intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:111

38
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Việc nghiên cứu, giải thích và làm sáng tỏ các quyền con người được bảo vệ bằng chế định các trường hợp loại trừ TNHS trong pháp luật hình sự Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng đối với các nhà làm luật, các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như giúp chúng ta có thêm những kiến thức bổ ích khi tìm hiểu về những quy định của BLHS.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TÔN NỮ NGỌC TRÂM BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI BẰNG CHẾ ĐỊNH LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TÔN NỮ NGỌC TRÂM BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI BẰNG CHẾ ĐỊNH LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TSKH. LÊ VĂN CẢM HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Tôn Nữ Ngọc Trâm
  4. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục từ viết tắt LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................. 1 Chƣơng I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH NHỮNG TRƢỜNG HỢP LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ...................................................................... 10 1.1. Bản chất pháp lý của chế định các trƣờng hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam ............................................. 10 1.1.1. Ý nghĩa của việc quy định chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam...................... 10 1.1.2. Một số quan điểm chủ yếu về bản chất pháp lý của chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự.............................................. 11 1.1.3. Quan điểm của nhà làm luật Việt Nam về bản chất pháp lý của chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự........................ 15 1.2. Vai trò của chế định các trƣờng hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong việc bảo vệ các quyền con ngƣời.................................................... 20 1.2.1. Bảo vệ quyền con người thông qua việc quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành các trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự .................................................................................................... 22 1.2.2. Bảo vệ quyền con người bằng cơ chế giám sát, khiếu nại tố cáo và xử lý vi phạm đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc giải quyết các vụ án hình sự liên quan đến các trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự ................................... 39 Kết luận Chƣơng I..................................................................................... 41
  5. Chƣơng II. MỘT SỐ VĂN BẢN QUỐC TẾ VỀ NHÂN QUYỀN TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP HÌNH SỰ VÀ THỰC TRẠNG CÁC QUY PHẠM PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ CHẾ ĐỊNH NHỮNG TRƢỜNG HỢP LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ CÁC QUYỀN CON NGƢỜI .................................... 43 2.1. Một số văn bản quốc tế về nhân quyền trong lĩnh vực tƣ pháp hình sự. 43 2.1.1. Các văn bản quốc tế về bảo vệ các quyền con người ................. 43 2.1.2. Các quyền con người được bảo vệ trong lĩnh vực tư pháp hình sự 47 2.2. Thực trạng các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam về chế định những trƣờng hợp loại trừ trách nhiệm hình sự đối với việc bảo vệ các quyền con ngƣời ........................................................................................ 49 2.2.1. Hệ thống các quy phạm của chế định những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam đối với việc bảo vệ các quyền con người .......................................................................... 49 2.2.2. Nhận xét về các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về chế định những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự đối với việc bảo vệ các quyền con người ..................................................... 54 Kết luận Chƣơng II ................................................................................... 68 Chƣơng III. HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH NHỮNG TRƢỜNG HỢP LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM NHẰM TĂNG CƢỜNG BẢO VỆ CÁC QUYỀN CON NGƢỜI ............. 69 3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về chế định những trƣờng hợp loại trừ trách nhiệm hình sự nhằm tăng cƣờng vai trò bảo vệ các quyền con ngƣời. ........................................................ 69 3.1.1. Về mặt lập pháp ............................................................................ 69 3.1.2. Về mặt lý luận............................................................................... 70 3.1.3. Về mặt thực tiễn ........................................................................... 70
  6. 3.2. Hoàn thiện chế định những trƣờng hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam nhằm tăng cƣờng bảo vệ các quyền con ngƣời. ....................................................................................... 72 3.1.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự.............................................. 72 3.2.2. Giải pháp trong thực tiễn áp dụng những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự ............................................................................... 92 Kết luận Chƣơng III ................................................................................. 95 KẾT LUẬN .................................................................................................... 96 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 98
  7. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự PLHS Pháp luật hình sự TNHS Trách nhiệm hình sự
  8. LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Quyền con người là một giá trị thiêng liêng bất khả tước đoạt, nó hiện hữu trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Quyền con người là một trong những vấn đề được cả nhân loại quan tâm và nghiên cứu. Ở Việt Nam, từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), công cuộc đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam đã làm thay đổi nhận thức và tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ quyền con người. Nhà nước ta đang xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, một nhà nước mà ở đó, quyền con người được tôn trọng và bảo vệ không chỉ dừng lại ở các tuyên bố chính trị, ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật mà còn được bảo vệ trong thực tế. Bảo đảm quyền con người là một trong những nội dung và cũng là mục đích của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chăm lo đến con người, tạo mọi điều kiện cho con người phát triển toàn diện trong thực hiện các chính sách kinh tế xã hội, trong các hoạt động của Nhà nước là những quan điểm cơ bản được thể hiện trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta trong những năm gần đây. Pháp luật là phương tiện, là công cụ sắc bén của Nhà nước trong việc thực hiện bảo vệ quyền con người. Tính sắc bén của pháp luật trong việc thực hiện bảo vệ quyền con người được thể hiện ở các quy định về quyền con người trong pháp luật, hay các biện pháp cưỡng chế được áp dụng đối với hành vi xâm phạm các quyền con người được pháp luật bảo vệ nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Tội phạm thì phải chịu TNHS, tuy nhiên trên thực tế không phải tất cả các tội phạm và các trường hợp phạm tội đều giống nhau. Do đó, để công 1
  9. cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm đạt hiệu quả cao, cùng với việc phân loại tội phạm, luật hình sự Việt Nam cũng đồng thời phân hóa các trường hợp phạm tội, các đối tượng phạm tội khác nhau để có đường lối xử lý phù hợp, nhanh chóng, chính xác và công bằng. Đặc biệt, sự phân hóa các trường hợp phạm tội và người phạm tội còn thể hiện ở chỗ không phải tất cả các trường hợp phạm tội hay tất cả những người phạm tội đều bị truy cứu TNHS. Đó là trường hợp mặc dù hành vi của con người về hình thức có các dấu hiệu của tội phạm cụ thể, nhưng khi xem xét lại thấy những hành vi đó có một số tình tiết nhất định làm mất tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi và hành vi đó không bị coi là tội phạm. Khoa học luật hình sự gọi đây là những trường hợp loại trừ TNHS. Chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người, thể hiện rõ nét chính sách nhân đạo của chính sách hình sự nước ta. Chế định này cũng góp phần nâng cao trình độ pháp lý cho người làm công tác bảo vệ pháp luật và nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, qua những một thời gian áp dụng và thi hành cho thấy một số quy định của BLHS hiện hành về chế định các trường hợp loại trừ TNHS vẫn còn chưa đầy đủ, chưa chặt chẽ về nội dung, chưa phù hợp với thực tiễn đấu tranh và phòng chống tội phạm trong tình hình mới, đặc biệt còn nhiều quy định cần có sự hướng dẫn kịp thời và thống nhất của các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền. Do đó, chưa đảm bảo triệt để vấn đề bảo vệ quyền con người, thực tiễn nhiều nơi vẫn tồn tại tình trạng do không hiểu biết pháp luật hoặc hiểu biết chưa sâu vẫn cho rằng những hành vi đó là tội phạm và phải chịu TNHS, gây nên hậu quả không đáng có cho xã hội. Đúc kết những vẫn đề nêu trên cho thấy, việc nghiên cứu đề tài: “Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam” là cần thiết và mà mang tính cấp thiết để hoàn 2
  10. thiện về mặt pháp luật, tạo sự thống nhất ở các cơ quan tư pháp và nâng cao hiểu biết pháp luật của người dân về chế định các trường hợp loại trừ TNHS, qua đó nâng cao vai trò bảo vệ quyền con người của chế định này. Điều đó cũng chính là lý do thúc đẩy người viết lựa chọn và nghiên cứu đề tài luận văn này. 2. Tình hình nghiên cứu. Trong khoa học pháp lý Việt Nam, vấn đề bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật chuyên ngành và chế định những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự đã được nhiều tác giả nghiên cứu với các góc độ, mức độ và cấp độ nghiên cứu khác nhau. 2.1 Nghiên cứu về vấn đề bảo vệ quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực hình sự, tố tụng hình sự có các công trình nghiên cứu sau: 2.1.1 Nhóm thứ nhất: các công trình nghiên cứu là sách chuyên khảo, giáo trình liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự có: 1) GS.TSKH Lê Văn Cảm (2010), Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự - trong sách chuyên khảo Bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh; 2) TS. Phạm Thị Kim Oanh chủ biên (2010), Bảo đảm quyền trong tư pháp hình sự Việt Nam, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh; 3) TS Trần Quang Tiệp (2004), Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam, nhà xuất bản Chính trị quốc gia… 2.1.2 Nhóm thứ hai: các công trình nghiên cứu là bài viết đăng trong các tạp chí liên quan đến vấn đề bảo vệ các quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự có: 3
  11. 1) GS.TSKH Lê Cảm (2006), “Những vấn đề lý luận bảo vệ quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự”, đăng trong Tạp chí Tòa án nhân dân (số 11) tháng 6/2006; 2) PGS. TS Phạm Văn Tỉnh (2012), “Quyền con người về mặt tư pháp hình sự”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số 6). 3) Nguyễn Minh Tuấn (2012), “Công ước quốc tế về bảo vệ quyền con người trong hoạt động tư pháp”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (số chuyên đề về hội nhập quốc tế)… 2.1.3 Nhóm thứ ba: các công trình nghiên cứu là các đề tài nghiên cứu khoa học, luận văn, luận án liên quan đến vấn đề bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam gồm có: 1) GS.TSKH Lê Văn Cảm, TS Nguyễn Ngọc Chí, Ths Trịnh Quốc Toản đồng chủ trì (2005), Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia Hà Nội; 2) GS.TSKH Lê Văn Cảm chủ trì (2013), Quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự: Lý luận, thực trạng và hướng hoàn thiện pháp luật, đề tài trọng điểm cấp Đại học Quốc gia Hà Nội; 3) Nguyễn Huy Hoàn (2004), Đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay, luận án tiến sĩ luật học bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; 4) Giáp Mạnh Huy (2014), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật học do GS.TSKH Lê Văn Cảm hướng dẫn, bảo vệ tại Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội. 5) Phùng Thị Thanh Mai (2014), Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về các biện pháp tha miễn trong pháp luật hình sự, Luận văn Thạc 4
  12. sỹ Luật học do GS.TSKH Lê Văn Cảm hướng dẫn, bảo vệ tại Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội. 6) Tạ Xuân Trà (2014), Bảo vệ các quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật học do GS.TSKH Lê Văn Cảm hướng dẫn, bảo vệ tại Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội… 2.2 Nghiên cứu về chế định những trường hợp loại trừ TNHS có các công trình nghiên cứu sau đây: 2.2.1 Nhóm thứ nhất: các công trình nghiên cứu là sách chuyên khảo, giáo trình liên quan đến chế định những trường hợp loại trừ TNHS gồm có: 1) GS.TSKH. Lê Văn Cảm (2005), Các trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi - trong sách chuyên khảo Sau đại học Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự”(Phần chung), nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội; 2) Đinh Văn Quế (1998), Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam, nhà xuất bản Chính trị quốc gia; 3) PGS. TS. Kiều Đình Thụ (1998), Những tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự - trong sách: Tìm hiểu luật hình sự Việt Nam, nhà xuất bản Đồng Nai… 2.2.2 Nhóm thứ hai: các công trình nghiên cứu là bài viết đăng trong các tạp chí liên quan đến chế định những trường hợp loại trừ TNHS gồm có: 1) GS.TSKH. Lê Văn Cảm (2001), “Chế định các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi: Về các tình tiết được điều chỉnh trong luật hình sự Việt Nam hiện hành”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (số 4); 2) GS.TSKH Lê Văn Cảm (2001), “Chế định các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi (Những vấn đề cơ bản về khái niệm, hệ thống và bản chất pháp lý)”, Tạp chí luật học, (số 4); 5
  13. 3) PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí (1999), “Về chế định loại trừ trách nhiệm hình sự”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (số 4); 4) Đinh Văn Quế (2009), “Các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự liên quan tới nhân thân người phạm tội”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (số 13); 5) Trịnh Tiến Việt (2013), “Chế định loại trừ trách nhiệm hình sự và những yêu cầu đặt ra khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học, tập 29, (số 4)… 2.2.3 Nhóm thứ ba: các công trình nghiên cứu là các đề tài nghiên cứu khoa học, luận văn, luận án liên quan đến chế định những trường hợp loại trừ TNHS gồm có: Giang Sơn (2002), Các yếu tố loại trừ tính chất tội phạm của hành vi theo luật hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học… Các quan điểm lý luận khoa học về vấn đề bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền con người bằng PLHS cũng như chế định các trường hợp loại trừ TNHS có vai trò và ý nghĩ to lớn đối với nhận thức của tác giả luận văn về đề tài nghiên cứu, là những tài liệu rất bổ ích và được tác giả luận văn sử dụng trong quá trình nghiên cứu thực hiện luận văn thạc sỹ của mình. Tuy nhiên, qua nghiên cứu các chuyên khảo, bài viết cũng như các công trình khoa học trên thì hầu hết các tác giả mới chỉ nghiên cứu riêng từng vấn đề về bảo vệ quyền con người hoặc chế định các trường hợp loại trừ TNHS, chưa có sự liên kết trong việc phân tích, đánh giá hai vấn đề này. Do đó, điểm mới của luận văn này chính là phân tích hai vấn đề bảo vệ quyền con người và chế định các trường hợp loại trừ TNHS trong PLHS Việt Nam để từ đó rút ra được mối liên hệ của việc bảo vệ quyền con người bằng chế định này, qua đó thấy được tầm quan trọng của việc quy định và hoàn thiện chế định các trường hợp loại trừ TNHS trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay. 3. Mục đích nghiên cứu. Việc nghiên cứu, giải thích và làm sáng tỏ các quyền con người được bảo vệ bằng chế định các trường hợp loại trừ TNHS trong pháp luật hình sự 6
  14. Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng đối với các nhà làm luật, các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như giúp chúng ta có thêm những kiến thức bổ ích khi tìm hiểu về những quy định của BLHS. Việc nghiên cứu chế định các trường hợp loại trừ TNHS giúp chúng ta nhận thức được khi nào thì hành vi gây thiệt hại của một người sẽ bị truy cứu TNHS và khi nào thì hành vi gây thiệt hại được loại trừ TNHS nhằm phát huy quyền làm chủ của công dân, góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm. Việc nghiên cứu và hoàn thiện chế định các trường hợp loại trừ TNHS trong pháp luật hình sự Việt Nam cũng góp phần tăng cường hơn nữa vẫn đề bảo vệ quyền con người bằng pháp luật. Vì vậy, mục tiêu nghiên cứu của luận văn này là làm rõ được tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ quyền con người hiện nay bằng chế định những trường hợp loại trừ TNHS trong pháp luật hình sự Việt Nam. Từ những phân tích trên, luận văn chỉ ra những bất cập của pháp luật hiện hành về chế định này, đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả và mục đích bảo vệ các quyền con người của chế định các trường hợp loại trừ TNHS. 4. Phạm vi nghiên cứu. Vấn đề bảo vệ các quyền con người bằng chế định các trường hợp loại trừ TNHS hiện nay còn là vấn đề rất mới và còn nhiều tranh luận xung quanh nó. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài luận văn, người viết tập trung nghiên cứu việc bảo vệ các quyền con người bằng chế định các trường hợp loại trừ TNHS trong PLHS Việt Nam hiện hành và dự thảo Bộ luật hình sự Việt Nam sửa đổi năm 2015. Cụ thể là nghiên cứu các quyền con người được bảo vệ trong các trường hợp mà hành vi tuy về hình thức có dấu hiệu của hành vi nào đó được quy định trong PLHS là tội phạm nhưng người thực hiện hành vi không phải chịu TNHS như: 1) Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi không đáng kể (Khoản 4 Điều 8 BLHS); 2) Sự kiện bất ngờ (Điều 11 BLHS); 3) Hành vi do người chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện (Điều 12 BLHS); 4) 7
  15. Hành vi do người không có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện (Khoản 1 Điều 13 BLHS); 5) Phòng vệ chính đáng (Khoản 1 Điều 15 BLHS), 6) Tình thế cấp thiết (Khoản 1 Điều 16 BLHS)... 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Đối với đề tài luận văn này, người viết chủ yếu dựa trên các quy định của BLHS, hiện hành và các văn bản pháp luật có liên quan cùng với các tài liệu khác như: giáo trình; sách, các công trình nghiên cứu chuyên khảo kết hợp sưu tầm và tham khảo các tạp chí chuyên ngành luật; thông tin trên mạng internet và các tài liệu khác liên quan đến quyền con người, chế định các trường hợp loại trừ TNHS từ đó tiến hành phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu làm rõ cơ sơ lý luận, cơ sở thực tiễn của vấn đề bảo vệ quyền con người bằng chế định các trường hợp loại trừ TNHS trong PLHS Việt Nam. 6. Những đóng góp mới của luận văn Luận văn đã phân tích, liên hệ giữa chế định các trường hợp loại trừ TNHS với vấn đề bảo vệ quyền con người bằng chế định này nhằm góp phần thể hiện chính sách nhân đạo trong PLHS Việt Nam. Luận văn đã phân tích có hệ thống các quy định của BLHS Việt Nam hiện hành, cũng như Dự thảo BLHS Việt Nam (sửa đổi năm 2015) về chế định các trường hợp loại trừ TNHS, từ đó tìm ra được một số tồn tại, hạn chế, bất cập trong quy định của BLHS Việt Nam hiện hành. Luận văn đã đưa ra được một số giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện chế định các trường hợp loại trừ TNHS trong PLHS Việt Nam nhằm tăng cường bảo vệ các quyền con người. 7. Bố cục đề tài Để việc nghiên cứu và tìm hiểu luận văn này một cách có khoa học và dễ hiểu thì ngoài các phần: Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham 8
  16. khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chế định những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Một số văn bản quốc tế về nhân quyền trong lĩnh vực tư pháp hình sự và thực trạng các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về chế định những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự đối với việc bảo vệ các quyền con người. Chương 3: Hoàn thiện chế định những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam nhằm tăng cường việc bảo vệ các quyền con người. Đề tài nghiên cứu “Bảo vệ các quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam” là một vấn đề khá phức tạp, đòi hỏi người nghiên cứu cần có kiến thức sâu rộng cả về lý luận và thực tiễn. Ngoài ra, nó còn đòi hỏi người viết cần có sự liên hệ, suy luận, kỹ năng phân tích để nắm được vấn đề cốt lõi là những quyền con người nào được bảo vệ bằng chế định các trường hợp loại trừ TNHS; tìm ra được những tồn tại và vướng mặc còn gặp phải của chế định này từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện. 9
  17. Chƣơng I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH NHỮNG TRƢỜNG HỢP LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Bản chất pháp lý của chế định các trƣờng hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam 1.1.1. Ý nghĩa của việc quy định chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về các trường hợp loại trừ TNHS có ý nghĩa trên một số bình diện sau: 1) Những trường hợp loại trừ TNHS là một trong những chế định cơ bản phản ánh nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự nói chung và PLHS nói riêng trong Nhà nước pháp quyền [14, tr.503]. 2) Trong khoa học luật hình sự và trong thực tiễn áp dụng PLHS hiện nay xung quanh những vấn đề khái niệm, hệ thống và bản chất pháp lý của chế định này vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau cần phải được nhà làm luật khẳng định dứt khoát về mặt lập pháp [14, tr.503]. Từ đó, có cách hiểu thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng làm cho việc áp dụng chế định này chính xác và đúng pháp luật. 3) Việc tiếp tục phân tích khoa học để làm sáng tỏ về mặt lý luận để tìm ra những trường hợp loại trừ TNHS trong thực tiễn, đồng thời đưa ra một mô hình lý luận nhằm hoàn thiện chế định đang được nghiên cứu là một nhiệm vụ không kém phần quan trọng và cần thiết của khoa học luật hình sự Việt Nam [14, tr.503]. 4) Việc quy định các trường hợp loại trừ TNHS trong PLHS Việt Nam giúp cho mọi người vững tin hơn khi hành động, chủ động đấu tranh chống lại 10
  18. những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị Nhà nước cấm, từ bỏ ý định hoặc hành vi có hại cho xã hội mà mình tưởng lầm là không trái pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật, làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, góp phần xây dựng một xã hội công bằng, văn minh. 5) Việc quy định và hoàn thiện chế định các trường hợp loại trừ TNHS trong PLHS Việt Nam góp phần làm cho pháp luật từng bước đi vào cuộc sống, loại trừ những quy phạm không phù hợp với cuộc sống cũng như kịp thời bổ sung những quy định để điều chỉnh các quan hệ xã hội cần có sự can thiệp của pháp luật. Tóm lại, quy định vấn đề các trường hợp loại trừ TNHS trong luật hình sự Việt Nam có ý nghĩa chính trị - xã hội và pháp lý rất quan trọng trong việc xác định ranh giới giữa tội phạm và không phải là tội phạm, bảo đảm xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật trong mỗi trường hợp tương ứng, cũng như phát huy tinh thần chủ động đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đặc biệt, trong số đó lại có trường hợp được Nhà nước khuyến khích, khen thưởng như: thực hiện hành vi trong phòng vệ chính đáng và trong tình thế cấp thiết vì chúng là những hành vi có ích cho xã hội, vì lợi ích chung của cộng đồng [56, tr.19]. 1.1.2. Một số quan điểm chủ yếu về bản chất pháp lý của chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự Cho đến nay vấn đề bản chất pháp lý của các trường hợp loại trừ TNHS như phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ… vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau dưới đây [14, tr.510 – 512]: 1) Trong khoa học luật hình sự Liên Xô trước đây và khoa học luật hình sự Liên Bang Nga hiện nay có một số quan điểm như sau về bản chất pháp lý của các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, cụ thể là: a) Một số GS.TSKH luật, Viện sĩ Viện HLKH Liên Xô trước đây (Piôntkôvxki A.A, Rômaskin P.X và Trkhikvađze V.M) viết “Chúng không những chỉ là các tình tiết loại trừ cấu thành tội phạm trong hành vi được thực hiện”. 11
  19. b) GS.TSKH luật Xlutxki I.I coi các trường hợp này là các tình tiết loại trừ TNHS và phân chia chúng thành ba nhóm: Nhóm thứ nhất – các tình tiết thể hiện rõ lợi ích cho xã hội tính hợp pháp của hành vi (bao gồm: phòng vệ chính đáng, áp dụng các biện pháp cần thiết để bắt giữ người phạm tội, tình thế cấp thiết, chấp hành lệnh hợp pháp, thực hiện các trách nhiệm nghề nghiệp và công vụ, thực hiện quyền của mình và bắt buộc phải tuân thủ); nhóm thứ hai – các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội và tình phải bị xử phạt của hành vi (bao gồm: tự nguyện đình chỉ tội phạm, sự đồng ý của người bị hại, tính chất nhỏ nhặt của vi phạm pháp luật, sự thay đổi của pháp luật, sự thay đổi của tình hình chính trị - xã hội, hết thời hiệu truy tố hình sự và hết thời hiệu của bản án); nhóm thứ ba – các tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi (bao gồm: sự cưỡng bức về thể xác, sức mạnh không thể chống lại được). c) Bên cạnh các quan điểm đã nêu, quan điểm của GS.TSKH luật Naumôv A.V là rõ hơn cả, khi ông viết: “Tất cả các trường hợp này đều loại trừ cả tính trái PLHS, cả tính nguy hiểm cho xã hội, cả tính chất lỗi, cả tính phải bị xử phạt của hành vi và do đó, cả tính chất tội phạm của nó”. d) Sau khi nhà làm luật Liên Bang Nga đã chính thức ghi nhận trong Chương 8 BLHS năm 1996 hiện hành, bản chất pháp lý của những trường hợp này là “Các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi” (các Điều 37 - 42), thì hầu hết các nhà hình sự học Nga đều đồng nhất với quan điểm coi chúng chính là các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi;… 2) Trong khoa học luật hình sự Việt Nam cho đến nay về bản chất pháp lý của các trường hợp loại trừ TNHS vẫn còn tồn tại năm quan điểm chính như sau [14, tr.512-513]: a) Hầu hết các nhà hình sự học (PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, TS Ngô Ngọc Thủy, TS Nguyễn Mạnh Kháng…) đều coi chúng là các tình tiết loại trừ 12
  20. tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi và quan điểm này được thể hiện trong hầu hết các giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung). b) PGS.TS Kiều Đình Thụ quan niệm chúng là những tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự. c) TS. Nguyễn Ngọc Chí và ThS. Đinh Văn Quế có cùng chung một quan điểm – đều gọi chúng là các trường hợp loại trừ TNHS. d) Tác giả Phạm Hải Đăng quan niệm chúng là những trường hợp không phải là tội phạm. e) Tác giả luận văn đồng tình với quan điểm của GS.TSKH Lê Văn Cảm khi cho rằng bản chất pháp lý đó là các trường hợp (tình tiết) loại trừ tính chất tội phạm của hành vi với các lý do sau đây [14, tr.513, 515, 516): Nếu phân tích theo phép biện chứng duy vật và logic của vấn đề, thì trong nghiên cứu khoa học bao giờ người nghiên cứu cũng phải lần lượt đi theo thứ tự từ A rồi mới đến B, C… (chứ không thể chưa qua A, mà lại đi thẳng vào B rồi mới quay lại khẳng định cho A là làm ngược). Theo cách hiểu trên thì tội phạm tự bản thân nó là một hành vi, nên khi bàn về bản chất pháp lý của hành vi đó chúng ta cần phải lần lượt phân tích theo một thứ tự gồm hai bước: Bước 1 – phân tích các dấu hiệu (A) của nó xem thử hành vi đó có phải là tội phạm hay không, nếu không phải là tội phạm thì do thiếu dấu hiệu nào trong năm dấu hiệu được thừa nhận chung mà tính chất tội phạm của nó được loại trừ; bước 2 – bàn về vấn đề trách nhiệm hình sự với tính chất là hậu quả của việc thực hiện hành vi đó (B) trong từng trường hợp tương ứng cụ thể như thế nào (được loại trừ TNHS - nếu hành vi không phải là tội phạm hoặc là phải chịu TNHS - nếu nó là tội phạm), chứ không thể ngay từ đầu đã bỏ qua bước 1 để sang bước 2. Nếu xem xét như bước 1 đã nêu, chúng ta có thể nhận thấy rõ bản chất pháp lý của tất cả sáu trường hợp đang nghiên cứu trong Phần chung BLHS 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2