, Bộ luật dân sự 1995 sử dụng thuật ngữ “nhãn hiệu hàng hóa” cho cả hàng hóa và dịch vụ. Bộ luật dân sự 2005 đã sử dụng thống nhất thuật ngữ “nhãn hiệu” cho nhãn hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ. Trên thương trường nhãn hiệu ngày càng chứng tỏ vai trò quan trọng, nhãn hiệu được coi như một công cụ để tạo ra sự khác biệt cho sản phẩm, dịch vụ, thu hút khách hàng, tạo dựng niềm tin cho người tiêu dùng… Vai trò của nhãn hiệu càng trở nên quan trọng thì khả năng nhãn hiệu đó bị sao chép, làm giả, thậm chí Page 14
- đánh cắp càng cao. Thực tế này đòi hỏi phải có một cơ chế hữu hiệu để ghi nhận chính thức và công khai những người sở hữu nhãn hiệu, từ đó duy trì và củng cố đặc tính phân biệt của nhãn hiệu, bảo vệ nhà sản xuất, nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng. Hệ thống bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ra đời nhằm thỏa mãn nhu cầu thực tế đó. Nhãn hiệu là một trong các đối tượng SHTT đang được các quốc gia bảo hộ. Nhãn hiệu thuộc về nhánh quyền sở hữu công nghiệp. Khái niệm “sở hữu công nghiệp” bao gồm các sáng chế, kiểu dáng công nghiệp. Đó là những sản phẩm của sáng tạo trí tuệ tạo ra hoặc kết tinh trên sản phẩm để làm phong phú thêm đời sống vật chất cho con người. Bên cạnh đó, sở hữu công nghiệp còn bao gồm nhãn hiệu, các chỉ dẫn thương mại và việc bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh. Với các đối tượng này, khía cạnh sáng tạo trí tuệ vẫn có song không mang tính quyết định như các đối tượng kia, mà yếu tố quyết định ở đây là việc chuyển tải thông tin tới người tiêu dùng về sản phẩm và dịch vụ cung cấp trên thị trường và việc bảo hộ nhằm chống lại việc sử dụng không được cho phép những dấu hiệu có khả năng lừa dối người tiêu dùng. Khái niệm nhãn hiệu có thể khác nhau ở từng nước, nhưng nhìn chung, khái niệm này có sự thống nhất ở nội dung: nhãn hiệu là bất kỳ dấu hiệu nào có thể phân biệt hàng hóa, dịch vụ của một chủ thể với các chủ thể khác trong cùng lĩnh vực. Nội dung này được thể hiện trong Điều 15 Hiệp định TRIPS: “Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc một tổ hợp các dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa dịch vụ của các doanh nghiệp khác, đều có thể làm nhãn hiệu”. [17] Điểm khác nhau có chăng giữa khái niệm nhãn hiệu của các nước chính là ở nội hàm mà khái niệm này đề cập tới. Dấu hiệu nói chung có thể bao gồm chữ cái, chữ số, từ ngữ, khẩu hiệu, hình ảnh, màu sắc, mùi vị, âm thanh, hình thức bao bì… nhưng tùy hệ thống pháp luật ở mỗi quốc gia mà phạm vi của các dấu hiệu này được giới hạn ở những dấu hiệu nhất định. Theo định nghĩa của Hiệp hội nhãn hàng thế giới (INTA) thì nhãn hiệu có thể là từ ngữ, tên gọi, biểu tượng, hình ảnh, khẩu hiệu hoặc hình dạng của bao gói Page 15
- hoặc kết hợp của các yếu tố đó phục vụ cho việc xác định và phân biệt một sản phẩm cụ thể của những chủ thể khác nhau trên thị trường hoặc trong kinh doanh. Trong các định nghĩa về nhãn hiệu chúng ta dễ dàng nhận thấy một điểm chung nổi bật đó là nhãn hiệu có thể là bất kỳ dấu hiệu nào miễn là có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của các chủ thể khác nhau. Như vậy, về mặt lý luận, các dấu hiệu thuộc dạng nhìn thấy được và thuộc dạng không thể nhìn thấy được như mùi vị hoặc âm thanh đều có thể trở thành nhãn hiệu. Việc thừa nhận dấu hiệu thuộc dạng nào có thể sử dụng làm nhãn hiệu, vì thế, tùy thuộc và điều kiện thực tiễn của mỗi quốc gia. Phần lớn các quốc gia chỉ cho phép đăng ký các dấu hiệu được thể hiện dưới dạng đồ họa (nghĩa là có thể nhìn thấy được), một trong các lý do là bởi chỉ các nhãn hiệu thuộc dạng này mới có thể ghi được trong sổ đăng bạ quốc gia và công bố một cách hữu hình trên công báo nhãn hiệu quốc gia, để công bố công khai với công chúng việc nhãn hiệu đó đã được xác lập quyền và được Nhà nước bảo hộ. Về vấn đề này, Điều 15.1 Hiệp định TRIPS quy định “… Các thành viên có thể quy định rằng điều kiện để được đăng ký là các dấu hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy được” [17]. Hiệp ước Luật nhãn hiệu hàng hóa (TLT) cũng chỉ thừa nhận sự bảo hộ đối với các dấu hiệu nhìn thấy được, không thừa nhận sự bảo hộ đối với nhãn hiệu vô hình, cụ thể là nhãn hiệu âm thanh và mùi vị “Hiệp ước này không áp dụng đối với nhãn hiệu là ảnh chụp ba chiều (holography) và nhãn hiệu vô hình, cụ thể là nhãn hiệu âm thanh và nhãn hiệu mùi.” [25] Có thể lấy ví dụ về các nhãn hiệu nổi tiếng được cấu thành từ các dấu hiệu khác nhau như sau: Nhãn hiệu dạng từ ngữ: CHANEL, TOYTA, Trung Nguyên Nhãn hiệu dạng hình ảnh: Đăng ký quốc tế số 433071 Page 16
- Nhãn hiệu kết hợp hình ảnh và từ ngữ: Nhãn hiệu quốc gia số 90714 1.1.2. Chức năng của nhãn hiệu Thông thường, một nhãn hiệu có những chức năng chính là: chức năng phân biệt, chức năng chỉ dẫn nguồn gốc, chức năng thông tin về chất lượng và chức năng quảng cáo. Trên thực tế hai chức năng đầu của nhãn hiệu có tính phụ thuộc lẫn nhau và cần luôn được xem xét cùng nhau. Hai chức năng sau mang tính phái sinh, có được khi nhãn hiệu đã có hai chức năng đầu. Nhãn hiệu ra đời với mục đích để phân biệt hàng hóa của chủ thể này với hàng hóa của chủ thể khác. Để thực hiện được chức năng này nhãn hiệu cần phải có khả năng tự phân biệt và khả năng phân biệt với nhãn hiệu của chủ thể khác. Khả năng tự phân biệt của nhãn hiệu tạo cho nhãn hiệu một ấn tượng tổng thể tác động vào nhận thức của người tiêu dùng để họ có thể nhận biết, ghi nhớ và so sánh với các nhãn hiệu khác. Tính chất này có thể thay đổi, tùy thuộc vào việc sử dụng thực tế nhãn hiệu trên thị trường. Chẳng hạn như một nhãn hiệu là dấu hiệu đơn giản (hai chữ cái, tập hợp hình học đơn giản…) sau một thời gian dài được sử dụng liên tục với số lượng lớn và rộng rãi, có thể trở thành dấu hiệu có khả năng tự phân biệt cho người tiêu dùng. “PN” là một nhãn hiệu được sử dụng rộng rãi cho các sản phẩm mỹ phẩm của Hãng Shiseido Nhật Bản. Để người tiêu dùng có thể dùng để phân biệt một sản phẩm, nhãn hiệu phải chỉ ra được nguồn gốc của hàng hóa. Điều này không có nghĩa là nhãn hiệu phải thông tin cho người tiêu dùng về người thực sự đã sản xuất ra sản phẩm hoặc thậm chí người bán sản phẩm. Thực ra nhãn hiệu là dấu hiệu để người tiêu dùng tìm được một chủ thể nhất định để tin tưởng, tức là chủ thể sẽ chịu trách nhiệm về Page 17
- hàng hóa mang nhãn hiệu đó. Chức năng chỉ dẫn nguồn gốc liên quan mật thiết với chức năng phân biệt, khi mà nhãn hiệu cho phép người tiêu dùng phân biệt được sản phẩm mang nhãn hiệu đó với nhãn hàng hóa của các chủ thể khác đưa ra trên thị trường thì lúc đó nhãn hiệu đã hoàn thành chức năng chỉ dẫn nguồn gốc. Chức năng thông tin về chất lượng của nhãn hiệu được thể hiện thông qua việc người tiêu dùng nhận biết chất lượng của sản phẩm qua nhãn hiệu. Chức năng này có được khi nhãn hiệu đã được sử dụng một thời gian nhất định trên sản phẩm có chất lượng chiếm được sự tin tưởng của người tiêu dùng. Chức năng “chất lượng” của một nhãn hiệu không thể hiểu theo nghĩa là bằng chứng xác nhận chất lượng theo những tiêu chí luật định mà đây là sự đánh giá “tiêu chuẩn” từ góc độ người sử dụng sản phẩm. Ví dụ có rất nhiều nhãn hiệu ô tô đang được sự dụng tại thị trường Việt Nam và đều đạt những tiêu chuẩn chất lượng chung do pháp luật quy định, nhưng cứ nhắc đến nhãn hiệu “TOYOTA” người tiêu dùng sẽ nghĩ đến một sản phẩm có chất lượng tốt, phù hợp với điều kiện khí hậu và địa hình Việt Nam, lượng tiêu hao nhiên liệu thấp… Hoặc đối với mỹ phẩm, khi nhắc đến những sản phẩm mang nhãn hiệu CHANEL, L’OREAL, SHISEIDO… người tiêu dùng sẽ hình dung tới ngay dòng sản phẩm cao cấp với chất lượng rất tốt. Nhãn hiệu đã được người tiêu dùng đánh giá tốt về chất lượng sử dụng cho các sản phẩm mới được đưa ra thị trường sẽ như một sự đảm bảo thu hút được lòng tin của người tiêu dùng đối với sản phẩm đó. Chức năng quảng cáo của nhãn hiệu nhằm thúc đẩy việc tiếp thị bán hàng và tiến hành dịch vụ. Nhãn hiệu khi mới ra đời chỉ là những dấu hiệu mang tính ngẫu nhiên. Nhưng qua quá trình sử dụng các chủ thể sử dụng nhãn hiệu đã nhận ra cần phải lựa chọn những nhãn hiệu độc đáo, ấn tượng để thu hút sự chú ý của khách hàng hướng tới sản phẩm của mình. 1.1.3. Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu Như đã trình bày ở trên, việc sử dụng nhãn hiệu là một nhu cầu khách quan để tạo điều kiện cho các nhà sản xuất, kinh doanh cá thể hóa sản phẩm, dịch vụ nhằm phân biệt với các sản phẩm, dịch vụ cùng loại của các chủ thể khác. Đồng Page 18
- thời nhãn hiệu cũng giúp người tiêu dùng có định hướng khi chọn lựa sản phẩm, dịch vụ phù hợp. Đặc tính nổi bật của nhãn hiệu là dùng để phân biệt. Do đó không thể tồn tại cùng lúc những nhãn hiệu của các chủ thể khác nhau trùng hoặc tương tự nhau cho cùng sản phẩm, dịch vụ. Để đảm bảo được điều này cần có một cơ chế nhất định chống lại các hành vi gây nhầm lẫn hoặc có nguy cơ gây nhầm lẫn như hành vi sao chép, làm giả hàng hóa mang nhãn hiệu. Công cụ để thực hiện nhiệm vụ này không gì khác hơn chính là hệ thống pháp luật. Nhãn hiệu là tài sản của chủ thể sở hữu nhãn hiệu. Tuy nhiên, nhãn hiệu là một loại tài sản đặc biệt, không giống như các tài sản truyền thống – tài sản “hữu hình” – khác. Đối với nhãn hiệu, chủ sở hữu không thể trực tiếp thực hiện sự chiếm hữu, sử dụng và định đoạt bằng các hành vi mang tính vật lý. Chủ sở hữu sẽ thực hiện các quyền năng sở hữu của mình thông qua một cơ chế pháp lý đặc thù, đó là “quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu”. Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu được hiểu là quyền sở hữu của cá nhân, tổ chức đối với nhãn hiệu. Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở sử dụng hoặc theo văn bằng bảo hộ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Cụ thể là, ở Việt Nam, “Quyền sở hữu công nghiệp đối với…, nhãn hiệu, … được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký… hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; đối với nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký”. [36] Do tính chất đặc biệt của loại tài sản có tên là nhãn hiệu nên quyền đối với tài sản này cũng không giống quyền đối với các tài sản hữu hình khác, đó là quyền bị giới hạn về thời gian, không gian, được xác định theo phạm vi bảo hộ, và có những giới hạn nhất định. Page 19
- Về thời gian, quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu có hiệu lực trong thời hạn ghi trên văn bằng bảo hộ do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp, thông thường là 10 năm, và có thể gia hạn liên tiếp nhiều lần, mỗi lần 10 năm. Về không gian, so với quyền sở hữu tài sản thông thường, quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu mang tính lãnh thổ tuyệt đối. Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu chỉ có hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mà trên cơ sở pháp luật nước đó, quyền sở hữu công nghiệp phát sinh. Trong trường hợp chủ sở hữu nhãn hiệu muốn nhận được sự bảo hộ quyền của mình tại nước khác, họ cần phải nộp đơn yêu cầu bảo hộ tại nước họ mong muốn nhận được sự bảo hộ hoặc nộp đơn đăng ký quốc tế có chỉ định nước đó (nếu nước định nộp đơn có tham gia điều ước quốc tế liên quan đến bảo hộ sở hữu công nghiệp nói chung). Do quyền sở hữu công nghiệp mang tính lãnh thổ tuyệt đối nên kể cả trong trường hợp quyền sở hữu công nghiệp được xác lập trên cơ sở quan hệ xã hội có yếu tố nước ngoài thì cũng không làm phát sinh hiện tượng xung đột pháp luật (hiện tượng pháp lý khi có hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau cùng điều chỉnh một quan hệ dân). Chỉ pháp luật của chính nước đã chấp nhận bảo hộ mới có giá trị điều chỉnh các vấn đề pháp lý liên quan đến đối tượng sở hữu công nghiệp đó. Chủ thể nước ngoài muốn được bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam phải tuân thủ các điều kiện để được xác lập quyền cũng như được hưởng quyền quy định theo pháp luật Việt Nam. Ngược lại, một nhãn hiệu của Việt Nam muốn được bảo hộ tại nước ngoài cũng phải thỏa mãn các điều kiện tương tự. Cũng do tính chất lãnh thổ tuyệt đối mà một nhãn hiệu đã được bảo hộ ở nước này nhưng chưa chắc sẽ được bảo hộ tại nước khác do mỗi nước có những quy định khác nhau về tiêu chí bảo hộ. Ví dụ, trước khi Luật SHTT 2005 được ban hành, các nhãn hiệu tạo thành từ các chữ cái không phát âm được như một từ, không được thể hiện dưới dạng hình họa thuộc đối tượng không được Nhà nước bảo hộ, trong khi đó, rất nhiều nhãn hiệu tương tự như thế lại được các nước khác bảo hộ. Tính lãnh thổ tuyệt đối của quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu còn được thể hiện rõ trong Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp. Theo đó, Page 20
- “một đơn đăng ký nhãn hiệu do công dân của một nước thành viên của Liên minh nộp tại bất cứ nước nào trong Liên minh cũng không thể bị từ chối – hoặc một đăng ký nhãn hiệu cũng không thể bị hủy bỏ - với lý do rằng việc nộp đơn, đăng ký, hoặc gia hạn tại nước xuất xứ không có hiệu lực. [17] “Một nhãn hiệu đã đăng ký hợp lệ tại một nước thành viên của Liên minh được coi là không phụ thuộc vào các nhãn hiệu đăng ký tại các nước thành viên khác của Liên minh, kể cả nước xuất xứ. [17] Với tài sản thông thường, quyền sở hữu được thể hiện thông qua việc độc quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản. Với tài sản là nhãn hiệu, quyền này được thể hiện thông qua quyền sử dụng, cho phép người khác sử dụng, ngăn cấm người khác sử dụng và định đoạt nhãn hiệu được bảo hộ nếu không được sự cho phép của chủ sở hữu. Quyền độc quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu chỉ giới hạn đối với hành vi sử dụng nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn cho hàng hóa, dịch vụ cùng loại của người khác vì mục đích thương mại hoặc gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về hàng hóa, dịch vụ được cung cấp bởi chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng. Quyền này không áp dụng đối với hành vi sử dụng vì mục đích phi thương mại và một số trường hợp hạn chế quyền khác. Xét về tính lãnh thổ thì quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu là quyền độc quyền tuyệt đối. Nhưng trong phạm vi một lãnh thổ quốc gia thì quyền này lại chỉ mang tính chất tương đối. Vì trong lĩnh vực bảo hộ sở hữu công nghiệp nói riêng và SHTT nói chung luôn tồn tại các quyền độc quyền khác nhau của các chủ sở hữu khác nhau, do đó, quyền độc quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu này phải tôn trọng và đảm bảo quyền độc quyền của chủ thể khác và của xã hội. 1.1.4. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu Nhãn hiệu là một tài sản vô hình rất có giá trị trong giao lưu thương mại, là một đối tượng SHTT dễ bị xâm hại. Nhãn hiệu đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ những nhà sản xuất, kinh doanh trung thực, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, góp phần tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các chủ thể, từ đó Page 21
- tạo sự ổn định cho nền kinh tế mỗi quốc gia. Do tầm quan trọng như vậy của nhãn hiệu nên các nước đều có những cơ chế, chính sách để bảo hộ nhãn hiệu từ phía Nhà nước. Với các tài sản hữu hình, chủ sở hữu có thể thực hiện quyền sở hữu của mình đối với tài sản thông qua việc nắm giữ tài sản, và nhờ đó thậm chí không cần đến sự công nhận quyền sở hữu của Nhà nước thì tài sản vẫn thuộc quyền sở hữu của chủ sở hữu. Với tài sản hữu hình, quyền đối với tài sản này rất khác. “Loại quyền về tài sản này phải được Nhà nước công nhận và bảo vệ mới thực sự chống lại được hành vi xâm phạm của bên thứ ba trong quá trình khai thác.” [39] Nội dung của quyền này được thể hiện thông qua việc Nhà nước ghi nhận các loại tài sản vô hình được Nhà nước bảo hộ, cách thức xác lập quyền, nội dung quyền, các hạn chế quyền và cơ chế bảo vệ quyền. Xuất phát từ những tính chất đặc thù, riêng có của từng loại đối tượng sở hữu công nghiệp, pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới đều ghi nhận hai nguyên tắc xác lập quyền cơ bản, đó là (i) xác lập quyền theo nguyên tắc đăng ký bảo hộ tại cơ quan có thẩm quyền và (ii) xác lập quyền theo nguyên tắc tự động khi đáp ứng các điều kiện nhất định. Đối với đối tượng sở hữu công nghiệp cụ thể là nhãn hiệu thì cả hai nguyên tắc này đều được áp dụng. Với nhãn hiệu không phải là nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu công nghiệp được xác lập trên cơ sở đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, với nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu công nghiệp được xác định khi nhãn hiệu thỏa mãn các tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng được quy định trong luật, không cần thực hiện thủ tục đăng ký. Thông thường việc công nhận nhãn hiệu nổi tiếng chỉ được đặt ra khi có hiện tượng xâm phạm quyền và cơ quan nhà nước có thẩm quyền được yêu cầu xác định xem có thực sự hay không việc xâm phạm quyền của một nhãn hiệu nổi tiếng. Để một dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ được Nhà nước bảo hộ là một nhãn hiệu, dấu hiệu đó cần phải thỏa mãn những tiêu chí nhất định gọi chung là tiêu chuẩn bảo hộ. Quy định về tiêu chuẩn bảo hộ nhằm đảm bảo một Page 22
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 99 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 65 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn