intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở các số liệu địa bàn thành phố Hồ Chí Minh)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:97

20
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong luận văn này, tác giả sẽ nghiên cứu theo cách tiếp cận của phương pháp so sánh những quy định có liên quan đến BPBBCB với các chế tài pháp lý hình sự và phi hình sự khác; BPBBCB trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 là đối tượng nghiên cứu chính của tác giả, những quy định của một vài nước cũng sẽ được tác giả nghiên cứu nhưng chỉ dừng lại ở mức độ tham khảo và minh họa.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở các số liệu địa bàn thành phố Hồ Chí Minh)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT -------- NGÔ THANH SƠN BIỆN PHÁP TƢ PHÁP BẮT BUỘC CHỮA BỆNH TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (Trên cơ sở các số liệu địa bàn thành phố Hồ Chí Minh) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TSKH LÊ VĂN CẢM HÀ NỘI - 2013
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Ngô Thanh Sơn
  3. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP BẮT BUỘC CHỮA BỆNH THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ...............................7 1.1. Vài nét về vấn đề năng lực trách nhiệm hình sự của chủ thể của tội phạm trong pháp luật hình sự ..............................................................8 1.1.1. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự.....................................10 1.1.2 Năng lực trách nhiệm hình sự hạn chế ........................................................16 1.1.3. Năng lực trách nhiệm hình sự trong tình trạng say do dùng rượu hay dùng chất kích thích mạnh khác ..................................................................18 1.2. Khái niệm, các đặc điểm cơ bản của biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong luật hình sự .............................................................................19 1.2.1. Khái niệm biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong luật hình sự ......................19 1.2.2. Các đặc điểm cơ bản của biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong luật hình sự .....21 1.3. Sơ lƣợc các quy định về biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng tháng 8/1945 đến trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 của nƣớc ta ..................27 1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8/1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 .................................................................................27 1.3.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 của nước ta ........................................28 1.4. Các quy định có liên quan về biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong pháp luật hình sự của một số nƣớc trên thế giới ....................................29
  4. Chƣơng 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ BIỆN PHÁP BẮT BUỘC CHỮA BỆNH. PHÂN BIỆT BIỆN PHÁP BẮT BUỘC CHỮA BỆNH VỚI CÁC CHẾ TÀI PHÁP LÝ HÌNH SỰ VÀ PHI HÌNH SỰ KHÁC ...........................32 2.1. Khái quát quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về năng lực trách nhiệm hình sự...................................................................32 2.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về biện pháp bắt buộc chữa bệnh ...................................................................................41 2.3. Phân biệt biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong pháp luật hình sự với các chế tài pháp pháp lý hình sự và phi hình sự khác .....................53 2.3.1. Với hình phạt ...............................................................................................54 2.3.2. Với chế tài hành chính.................................................................................58 Chƣơng 3: THỰC TIẾN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP BẮT BUỘC CHỮA BỆNH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ BIỆN PHÁP BẮT BUỘC CHỮA BỆNH .................................................. 61 3.1. Thực tiễn áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành của các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2007 đến năm 2012 .....61 3.2. Hoàn thiện một số quy định của pháp luật hình sự về biện pháp bắt buộc chữa bệnh ...................................................................................77 3.2.1. Về lập pháp ..................................................................................................77 3.2.2. Về thực tiễn .................................................................................................80 3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về biện pháp bắt buộc chữa bệnh ............................................................82 KẾT LUẬN ..............................................................................................................86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................89
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BPBBCB: Biện pháp bắt buộc chữa bệnh CSĐT: Cảnh sát điều tra CHXHCN: Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa LXLVPHC: Luật xử lý vi phạm hành chính NLTNHS: Năng lực trách nhiệm hình sự PLHS: Pháp luật hình sự PLXLVPHC: Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính STT: Số thứ tự TAND: Tòa án nhân dân TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao TTLT: Thông tư liên tịch THA: Thi hành án TNHS: Trách nhiệm hình sự VKS: Viện kiểm sát VKSND: Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
  6. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, một trong những mục tiêu đề ra và được thể hiện xuyên suốt trong quá trình lập pháp nói chung và lập pháp trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói riêng đó là chủ động phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tội phạm, trừng trị, giáo dục, cảm hoá người phạm tội, cải tạo họ trở thành công dân có ích cho xã hội trong đó giáo dục, phòng ngừa tội phạm là chủ yếu. Việc nghiên cứu để đưa ra các cơ chế pháp lý vừa nhằm đấu tranh phòng và chống tội phạm một cách hữu hiệu, vừa đảm bảo các quyền và tự do của con người và của công dân trên thực tế bằng các biện pháp cưỡng chế của hệ thống tư pháp hình sự không chỉ là những nhiệm vụ cơ bản của hoạt động lập pháp, mà còn là hướng nghiên cứu quan trọng của khoa học pháp lý nước ta. Bởi lẽ, với chức năng của mình các biện pháp cưỡng chế của hệ thống tư pháp hình sự có liên quan thiết thực hàng ngày đến một số quyền cơ bản của công dân - đến các giá trị xã hội cao quý nhất được thừa nhận chung đã nêu trong một xã hội có tính nhân bản cao [43, tr.3], đồng thời dựa vào đó cho phép đánh giá mức độ dân chủ và pháp chế trong bất kỳ một quốc gia nào. Trong số các biện pháp cưỡng chế ấy của hệ thống tư pháp hình sự thì biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh sau đây gọi là biện pháp bắt buộc chữa bệnh (BPBBCB) trong Bộ luật hình sự có chức năng rất quan trọng. Với tư cách là chế định độc lập, BPBBCB đã được các nhà làm luật nước ta ghi nhận tại Điều 43, 44 của Bộ luật hình sự 1999. Việc quy định BPBBCB trong pháp luật hình sự thể hiện phương châm đúng đắn trong việc thực hiện chính sách hình sự nước ta đó là sử dụng tối đa, đồng bộ mọi biện pháp để tác động đến việc giáo dục người phạm tội, hình phạt không phải là phương tiện, công cụ duy nhất trong công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Tất cả các biện pháp cưỡng chế hình sự cũng đều nhằm mục đích giáo dục người phạm tội và phòng ngừa tội phạm, góp phần nâng cao hiệu quả của sự tác động hình sự đối với tội phạm. 1
  7. Trong thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm ở nước ta trong thời gian qua đã cho thấy, vì các lý do chủ quan và khách quan khác nhau nên Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành nói chung và chế định BPBBCB nói riêng đã bộc lộ những nhược điểm nhất định trong việc thực hiện chức năng của mình. Do đó, hiện nay để đảm bảo cho sự vận hành đồng bộ của hệ thống tư pháp hình sự nhằm đạt được hiệu quả cao trong cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm, việc tiếp tục nghiên cứu một cách đồng bộ và có hệ thống chế định này là nhiệm vụ quan trọng và cần thiết. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong bối cảnh các bài viết nghiên cứu có liên quan đến BPBBCB trong luật hình sự Việt Nam là không nhiều và còn thiếu tính đồng bộ, trong đó đa số chỉ đề cập một cách khái quát hoặc chỉ phân tích một vài khía cạnh của vấn đề, các cơ quan chức năng dường như bỏ quên công tác tổng hợp, thống kê tình hình áp dụng BPBBCB. Mặt khác, trong quá trình thu thập các số liệu có liên quan đến đề tài, khi tác giả liên hệ với các cơ quan chức năng để được tiếp cận và thu thập số liệu thì nhận được trả lời: i) Tòa án, Viện kiểm sát: đây là các số liệu không nằm trong chỉ tiêu thống kê của ngành nên không thể có để cung cấp; ii) Phân viện giám định pháp y tâm thần phía nam (Biên Hòa - Đồng Nai): đây là các số liệu hạn chế cung cấp (Phân viện chỉ cung cấp cho các cơ quan chức năng có liên quan khi có yêu cầu) còn đối với cá nhân như tác giả thì không được cung cấp. Chính vì những lí do đó mà tác giả đã gặp không ít những khó khăn trong quá trình thực hiện đề tài, đặc biệt là trong việc tìm hiểu thực tiễn áp dụng. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả không tìm thấy một tài liệu hay ấn phẩm nào nghiên cứu chuyên sâu của các nhà nghiên cứu cũng như học giả Việt Nam về vấn đề "Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong luật hình sự Việt Nam". Nghiên cứu của các nhà nghiên cứu, học giả Việt Nam có liên quan đến BPBBCB trong luật hình sự Việt Nam chỉ là những nghiên cứu dưới góc độ diễn giải, bình luận một cách khái quát đối với BPBBCB trong công trình nghiên cứu chung về các biện pháp tư pháp theo luật hình sự Việt Nam như: “Thực trạng quy định của pháp luật hình sự về các biện pháp tư pháp. Thực tiễn áp dụng và một số đề xuất” [52] hoặc chỉ nhắc lại các quy định của pháp luật 2
  8. đối với chế định về BPBBCB trong Bộ luật hình sự Việt Nam như: “Biện pháp tư pháp trong Luật hình sự Việt Nam và vấn đề bảo vệ quyền con người” [24]. Hay chỉ phân tích một vài khía cạnh về biện pháp này, chẳng hạn “Bàn về áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh” [41] hay “Về bắt buộc chữa bệnh và những thiếu xót cần khắc phục” [18]. Việc nghiên cứu BPBBCB trong luật hình sự Việt Nam một cách tổng thể dưới gốc độ quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 và thực tiễn áp dụng biện pháp này của các cơ quan tố tụng trong những năm gần đây trên một địa bàn cụ thể - địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh vẫn chưa được thực hiện thông qua các công trình nghiên cứu nói trên. Ngoài ra, tác giả cũng tham khảo được một số quy định của Luật hình sự của một số nước có liên quan đến quy định về BPBBCB như: Nga, Trung Quốc, Pháp, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Đức.Vì vậy, có thể khẳng định đề tài “Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong luật hình sự Việt Nam” là có tính mới và khoa học của một công trình luận văn thạc sĩ. 3. Mục đích nghiên cứu, đối tƣợng nghiên cứu Để đem đến một cái nhìn tổng quan về nội dung, vai trò và ý nghĩa của quy định về "Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong luật hình sự Việt Nam" tác giả sẽ nghiên cứu theo cách tiếp cận của phương pháp so sánh những quy định có liên quan đến BPBBCB với các chế tài pháp lý hình sự và phi hình sự khác; BPBBCB trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 là đối tượng nghiên cứu chính của tác giả, những quy định của một vài nước cũng sẽ được tác giả nghiên cứu nhưng chỉ dừng lại ở mức độ tham khảo và minh họa. Một cách chi tiết hoá, trong phạm vi của đề tài, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu ba nội dung: (i) Những vấn đề lý luận về BPBBCB theo luật hình sự Việt Nam: Với nội dung này, tác giả tập trung làm rõ khái niệm BPBBCB, nội dung của các quy định có liên quan đến BPBBCB trong pháp luật hình sự Việt Nam, cơ sở lý luận về vấn đề này của Bộ luật hình sự Việt Nam. (ii) Thực tiễn áp dụng BPBBCB trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999: Trong nội dung này, tác giả hướng tới việc nghiên cứu hoạt động áp dụng BPBBCB trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay 3
  9. và thực tiễn áp dụng trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh; cụ thể là kỹ năng cá biệt hoá quy định về “Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999”, khả năng áp dụng biện pháp này của các cơ quan tư pháp hình sự và tác dụng của việc áp dụng biện pháp này đến hiệu quả của hoạt động đấu tranh phòng và chống tội phạm. (iii) Những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng BPBBCB trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999: Trong nội dung này, tác giả hướng tới việc nghiên cứu các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định về BPBBCB trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này trong việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay. Qua việc làm rõ những nội dung trên, tác giả mong muốn hoạt động nghiên cứu của mình sẽ góp phần làm rõ quy định có liên quan đến BPBBCB trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999. Đồng thời luận văn này cũng trình bày một số quy định có liên quan đến BPBBCB của một vài nước, điều này sẽ giúp cho chúng ta có thể đánh giá ưu, nhược điểm của các quy định về BPBBCB trong Bộ luật hình sự hiện hành và học hỏi kinh nghiệm của các nước từ đó giúp cho hoạt động áp dụng BPBBCB đạt hiệu quả mong muốn. 4. Phạm vi nghiên cứu Ở một luận văn Thạc sĩ Luật, đề tài này sẽ nghiên cứu vấn đề về BPBBCB theo quy định của pháp luật hình sự của Việt Nam. Tuy nhiên, đề tài chỉ nghiên cứu vấn đề BPBBCB trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành. Nghĩa là đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu trong khuôn khổ quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về BPBBCB. Trong giới hạn của đề tài, tác giả sẽ nghiên cứu quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về BPBBCB và thực tiễn áp dụng biện pháp này trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2007 đến 2012. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Nhằm đạt được nội dung và mục đích của việc nghiên cứu đề tài sử dụng chủ yếu hai phương pháp là: phương pháp phân tích - tổng hợp và phương pháp so sánh. 4
  10. a. Phương pháp phân tích - tổng hợp: Để diễn giải nội hàm của khái niệm BPBBCB và để làm rõ các quy định có liên quan của pháp luật hình sự Việt Nam, tác giả sử dụng phương pháp phân tích trong quá trình trình bày những nội dung này. Phương pháp phân tích sẽ được sử dụng kết hợp cùng với phương pháp tổng hợp nhằm giúp cho từng nội dung được trình bày trở nên logic và có căn cứ. Tác giả sẽ tổng hợp và phân tích các thông tin từ các nguồn khác nhau bao gồm các văn bản pháp quy, các tài liệu chuyên ngành như các bài nghiên cứu, sách, báo chuyên ngành,... b. Phương pháp so sánh: Với mục đích nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam liên quan đến BPBBCB với một số chế tài pháp lý hình sự và phi hình sự vài khác, cũng như trong quá trình nghiên cứu tác giả cũng trình bày một số quy định có liên quan đến BPBBCB của một vài nước, phương pháp so sánh là phương pháp thích hợp để thực hiện mục tiêu trên. 6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài BPBBCB đóng vai trò rất quan trọng trong đó có liên quan đến việc xác định năng lực trách nhiệm hình sự của người bị áp dụng. Do đó, việc nghiên cứu đề tài "Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong luật hình sự Việt Nam" có ý nghĩa thực tiễn rất lớn trong quá trình đấu tranh phòng và chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay. Song những quy định này vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức trong thực tiễn khoa học pháp lý tại Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu những quy định của pháp luật về "Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong luật hình sự Việt Nam" là một nhu cầu bức thiết và mang tính thực tiễn cao hiện nay. Luận văn này đề cập việc nghiên cứu và đánh giá một cách tương đối toàn diện về quy định "Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong luật hình sự Việt Nam" thông qua việc làm rõ khái niệm BPBBCB, điều kiện cần và đủ để áp dụng biện pháp này và so sánh các căn cứ để áp dụng BPBBCB trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Bên cạnh đó, tác giả còn nghiên cứu cách thức vận dụng biện pháp này trong thực tiễn trên phạm vi địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh để minh chứng cho tính hiệu quả của việc áp dụng biện pháp cưỡng chế này. Với vai trò là biện pháp cưỡng chế trong pháp luật hình sự, việc nghiên cứu các quy định về "Biện pháp tư 5
  11. pháp bắt buộc chữa bệnh trong luật hình sự Việt Nam " sẽ có ý nghĩa thực tiễn rất lớn vì nó đưa ra các căn cứ pháp lý cho việc áp dụng BPBBCB trong quá trình đấu tranh phòng và chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay. 7. Bố cục của luận văn Với mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn sẽ được bố cục thành ba phần gồm Lời nói đầu, phần nội dung gồm ba chương và Kết luận. Cụ thể như sau: Mở đầu Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh theo Luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh và thực tiễn áp dụng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh. Kết luận 6
  12. Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP BẮT BUỘC CHỮA BỆNH THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Trong pháp luật hình sự tội phạm có thể được hiểu một cách ngắn gọn là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt. Do đó tội phạm trước hết phải là một hành vi. Chính vì vậy, tội phạm bao giờ cũng được thực hiện bởi chủ thể xác định. Hay nói cách khác, không thể có hành vi xuất hiện ngoài thế giới khách quan mà không có chủ thể thực hiện. Các tác động trong thế giới vật chất gây nên những thiệt hại đáng kể như sóng thần, động đất, lũ lụt, sấm sét,...xảy ra trong tự nhiên thì không được coi là hành vi. Theo từ điển giải thích thuật ngữ Luật học Trường Đại học Luật Hà Nội thì: Hành vi là toàn bộ những phản ứng, cách xử sự ra bên ngoài của một con người trong một hoàn cảnh cụ thể [47, tr.23]. Do vậy, tội phạm trước hết phải có chủ thể thực hiện. Luật hình sự trong mọi thời điểm lịch sử đều xây dựng trên cơ sở nguyên tắc này. Chủ thể của tội phạm cùng với các yếu tố khác như khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan của tội phạm cấu thành nên tội phạm. Do đó, để xác định một hành vi nào đó có phải là tội phạm hay không cần phải xem xét đến việc hành vi đó có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm như nói trên hay không? Nếu không có đầy đủ các yếu tố đó thì không thể coi đó là tội phạm và do đó không thể truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với người thực hiện hành vi đó. Mặt khác, để trở thành chủ thể của tội phạm, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội một cách cố ý hay vô ý cần phải: có năng lực TNHS (1), đạt độ tuổi nhất định theo Luật hình sự quy định (2). Đây là hai dấu hiệu pháp lý bắt buộc trong chủ thể của tội phạm ở mọi cấu thành tội phạm. Trong đó, đặc điểm có năng lực TNHS là điều kiện cần thiết cho chủ thể có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Vì vậy sẽ là một thiếu sót rất lớn nếu chúng ta nghiên cứu về BPBBCB mà không đề cập đến những quy định về năng lực TNHS trong pháp luật hình sự Việt Nam. Do đó trước khi đi vào nghiên cứu về BPBBCB trong BLHS 1999 tác giả 7
  13. muốn cung cấp một cái nhìn tổng quát về năng lực TNHS để từ đó làm nền tảng cho việc nghiên cứu BPBBCB một cách toàn diện nhất. 1.1. Vài nét về vấn đề năng lực trách nhiệm hình sự của chủ thể của tội phạm trong pháp luật hình sự Khả năng của một người vào tại thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội họ nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi và điều khiển được hành vi đó thì được xem là có năng lực TNHS. Do đó, có thể nói năng lực TNHS là năng lực của người có trạng thái sức khỏe bình thường để hoàn toàn có khả năng nhận thức được tính chất thực tế (tính nguy hiểm cho xã hội) và tính chất pháp lý (tính chất trái pháp luật hình sự) của hành vi do mình thực hiện và điều khiển được hành vi ấy. Cũng cần lưu ý rằng năng lực TNHS không đòi hỏi ở người thực hiện hành vi nhận thức được tính chất pháp lý của hành vi, cụ thể như các trường hợp sai lầm về pháp luật thì vẫn phải chịu TNHS. Trong trường hợp này chỉ đòi hỏi ở người thực hiện hành vi nhận thức về tính thực tế và tính xã hội của hành vi. Năng lực TNHS là khả năng nhận thức ý nghĩa xã hội của hành vi do mình thực hiện và khả năng điều khiển hành vi đó theo những đòi hỏi và chuẩn mực của xã hội. Chỉ một người nhận thức và điều khiển được hành vi của mình trong khi thực hiện tội phạm mới bị coi là có lỗi và mới có khả năng tiếp thu những biện pháp tác động giáo dục của xã hội và khi đó Nhà nước mới đặt ra vấn đề giáo dục, cải tạo họ. Một người mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình trong khi thực hiện tội phạm thì họ không có lỗi và không có khả năng cải tạo, giáo dục và không thể trở thành chủ thể của tội phạm [49, tr.105]. Sống trong xã hội luôn luôn vận động và với cấu tạo sinh học đặc biệt vốn có của con người đã có khuynh hướng hình thành và phát triển năng lực nói trên. Tuy nhiên, trong thực tế cần phải trải qua quá trình hoạt động và dưới sự tác động nhất định của giáo dục trong môi trường xã hội thì khả năng đó mới được hình thành một cách đầy đủ. Đây cũng chính là một trong những lý do của việc quy định độ tuổi chịu TNHS trong BLHS. Năng lực này có thể bị loại trừ hoàn toàn hay bị hạn chế 8
  14. nếu tình trạng hoạt động của hệ thần kinh trung ương bị rối loạn do bệnh tật. Bởi những lý do đó mà ngoài việc quy định độ tuổi phải chịu TNHS trong pháp luật hình sự còn có quy định về tình trạng không có năng lực TNHS. Như đã trình bày và phân tích ở phần trên, năng lực TNHS của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội gồm hai dấu hiệu: thứ nhất, khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi; thứ hai, khả năng điều khiển hành vi đó. Thứ nhất, về khả năng nhận thức: bộ não người là cơ sở vật chất vốn có đầu tiên của con người để hình thành và phát triển ý thức. Tuy nhiên, không phải khi con người được sinh ra đã có thể nhận thức được về tự nhiên, về xã hội, về chính bản thân mình mà khả năng này được hình thành là kết của quá trình sống, hoạt động trong xã hội với một thời gian nhất định. Trong quá trình đó con người được lao động, học tập, được giáo dục từ gia đình, nhà trường và xã hội, con người được giao lưu học hỏi,... qua đó con người tiếp thu được những tri thức, những kinh nghiệm sống và dần dần mới hình thành nên khả năng nhận thức của mình. Khi con người có được khả năng nhận thức nhất định thì khi đó con người mới hiểu được quyền và nghĩa vụ của mình trong cuộc sống cộng đồng, mới hiểu được những đòi hỏi tất yếu của bản thân họ đối với cuộc sống xã hội, từ đó mới có cơ sở đánh giá được ý nghĩa thực tế cũng như ý nghĩa xã hội của hành vi do mình thực hiện. Và hơn nữa, khi họ thực hiện một hành vi đi ngược lại với lợi ích của xã hội, xâm phạm đến lợi ích của cộng đồng, của người khác và hành vi đó được pháp luật hình sự quy định là tội phạm thì họ mới có thể nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ đã thực hiện. Để đánh giá được nhận thức này cần phải đánh giá thông qua nhận thức của con người đó về các yếu tố của hành vi, những yếu tố tạo nên tính nguy hiểm của hành vi cũng như tính chất xã hội của hành vi đó. Chẳng hạn như: kiến thức, trình độ chuyên môn; cách thức mà người đó tiến hành; kinh nghiệm sống; công cụ, phương tiện mà người đó sử dụng; đối tượng mà người đó có hành vi tác động xâm phạm,...Có thể nói khi nhận thức được những vấn đề đó thì cũng chính là năng lực nhận thức của người phạm tội khi họ thực hiện tội phạm. 9
  15. Thứ hai, về khả năng điều khiển hành vi: Khả năng điều khiển hành vi được thể hiện thông qua khả năng được lựa chọn, quyết định và thực hiện hành vi của mình trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Năng lực điều khiển hành vi của con người trước hết được thể hiện ở chính năng lực của con người đó có khả năng lựa chọn, cân nhắc, quyết định và thực hiện các biện pháp xử sự khi họ đứng trước những biện pháp xử sự khác nhau trong đó có cả biện pháp xử sự hợp pháp hoặc không hợp pháp và trong đó có cả biện pháp xử sự gây thiệt hại hoặc không gây thiệt hại. Và trong trường hợp đó nếu người đó lựa chọn biện pháp xử sự gây thiệt hại cho xã hội thì họ phải chịu TNHS về sự tự lựa chọn của mình. Do vậy, khả năng điều khiển hành vi của người phạm tội có thể hiểu là khả năng cân nhắc, lựa chọn và quyết định thực hiện hành vi. Và khả năng này xuất phát từ khả năng nhận thức của người phạm tội. Tuy nhiên, không phải ai khi được sinh ra, lớn lên và đạt đến một độ tuổi nhất định cũng đều có khả năng nhận thức và khả năng điều khiển được hành vi của mình mà thực tế trong cuộc sống có một số trường hợp hai khả năng này có thể bị loại trừ hoặc bị giảm sút do mắc các loại bệnh làm rối loạn hệ thần kinh trung ương. Vì lý do đó mà trong khoa học Luật hình sự còn tồn tại tình trạng không có năng lực TNHS và TNHS hạn chế. 1.1.1. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự Như đã phân tích, người có trạng thái tâm sinh lý hoàn toàn bình thường sẽ có năng lực TNHS khi đạt đến độ tuổi nhất định (tuổi chịu TNHS). Tuy nhiên, năng lực này có thể sẽ không có hay có thể bị loại bỏ một phần hoặc toàn bộ do mắc một số bệnh gây rối loạn hoạt động của não bộ. Vì vậy, có thể nói người không ở trong tình trạng không có năng lực TNHS và TNHS hạn chế thì được xem là người có năng lực TNHS. Trong thực tiễn áp dụng Luật hình sự việc kiểm tra điều kiện này chỉ đặt ra đối với những trường hợp khi có căn cứ, chứng cứ nhất định để nghi ngờ về hoạt động tâm thần của người có hành vi gây nguy hiểm cho xã hội. Để xác định một người không có năng lực TNHS, thông thường có hai dấu hiệu để xác định: thứ nhất, dấu hiệu y học (mắc bệnh); thứ hai, dấu hiệu tâm lý (mất khả năng nhận thức hay khả năng điều khiển hành vi). 10
  16. Về dấu hiệu y học: Người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi và các bệnh này có thể là mãn tính hoặc đột ngột nhất thời. Trong đó có thể kể đến một số bệnh tâm thần như: tâm thần kinh niên (là nhóm bệnh tâm thần mang tính liên tục, lâu dài, khó chữa trị, có xu hướng tiến triển ngày cành nặng) hoặc rối loạn tâm thần tạm thời (đó là những bệnh tâm thần xuất hiện một cách đột ngột, phát triển nhanh diễn ra trong một thời gian ngắn, làm rối loạn nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi, làm quên từng phần hoặc hoàn toàn sự kiện xảy ra trong thời gian mắc bệnh và kết thúc bằng việc hồi phục hoàn toàn (như xung động đốt nhà, xung động trộm cắp...) [49, tr.108]. Ngoài ra còn có các loại bệnh như: Bệnh si ngốc (ngu, đần, thộn) hoặc hoạt động tinh thần bị rối loạn do các bệnh khác như sốt rét ở nhiệt độ quá cao gây mê sảng, tình trạng bệnh khác là tình trạng bệnh tật không liên quan đến rối loạn tâm thần kinh niên hay tạm thời, nhưng cũng ảnh hưởng đến khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình, đó là những người mắc bệnh như rối loạn tuần hoàn, nhiễm khuẫn trong sọ não, u trong sọ não... Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu cho thấy hiện nay có rất nhiều loại bệnh tâm thần làm cho người mắc bệnh rơi vào trình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi và trên cơ sở các tài liệu của các nhà nghiên cứu về tâm thần học bao gồm: [19, tr.10; 40, tr.162; 42, tr.58; 21, tr.11; tài liệu tập huấn “Giám định pháp y tâm thần toàn quốc lần thứ tư” của Viện Giám định pháp y tâm thần trung ương, Bộ y tế, Nxb Y học], sau đây chúng tôi trích dẫn một số bệnh điển hình có thể làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của người mắc bệnh, như: a) Tâm thần phân liệt Tên quốc tế của bệnh tâm thần phân liệt là Shizophrenia, là một bệnh loạn thần nặng và phổ biến,bệnh có tính chất tiến triển với những rối loạn đặc trưng về tư duy, tri giác và cảm xúc, dẫn đến những rối loạn cơ bản về tâm lý và nhân cách theo kiểu phân liệt, nghĩa là mất dần tính hài hòa, thống nhất gây ra chia cắt trong các mặt hoạt động tâm thần [21, tr.113]. Các triệu chứng đặc trưng là các rối loạn tư 11
  17. duy, cảm xúc và hành vi bao gồm những triệu chứng âm tính và dương tính, chúng tác động và chi phối đến hành vi của người bệnh.  Triệu chứng dương tính thường gặp như: hoang tưởng, ảo giác,…  Triệu chứng âm tính thường gặp như: vô cảm, thu hẹp các mối quan hệ xã hội, cảm xúc cùn mòn, giảm các thích thú và ngôn ngữ nghèo nàn, thu mình lại,… Mức độ nặng nhất của bệnh tâm thần phân liệt làm cho người bệnh bị mất hoàn toàn ý chí cũng như không thể kiểm soát được hành vi của mình. Do đó, việc phạm tội trong trường hợp này, người đó hoàn toàn không có lỗi. b) Bệnh động kinh Động kinh (epilepsy; épilepsie) là một quá trình bệnh lý mạn tính đặc trưng bằng sự xuất hiện của ít nhất hai cơn động kinh cách nhau 24 giờ. Bệnh động kinh có các biểu hiện lâm sàng dưới đây: - Về tư duy: trong hình thức, hay gặp tư duy lai dai, khó chuyển chủ đề (đặc biệt ở những bệnh nhân bị bệnh lâu năm); trong nội dung, thường gặp các định kiến và ý định muốn trả thù. - Về hành vi tác phong: Trong các cơn động kinh bệnh nhân có nhiều biểu hiện rối loạn hành vi tác phong (tùy vào loại cơn động kinh mà có những biểu hiện đặc trưng). - Người bệnh bị mất khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi trong các trường hợp sau đây:  Trong cơn động kinh tâm thần  Cơn xung động động kinh  Cơn rối loạn ý thức kiểu hoàn hôn (thường xảy ra sau cơn động kinh toàn bộ cơn lớn)  Sa sút trí tuệ do động kinh. Do vậy, nếu người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thuộc các trường hợp bị mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi do bệnh động kinh gây ra thì được xem là không có lỗi. 12
  18. c) Rối loạn tâm thần thực tổn Theo ngôn ngữ hiện nay thuật ngữ loạn thần thực tổn bao gồm tổn thương thực thể tại não (nguyên phát) và tổn thương thực thể ngoài não (thứ phát). Để dễ dàng phân biệt về mặt lâm sàng thì những tổn thương ngoài não có ảnh hưởng đến chức năng hoạt động của não người ta gọi là loạn thần triệu chứng, còn những tổn thương trong não gây ra rối loạn tâm thần thì gọi là loạn thần thực tổn. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến rối loạn tâm thần thực tổn, qua biểu hiện lâm sàng của bệnh và tùy thuộc vào tiến triển bệnh cơ thể có thể nêu ra các nguyên nhân sau đây:  Các bệnh nguyên phát tại não: U não, viêm não, áp xe não, tai biến mạch máu não, teo não, xơ não, chấn thương sọ não...  Các bệnh không nhiễm khuẩn: Loét dạ dày tá tràng; teo gan cấp, thoái hóa gan não (bệnh Wilson); tăng urê huyết; suy tim, nhồi máu cơ tim; loạn dưỡng do thiếu ăn; thiếu vitamine PP, thiếu iốt...  Các bệnh nhiễm khuẩn: Viêm nội tâm mạc bán cấp (bệnh Osler); bệnh cúm, thương hàn, viêm phổi, lao phổi; viêm gan, sốt rét ác tính nhiễm trùng hậu sản... Bệnh rối loạn tâm thần thực tổn làm cho người bệnh rơi vào tình trạng bị thu hẹp dần khả năng nhận thức do não bộ bị ảnh hưởng bởi bệnh tật. Từ đó làm cho người bệnh có những triệu chứng rối loạn hoang tưởng, rối loạn cảm xúc, ảo giác,…điều này thường hay dẫn đến khả năng làm cho người bệnh có tình trạng cảm giác về những việc không có thật đang xảy ra, không nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện, đặc biệt là thường sống trong trạng thái hoang tưởng rất dễ dẫn đến khả năng thực hiện hành vi nguy hiểm cho người khác và cho bản thân họ. Hậu quả của việc thực hiện hành vi bị quyết định và chi phối bởi yếu tố bệnh lý làm cho ý thức bị suy giảm. Do đó trong trường hợp này đã loại trừ yếu tố lỗi của người bệnh khi họ thực hiện hành vi. d) Rối loạn hoang tưởng Rối loạn hoang tưởng có tên quốc tế là Delusional Disorder là một dạng rối loạn tâm thần làm cho người bệnh có những ý tưởng, phán đoán sai lầm, không phù 13
  19. hợp với thực tế khách quan nhưng người bệnh cho là hoàn toàn chính xác, không thể giải thích phê phán được và chỉ mất đi khi bệnh thuyên giảm. Các triệu chứng đặc trưng của bệnh rối loạn hoang tưởng:  Người bệnh có thái độ đa nghi luôn luôn ngờ vực, lo ngại quá đáng việc bị người khác tấn công. Vì thế, luôn giữ một khoảng cách đối với người đang nói chuyện với mình. Đôi khi khoảng cách đó được biểu hiện bằng sự khiêm tốn thái quá, hoặc bằng một sự hung hăng.  Độc đoán, không có khả năng tự đánh giá bản thân, không cởi mở tiếp nhận quan điểm của người khác.  Người bệnh thường đa nghi, kiêu ngạo chuyên quyền, không có tính khoan dung, luôn coi thường người khác, coi mình là trung tâm. Có thể chia rối loạn hoang tưởng thành các loại sau đây: hoang tưởng được yêu, hoang tưởng tự cao, hoang tưởng ghen tuông, hoang tưởng bị hại (truy hại),... Trên thực tế, trong các dạng rối loạn hoang tưởng trên đây thì rối loạn hoang tưởng bị hại (truy hại) chiếm tỉ lệ cao nhất trong số các bệnh nhân bị mắc chứng bệnh rối loạn hoang tưởng. Do luôn trong trạng thái tâm lý có người âm mưu xác hại hoặc chống lại mình nên đây là dạng rối loạn hoang tưởng dễ dẫn đến việc thực hiện tội phạm của người bệnh. Việc sử dụng bạo lực đối với những người mà người bệnh cho là đang có ý định chống lại mình là do có sự tác động của yếu tố bệnh tật mang lại (ảnh hưởng của những khiếm khuyết về thần kinh). Do đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không có lỗi. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp khi mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác đều làm mất hoàn toàn khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của người mắc bệnh, mà còn tuỳ thuộc vào tình trạng bệnh của mỗi người và trong mỗi giai đoạn khác nhau thì khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của người mắc bệnh được thể hiện ở những mức độ khác nhau. Để có thể xác định một người có rơi vào tình trạng không có năng lực TNHS hay không trong thực tế cần phải dựa vào dấu hiệu thứ hai đó chính là dấu hiệu tâm lý hay còn được gọi là dấu hiệu pháp lý. 14
  20. Về dấu hiệu tâm lý (dấu hiệu pháp lý): Đây là dấu hiệu nói lên mức độ nghiêm trọng của sự rối loạn tâm thần với ý nghĩa là hậu quả của một trong các bệnh lý làm rối loạn thần kinh [50, tr.109]. Tâm lý của người trong tình trạng không có năng lực TNHS được thể hiện ở hai dấu hiệu: dấu hiệu lý trí và dấu hiệu ý trí. Dấu hiệu về lý trí của người không có năng lực TNHS được hiểu là ở người đó không có hay mất khả năng nhận thức đối với hành vi của mình; còn dấu hiệu về ý chí được hiểu là ở người đó không có hay mất khả năng điều khiển hành vi của mình. Như vậy, dấu hiệu y học và dấu hiệu tâm lý là những điều kiện cần và đủ để xác định một người có ở trong tình trạng có năng lực TNHS hay không. Trong đó, dấu hiệu y học có vai trò như là nguyên nhân và dấu hiệu tâm lý là hậu quả. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp khi một người bị mắc bệnh tâm thần cũng đều mất đi khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi. Nghĩa là có những trường hợp mắc bệnh tâm thần có thể làm mất đi khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi, nhưng cũng có trường hợp năng lực này chỉ mất đi theo từng giai đoạn, không mang tính liên tục và cũng có những trường hợp không làm mất đi năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi của người mắc bệnh. Khi có căn cứ nghi ngờ về tình trạng năng lực TNHS của một người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải xác định với sự giúp đỡ của giám định pháp y tâm thần. Hoạt động giám định pháp y tâm thần đưa ra kết luận người thực hiện hành vi đó có mắc bệnh hay không, tính chất, mức độ và ảnh hưởng của bệnh đối với khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của họ như thế nào, cũng như tình trạng bệnh tật của người đó vào tại thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Hay nói cách khác để xác định tình trạng năng lực TNHS của người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải căn cứ vào kết luận của cơ quan giám định pháp y tâm thần (để kiểm tra người đó có mắc bệnh tâm thần hay không? Khi thực hiện hành vi có trong trạng thái mắc bệnh không? Nếu có mắc bệnh thì bệnh đó ảnh hưởng đến năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi của người đó như thế nào ?[30, tr.61]. Trong thực tế, thông thường một người bị mất khả năng nhận thức ý nghĩa xã 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0