intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:108

15
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận quy định về các tội xâm phạm chế độ gia đình và thực tiễn áp dụng các quy định về các tội phạm này trên thực tiễn để đề xuất những giải pháp mang tính hệ thống nhằm hoàn thiện các quy định của BLHS về các tội xâm phạm chế độ gia đình và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội phạm này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT -------------- PHẠM THỊ TUẤN CÁC TỘI XÂM PHẠM CHẾ ĐỘ GIA ĐÌNH THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Quốc Toản Hà Nội – 2016
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn là chính xác và trung thực. Các kết quả trong luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ Phạm Thị Tuấn
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM CHẾ ĐỘ GIA ĐÌNH THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ................................ 7 1.1. Khái niệm và đặc điểm của các tội xâm phạm chế độ gia đình ................. 7 1.1.1. Khái niệm các tội xâm phạm chế độ gia đình ......................................... 7 1.1.2. Đặc điểm của các tội xâm phạm chế độ gia đình ................................. 14 1.2. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của các quy định về các tội xâm phạm chế độ gia đình .............................................................................. 15 1.2.1. Giai đoạn trước năm 1945 .................................................................... 15 1.2.2. Giai đoạn từ sau năm 1945 cho đến trước năm 1985 .......................... 17 1.3. Những quy định về các tội xâm phạm chế độ gia đình trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới.................................................................... 26 Chương 2: QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM CHẾ ĐỘ GIA ĐÌNH TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ......................................................................................................................... 32 2.1. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm chế độ gia đình và đường lối xử lý hình sự ................................................................................... 32 2.1.1. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều 147 BLHS 1999) .......... 32 2.1.2. Tội loạn luân (Điều 150 BLHS 1999) .................................................. 42 2.1.3. Tội ngược đãi, hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, người có công nuôi dưỡng mình (Điều 151 BLHS 1999) .............................................. 48 2.1.4. Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 152 BLHS 1999) ............................................................................................................... 54 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 trong xét xử các tội xâm phạm chế độ gia đình.............................................................. 60 2.3. Một số tồn tại, hạn chế trong xét xử các tội xâm phạm chế độ gia đình và nguyên nhân .................................................................................................... 68
  4. 2.3.1. Những hạn chế trong quy định của pháp luật về các tội xâm phạm chế độ gia đình ....................................................................................................... 68 2.3.2. Những hạn chế trong công tác điều tra, truy tố, xét xử đối với các tội xâm phạm chế độ gia đình .............................................................................. 74 Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM CHẾ ĐỘ GIA ĐÌNH VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ CÁC TỘI PHẠM NÀY ................................................................................. 78 3.1. Quan điểm hoàn thiện các quy định pháp luật về các tội xâm phạm chế độ gia đình và nâng cao chất lượng điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm này ... 78 3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm chế độ gia đình .............................................................. 80 3.3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng điều tra, truy tố, xét xử các tội xâm phạm chế độ gia đình ...................................................................................... 88 3.3.1 Nâng cao hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra ............................. 88 3.3.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động truy tố của Viện kiểm sát ...................... 90 3.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa án .................................... 93 KẾT LUẬN .................................................................................................... 96 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 98
  5. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự HNVGĐ : Hôn nhân và gia đình NXB : Nhà xuất bản TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao VKS : Viện kiểm sát TNHS : Trách nhiệm hình sự CTTP : Cấu thành tội phạm
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1: Số vụ án về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình được xét xử sơ thẩm ................................................................................................. 61 Bảng 2.2 Số vụ án về các tội xâm phạm chế độ gia đình trong tổng số vụ án về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình ......................................... 62 Bảng 2.3: Số vụ án, bị cáo về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng, được xét xử sơ thẩm ................................................................................................. 63 Bảng 2.4: Số vụ án, bị cáo về tội loạn luân, được xét xử sơ thẩm.................. 64 Bảng 2.5: Số vụ án, bị cáo về tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình, được xét xử sơ thẩm ..... 65 Bảng 2.6. Kết quả xét xử các vụ án về các tô ̣i xâm phạm chế độ gia đình..... 67
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (XHCN). Gia đình tốt, thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Nhận thức được tầm quan trọng của gia đình trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước ta đã thiết lập chế độ hôn nhân gia đình mới tiến bộ, thay thế cho chế độ hôn nhân gia đình phong kiến, lạc hậu. Quyết tâm xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) mới của Đảng và Nhà nước ta được thể hiện rất rõ trong các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và Điều 64, Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận: Gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con cái thành những công dân tốt. Con cháu có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ. Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử với các con. Để đảm bảo thực hiện đúng đắn, đầy đủ chế độ HN&GĐ mới tiến bộ và tuân thủ triệt để Hiến pháp, Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1985, cũng như BLHS năm 1999 đều đã quy định cụ thể các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, góp phần ngăn chặn, hạn chế và từng bước xóa bỏ những tàn tích của chế độ HN&GĐ phong kiến, lạc hậu. Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm có chiều hướng gia tăng, diễn biến phức tạp; tình trạng suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, kể cả trong lĩnh vực HN&GĐ nói riêng. Đáng chú ý, các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ không có xu hướng gia tăng, nhưng tính chất và mức độ ngày càng nghiêm trọng, gây dư luận xấu trong xã hội. Trong các tội xâm phạm chế độ 1
  8. HN&GĐ thì các tội xâm phạm chế độ gia đình được quy định tại Chương XV BLHS là các tội thường xuyên xảy ra nhất các tội này bao gồm các Điều 147, 150, 151, 152 BLHS năm 1999. Thực tiễn đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình nói chung và đặc biệt là các tội xâm phạm chế độ gia đình nói riêng cho thấy, mặc dù đây là các tội phạm mà tính chất nguy hiểm cho xã hội không cao, nhưng có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống gia đình; trên thực tế, các tội phạm này xảy ra rất nhiều, song việc xử lý bằng các chế tài hình sự còn rất hạn chế. Thực tiễn áp dụng các tội xâm phạm chế độ gia đình cũng đã đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc, đòi hỏi khoa học luật hình sự phải nghiên cứu, giải quyết để làm sáng tỏ về mặt lý luận như: khái niệm các tội xâm phạm chế độ gia đình, ý nghĩa của việc quy định các tội phạm này trong pháp luật hình sự... Trong khi đó, xung quanh những vấn đề này, vẫn còn rất nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài, "Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự Việt Nam", mang tính cấp thiết, không những về lý luận, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu Các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ là nhóm tội phạm có tính nhạy cảm cao, phức tạp, đã được một số nhà luật học trong nước quan tâm nghiên cứu. Có thể kể đến một số công trình như: Bùi Anh Dũng đã có công trình "Tìm hiểu các tội xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân, các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình", Nxb Lao động, Hà Nội, 2003; Tác giả Trịnh Tiến Việt đã có các công trình: "Một số vấn đề cần lưu ý khi áp dụng các quy định tại chương các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong Bộ luật hình sự 1999", Tạp chí khoa học Pháp lý, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, số 1/2003, "Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng trong 2
  9. Bộ luật hình sự 1999", Tạp chí Kiểm sát, số 4/2002, "Về tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu, người có công nuôi dưỡng mình trong Bộ luật hình sự 1999", Tạp chí Kiểm sát, số 9/2002,); tác giả Nguyễn Quốc Việt chủ biên cuốn sách: Bộ luật hình sự mới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 2001, trong đó có đề cập chương XV - Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình; tác giả Nguyễn Ngọc Điệp có công trình: "Tìm hiểu các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình và các tội đối với người chưa thành niên", Nxb Phụ nữ, Hà Nội; các tác giả Phan Đăng Thanh và Trương Thị Hòa có công trình: Pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam xưa và nay, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, 2000... Như vậy, có thể thấy các công trình nói trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau của nhóm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ nói chung và các tội xâm phạm chế độ gia đình nói riêng, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về nhóm tội phạm này dưới góc độ pháp lý hình sự. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Mục đích của luận văn Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận quy định về các tội xâm phạm chế độ gia đình và thực tiễn áp dụng các quy định về các tội phạm này trên thực tiễn để đề xuất những giải pháp mang tính hệ thống nhằm hoàn thiện các quy định của BLHS về các tội xâm phạm chế độ gia đình và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội phạm này. Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau: - Làm sáng tỏ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của các tội xâm phạm chế độ gia đình trong luật hình sự; phân tích các quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về loại tội phạm này. 3
  10. - Phân tích và đánh giá tình hình, nguyên nhân và thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử đối với các tội xâm phạm chế độ gia đình. - Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của BLHS về các tội xâm phạm chế độ gia đình và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống cũng như áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội phạm này. Đối tượng nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu các tội xâm phạm chế độ gia đình được quy định trong các điều 147, 150, 151, 152 BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu các tội xâm phạm chế độ gia đình dưới góc độ pháp lý hình sự ở Việt Nam, thời gian từ năm 2010 đến tháng 6 năm 2015. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước và pháp luật, những thành tựu của các khoa học: triết học, tội phạm học, luật hình sự, tâm lý học, xã hội học... Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tòa án về các tội xâm phạm chế độ gia đình, các báo cáo tổng kết, số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) về các tội xâm phạm chế độ gia đình. Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp: hệ thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử, cụ thể, lôgíc, kết hợp với các phương pháp khác như so sánh, điều tra xã hội... 5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ 4
  11. thống về các tội xâm phạm chế độ gia đình. Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới về khoa học của luận văn: - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về các tội xâm phạm chế độ gia đình; những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của các tội phạm này trong pháp luật hình sự hiện hành. - Phân tích, đánh giá những quy định về các tội xâm phạm chế độ gia đình trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới nhằm rút ra những giá trị hợp lý trong lập pháp hình sự, bổ sung cho những luận cứ và giải pháp được đề xuất trong luận văn. - Đánh giá đúng thực trạng tình hình các tội xâm phạm chế độ gia đình ở Việt Nam, phân tích, làm rõ nguyên nhân của thực trạng đó. - Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm chế độ gia đình. 6. Ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm chế độ gia đình ở nước ta. Thông qua kết quả nghiên cứu và các kiến nghị, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào kho tàng lý luận về tội phạm học, luật hình sự, cũng như vào cuộc đấu tranh phòng, chống nhóm tội phạm có tính nhạy cảm cao và phức tạp này. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự, tội phạm học nói riêng và cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại cơ quan Công an, Viện kiểm sát (VKS), Tòa án. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương. 5
  12. Chương 1: Một số vấn đề về các tội xâm phạm chế độ gia đình trong Luật hình sự Việt Nam Chương 2: Quy định về các tội xâm phạm chế độ gia đình trong BLHS và thực tiễn thi hành Chương 3: Mô ̣t số kiế n nghi ,̣ giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luâ ̣t hình sự năm 1999 về các tô ̣i xâm pha ̣m chế đô ̣ gia đình và nâng cao chấ t lươ ̣ng xét xử các tô ̣i pha ̣m này. 6
  13. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM CHẾ ĐỘ GIA ĐÌNH THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm và đặc điểm của các tội xâm phạm chế độ gia đình 1.1.1. Khái niệm các tội xâm phạm chế độ gia đình Để có thể làm sáng tỏ khái niệm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ nói chung và các tội xâm phạm chế độ gia đình nói riêng trước hết cần làm sáng tỏ khái niệm HN&GĐ. Hôn nhân và gia đình - đó là những hiện tượng xã hội luôn được các nhà triết học, đạo đức học, xã hội học, luật học, sử học quan tâm nghiên cứu. Hôn nhân là cơ sở của gia đình, gia đình là tế bào của xã hội mà trong đó kết hợp hài hòa, chặt chẽ lợi ích của mỗi công dân, Nhà nước và xã hội. C.Mác và Ph. Ăngghen đã chứng minh một cách khoa học rằng, HN&GĐ là những phạm trù phát triển theo lịch sử, rằng giữa chế độ kinh tế - xã hội và tổ chức gia đình có mối liên quan trực tiếp, chặt chẽ. Hôn nhân là hiện tượng xã hội - là sự liên kết giữa người đàn ông và người phụ nữ. Sự liên kết đó phát sinh và hình thành do việc kết hôn và được biểu hiện ở một quan hệ xã hội gắn liền với nhân thân, đó là quan hệ vợ chồng. Đây là quan hệ giữa hai người khác giới tính, bản chất và ý nghĩa của nó thể hiện trong việc sinh đẻ, nuôi nấng và giáo dục con cái, đáp ứng lẫn nhau những nhu cầu tinh thần và vật chất trong đời sống hàng ngày. Có thể nói, sản xuất ra cuộc sống chính bản thân mình là nhờ lao động, còn sản xuất ra giống nòi là nhờ sinh đẻ, nói cách khác, tồn tại hai mối quan hệ: mối quan hệ tự nhiên và mối quan hệ xã hội. Quan hệ hôn nhân là quan hệ xã hội được xác định bởi các quan hệ sản xuất đang thống trị, vì vậy, tính chất của nó có thể thay đổi, phụ thuộc vào quan hệ sản xuất đang thống trị đó. 7
  14. Trong mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, giai cấp thống trị đều điều chỉnh các quan hệ hôn nhân bằng pháp luật cho phù hợp với ý chí, nguyện vọng của mình, phục vụ lợi ích của giai cấp mình. Xã hội chiếm hữu nô lệ, có chế độ hôn nhân chiếm hữu nô lệ; xã hội phong kiến có chế độ hôn nhân phong kiến; xã hội tư bản có chế độ hôn nhân tư sản, còn xã hội XHCN có chế độ hôn nhân XHCN. Trong những xã hội bóc lột, những người thuộc giai cấp bị bóc lột thường khó có thể có quan hệ hôn nhân với những người thuộc giai cấp thống trị. Dưới chế độ XHCN, hôn nhân thực sự mang tính chất bình đẳng, tự nguyện, tiến bộ, đó không phải là hợp đồng, mà là sự liên kết bền vững giữa người đàn ông và người phụ nữ, trên cơ sở yêu thương, quý trọng lẫn nhau, bảo đảm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của đôi bên, cũng như thỏa mãn nhu cầu sinh đẻ và giáo dục con cái [56, tr. 12 -16]. Hôn nhân là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người phụ nữ trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện theo quy định của pháp luật nhằm chung sống với nhau suốt đời và xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc. Như vậy, chế độ gia đình được hiểu là tổng thể các quy định của pháp luật điều chỉnh mối quan hệ gia đình. Khái niệm gia đình rộng hơn khái niệm hôn nhân. Nếu như hôn nhân là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người phụ nữ, thì gia đình là sự liên kết của nhiều người có quan hệ với nhau do hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Gia đình là sản phẩm của xã hội, đã phát sinh và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội. Các điều kiện kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất định là nhân tố quyết định tính chất và kết cấu của gia đình. Do vậy, gia đình là hình ảnh thu hẹp của xã hội, là tế bào của xã hội. Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, gia đình mang tính chất và kết cấu phù hợp với hình thái đó. Gia đình XHCN khác về chất so với các kiểu gia đình 8
  15. của các chế độ xã hội trước đó. Dưới chế độ XHCN, quan hệ bình đẳng giữa vợ và chồng trong gia đình, phản ánh mối quan hệ bình đẳng giữa nam và nữ trong xã hội. Như vậy gia đình là sự liên kết của nhiều người dựa trên cơ sở hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng, trong đó mọi người cùng quan tâm giúp đỡ lẫn nhau về vật chất và tinh thần, xây dựng gia đình, nuôi dạy thế hệ trẻ dưới sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội. Vấn đề tiếp theo cần làm sáng tỏ là khái niệm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ để từ đó có thể đưa ra khái niệm các tội xâm phạm chế độ gia đình. Bởi lẽ khái niệm các tội xâm phạm chế độ gia đình nằm trong nhóm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ. Các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ cũng là một loại tội phạm, vì vậy nó phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm, mà theo TSKH Lê Cảm, phải thể hiện ba bình diện với năm đặc điểm (dấu hiệu) của nó là: a) bình diện khách quan: tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; b) bình diện pháp lý: tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự; c) bình diện chủ quan: tội phạm là hành vi do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách có lỗi [30, tr. 105]. Trong khoa học pháp lý hình sự, các nhà hình sự học đã đưa ra khái niệm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ. Các tác giả của Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội cho rằng: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định thực hiện bằng lỗi cố ý gây thiệt hại cho các quan hệ hôn nhân và gia đình mới, tiến bộ xã hội chủ nghĩa. Sự gây thiệt hại này thể hiện đầy đủ nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình [31, tr. 295]. 9
  16. Các tác giả của Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật cho rằng, "các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình là những hành vi vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam" [57, tr. 405]. Trên cơ sở các quan điểm được trình bày ở trên, chúng tôi xin đưa ra khái niệm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ như sau: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý, xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam XHCN. Hôn nhân và gia đình là một nhóm quan hệ xã hội chịu sự điều chỉnh của rất nhiều ngành luật. Luật HN&GĐ quy định về chế độ HN&GĐ, trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc củng cố chế độ HN&GĐ Việt Nam. Luật dân sự cũng điều chỉnh lĩnh vực HN&GĐ thông qua việc điều chỉnh quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ, chồng và các thành viên khác trong gia đình như giám hộ, đại diện, nuôi con nuôi, thừa kế, tài sản, quyền sở hữu... Luật hình sự không quy định quyền và nghĩa vụ nhân thân hay tài sản giữa vợ, chồng và các thành viên khác trong gia đình mà chỉ bảo vệ quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình thông qua việc quy định một loạt các hành vi bị coi là tội phạm và hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi đó như: tội vi phạm chế độ một vợ một chồng, tội cưỡng ép kết hôn, tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng... Trong BLHS 1999, các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ được quy định tại chương XV Phần các tội phạm (từ Điều 146 đến Điều 152) bao gồm các tội cụ thể sau: tội cưỡng ép kết hôn (Điều 146); tội cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ (Điều 146); tội vi phạm chế độ một vợ một chồng (Điều 147); tội tổ chức tảo hôn (Điều 148); tội tảo hôn (Điều 148); tội đăng ký kết hôn trái 10
  17. pháp luật (Điều 149); tội loạn luân (Điều 150); tội ngược đãi ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình (Điều 151); tội hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình (Điều 151); tội từ chối nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 152); tội trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 152). Từ những phân tích trên về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ trong luật hình sự Việt Nam cũng như những phân tích ở đặc điểm của chế độ gia đình chúng ta có thể hiểu các tội xâm phạm chế độ gia đình trong luật hình sự Việt Nam như sau: Các tội xâm phạm chế độ gia đình là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý, xâm phạm chế độ gia đình Việt Nam XHCN được bảo hộ bằng các quy định của Bộ luật hình sự. Vì mỗi tội phạm bao giờ cũng được cấu thành bởi bốn yếu tố: mặt khách quan, mặt chủ quan, khách thể và chủ thể. Cho nên, để hiểu và nhận thức một cách sâu sắc nội dung khái niệm các tội xâm phạm chế độ gia đình, cần làm rõ bốn yếu tố của CTTP nói trên. Trước hết, việc nghiên cứu khách thể của các tội xâm phạm chế độ gia đình là một trong những vấn đề trọng tâm khi tìm hiểu khái niệm các tội xâm phạm chế độ gia đình, bởi nó là các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, bị các hành vi phạm tội xâm hại. Khách thể của các tội phạm này chính là những nguyên tắc cơ bản thiết lập chế độ gia đình mới, tiến bộ XHCN. Theo Luật HN&GĐ Việt Nam, các nguyên tắc này là: hôn nhân tự nguyện tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng; hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, các tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và pháp luật bảo vệ; vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình; cha mẹ có 11
  18. nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có ích cho xã hội; con có nghĩa vụ tôn kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ; cháu có nghĩa vụ chăm sóc, phụng dưỡng ông bà, các thành viên trong gia đình có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Mọi hành vi xâm phạm những nguyên tắc cơ bản làm cơ sở, nền tảng cho chế độ hôn nhân gia đình XHCN - khách thể của tội phạm đều có thể bị xử lý hình sự, sau khi đã áp dụng các chế tài hành chính nhưng không có hiệu quả. Nếu như khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ bị các tội phạm xâm hại gây nên những thiệt hại nhất định, thì việc gây nên những thiệt hại đó bao giờ cũng được thực hiện bởi hành vi cụ thể tác động vào đối tượng bị tác động làm thay đổi trạng thái bình thường của quan hệ xã hội đó. Sự tác động đó có thể được thực hiện bằng hành động hoặc không hành động, bằng các công cụ, phương tiện khác nhau để gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Đó chính là mặt khách quan của tội phạm. Hành vi khách quan của các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ có khác nhau về hình thức thể hiện, nhưng đều có tính chất gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại trực tiếp cho các quan hệ HN&GĐ mới tiến bộ XHCN. Những hình thức thể hiện của hành vi khách quan có thể là: - Hành vi vi phạm nghĩa vụ yêu thương, chăm sóc, giáo dục của cha mẹ đối với con cái và ngược lại. - Hành vi quan hệ tình dục giữa các thành viên trong gia đình với nhau. - Hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác (mặc dù đang có vợ có chồng hoặc chưa có vợ, có chồng nhưng biết rõ người mà mình kết hôn hoặc sống chung đang có vợ, có chồng)... Các hành vi khách quan này, nhìn chung được thực hiện bằng hình thức hành động. Các tội phạm này có thể được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn khác nhau, nhưng nó chỉ là dấu hiệu bắt buộc nếu được quy định cụ thể trong từng CTTP. 12
  19. Trong số các tội này, có ba điều luật quy định hậu quả hoặc đã bị xử phạt hành chính là dấu hiệu cơ bản thuộc về mặt khách quan (Điều 147, Điều 151 và Điều 152); đối với các tội còn lại, nhà làm luật quy định xử phạt hành chính hoặc xử lý kỷ luật là dấu hiệu bắt buộc bên cạnh các dấu hiệu khác được mô tả trong luật. Dấu hiệu đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm được hiểu là trước đó đã có lần vi phạm, đã bị các cơ quan có thẩm quyền áp dụng một trong các hình thức xử phạt hành chính như cảnh cáo, phạt tiền nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt hành chính mà lại có vi phạm chính hành vi đó hoặc thực hiện một trong những hành vi được liệt kê trong điều luật tương ứng đó. Cần lưu ý rằng, việc xử phạt hành chính chỉ có hiệu lực trong thời hạn một năm, do vậy nếu hành vi vi phạm xảy ra sau thời hạn một năm kể từ ngày bị xử phạt, thì không được coi là một trong những dấu hiệu để truy cứu TNHS. Tội phạm bao giờ cũng được thực hiện bởi những con người cụ thể, bởi vì chỉ có con người cụ thể mới có thể thực hiện được hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong luật hình sự, mới thể hiện được yếu tố lỗi, chịu trách nhiệm cá nhân, cũng như có thể gánh chịu các biện pháp trừng trị, giáo dục, cải tạo mà Nhà nước quy định. Chủ thể của các tội xâm phạm chế độ gia đình phải là những con người cụ thể đã đạt đến một độ tuổi nhất định và có năng lực TNHS. Ngoài ra, có những tội phạm đòi hỏi chủ thể, ngoài những dấu hiệu của chủ thể thường, phải có thêm những dấu hiệu đặc biệt khác. Điều đó có nghĩa, nếu thiếu các dấu hiệu đặc biệt đó thì không thể trở thành chủ thể của những tội phạm cụ thể đó. Ví dụ, chủ thể của các tội: tội loạn luân, hay tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình phải là chủ thể đặc biệt. Mặt chủ quan của tội phạm là diễn biến bên trong phản ánh trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành 13
  20. vi đó gây ra. Những dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm bao gồm dấu hiệu lỗi, dấu hiệu động cơ, dấu hiệu mục đích... Tất cả các tội xâm phạm chế độ gia đình đều được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Điều đó có nghĩa, những chủ thể của các tội phạm này khi thực hiện hành vi xâm phạm những quan hệ HN&GĐ XHCN đều nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra. Nhìn chung, tất cả các tội xâm phạm chế độ gia đình đều không có cấu thành giảm nhẹ và chỉ duy nhất tội xâm phạm chế độ một vợ một chồng có cấu thành tăng nặng. Ngoài hình phạt chính được áp dụng đối với loại tội này thì đa phần là không có hình phạt bổ sung (trừ tội đăng ký kết hôn trái pháp luật). Một điểm đặc trưng của nhóm tội này là mức hình phạt được quy định không cao với các chế tài lựa chọn mà cụ thể là mức hình phạt tối đa ở hầu hết các tội chỉ đến ba năm tù (chỉ có tội loạn luân có mức hình phạt tù có thời hạn tối đa là năm năm). 1.1.2. Đặc điểm của các tội xâm phạm chế độ gia đình Các tội xâm phạm chế độ gia đình có đối tượng đặc biệt là các quan hệ gia đình được pháp luật XHCN bảo vệ. Xuất phát từ tính chất đặc biệt đó, các tội xâm phạm chế độ gia đình có những đặc điểm sau. Thứ nhất, các tội xâm phạm chế độ gia đình nằm trong nhóm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ được quy định tại Chương XV của BLHS năm 1999 phần lớn là các tội có tính chất ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng. Mức hình phạt đối với các tội phạm này chủ yếu là cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, hoặc phạt tù không quá ba năm. Như vậy, ta có thể thấy chính sách hình sự nhất quán của Nhà nước ta đối với các tội phạm này chủ yếu vẫn là tuyên truyền, giáo dục để mọi người tôn trọng và chấp hành đúng chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về chế độ HN&GĐ không thực hiện những hành 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2