intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Chế định Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:104

29
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ chế định Viện kiểm sát trong các bản Hiến pháp Việt Nam từ các quy định Hiến pháp đến tổ chức thực thi Hiến pháp. Đồng thời luận văn cũng đi sâu đánh giá những quan điểm, đề xuất và những vấn đề đặt ra trong quá trình sửa đổi Hiến pháp 2013.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Chế định Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG MINH PHƯỢNG CHÕ §ÞNH VIÖN KIÓM S¸T NH¢N D¢N TRONG HIÕN PH¸P VIÖT NAM Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số: 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG MINH TUẤN HÀ NỘI - 2013
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN ĐẶNG MINH PHƯỢNG
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ................................................................... 8 1.1. Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ............................................... 8 1.2. Viện kiểm sát nhân dân qua các bản Hiến pháp Việt Nam ......... 21 1.2.1. Cơ quan công tố - tiền thân của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của Hiến pháp 1946 .................................................................... 21 1.2.2. Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của Hiến pháp 1959 .............. 26 1.2.3. Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của Hiến pháp 1980 .............. 30 1.2.4. Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của Hiến pháp 1992 .............. 33 1.3. Viện kiểm sát, Viện công tố theo quy định của Hiến pháp một số nước trên thế giới ................................................................. 36 1.3.1. Viện kiểm sát Trung Quốc ................................................................. 36 1.3.2. Viện công tố Pháp .............................................................................. 41 1.3.3. Viện công tố Anh Quốc...................................................................... 44 1.3.4. Viện kiểm sát Liên bang Nga ............................................................. 47 Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THEO QUY ĐỊNH CỦA HIẾN PHÁP 1992 ............................................................................. 53 2.1. Cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân.................................. 53 2.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân ................... 55
  4. 2.2.1. Trong giai đoạn điều tra ..................................................................... 56 2.2.2. Trong giai đoạn xét xử ....................................................................... 57 2.3. Thực trạng thực thi các quy định của Hiến pháp 1992 về Viện kiểm sát nhân dân ................................................................... 61 2.3.1. Về cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân ................................. 61 2.3.2. Về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân ......................................... 66 Chương 3: NHỮNG QUAN ĐIỂM, ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA HIẾN PHÁP 1992 (SỬA ĐỔI 2001) VÀ NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA HIẾN PHÁP 2013 VỀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ................................................................. 76 3.1. Những quan điểm hoàn thiện các quy định của Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001) về Viện kiểm sát nhân dân ............................ 76 3.2. Những đề xuất hoàn thiện các quy định của Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001) và những điểm mới của Hiến pháp 2013 về Viện kiểm sát nhân dân ................................................................... 81 3.2.1. Về vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp ......... 82 3.2.2. Về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân.......... 85 3.2.3. Về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân............ 89 KẾT LUẬN .................................................................................................... 94 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 96
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ở Việt Nam, thiết chế Viện công tố, sau này là Viện kiểm sát ra đời và phát triển cùng với quá trình thành lập và phát triển của nhà nước cách mạng. Kể từ khi thành lập đến nay, Viện kiểm sát luôn được khẳng định là cơ quan nhà nước độc lập trong bộ máy nhà nước. Trong thời kỳ đầu của Chính quyền dân chủ nhân dân, Viện công tố vẫn tồn tại trong hệ thống tòa án nên chưa hình thành hệ thống Viện kiểm sát nhân dân độc lập như ngày nay, song về hoạt động luôn thể hiện tính độc lập. Sau khi hệ thống Viện công tố chuyển thành hệ thống Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp năm 1959 đến nay, Viện kiểm sát nhân dân luôn được Hiến pháp xác định là cơ quan nhà nước có vị trí độc lập trong bộ máy nhà nước nhà nước. Viện kiểm sát là thiết chế du nhập từ mô hình mô hình tổ chức Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Viện kiểm sát là cơ quan độc lập thực hiện chức năng công tố và kiểm sát chung. Vị trí này được xác định trong các bản Hiến pháp 1959, 1980 và 1992. Xuất phát từ nhu cầu lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức quyền lực nhà nước, Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001) đã giới hạn chức năng của Viện kiểm sát: công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Những thảo luận gần đây tiếp tục đặt ra đối với việc đổi mới thiết chế Viện kiểm sát liên quan đến các vấn đề như chuyển từ mô hình Viện kiểm sát thành Viện Công tố, xây dựng Viện kiểm sát theo khu vực; sự ảnh hưởng của Viện kiểm sát trong hoạt động xét xử của tòa án thông qua chức năng kiểm sát tư pháp... Ngày 28 tháng 11 năm 2013, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là Hiến pháp sửa đổi mới gồm 11 chương, 120 điều. Có thể nói Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2013 (sau đây gọi tắt là Hiến pháp năm 2013) đã kết tinh 1
  6. được trí tuệ, ý chí, nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân, thể hiện được ý Đảng, lòng dân và sự đồng thuận của cả hệ thống chính trị. Trong Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2013, chế định Viện kiểm sát nhân dân được ghi nhận tại Chương VIII (cùng với Tòa án nhân dân) gồm 3 điều (Điều 107, 108, 109), quy định về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, hệ thống tổ chức, nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, sự giám sát của các cơ quan dân cử đối với hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Các quy định về Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp năm 2013 là cơ sở pháp lý mang tính nền tảng cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Quy định về Viện kiểm sát nhân dân đảm bảo phù hợp với chủ trương của Đảng đã được nêu trong Cương lĩnh, các văn kiện khác của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI và các Nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật trong tình hình mới, bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp năm 2013 đã tiếp tục khẳng định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Hiến pháp làm rõ hơn nguyên tắc hoạt động của Kiểm sát viên khi thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; sửa đổi quy định về hệ thống tổ chức Viện kiểm sát cho phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp. Do đó, việc nghiên cứu tổng thể và có hệ thống về chế định Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp 2013 hiện nay có ý nghĩa cả về phương diện lý luận và phương diện thực tiễn, qua đó có cái nhìn toàn diện về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức hoạt động của Viện kiểm sát nhân trong hệ thống các cơ quan Nhà nước, làm cơ sở cho việc sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Chính vì 2
  7. vậy tôi đã chọn đề tài: “Chế định Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm gần đây đã có một số công trình khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ, Luận văn thạc sĩ, sách chuyên khảo nghiên cứu về hệ thống tư pháp Việt Nam có liên quan đến Viện kiểm sát nhân dân như Đề tài khoa học cấp Bộ "Nghiên cứu những cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của Viện Công tố ở Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp" năm 2006, "Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của tòa án trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân" năm 2006; Luận văn Thạc sĩ luật học: "Viện kiểm sát nhân dân trong điều kiện cải cách tư pháp", của Phạm Thị Đào, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011, Luận án Phó tiến sỹ Luật học: “Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam” của Khuất Văn Nga, năm 1993; sách chuyên khảo: "Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam", của GS.TSKH. Đào Trí Úc, Nxb Tư pháp, 2006; "Một số vấn đề về Hiến pháp và bộ máy nhà nước", của GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, Nxb Giao thông vận tải, 2002; "Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay", của tập thể các tác giả do GS.TS. Đào Trí Úc chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, 2002; “Cơ quan công tố một số nước: Pháp, Đức, Anh, Mỹ, Úc, Nga, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Indonesia, Thái Lan” của TS. Lê Hữu Thể... Bên cạnh đó còn có các bài viết liên quan đến chế định Viện kiểm sát nhân dân cũng như những nội dung đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân được đăng trên các tạp chí như: "Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền", của TSKH Lê Cảm, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 4, 2002; "Yêu cầu của việc 3
  8. xây dựng Nhà nước pháp quyền đối với đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp", của Nguyễn Mạnh Cường, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10, 2002; "Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp", của Phạm Hồng Hải, Tạp chí Kiểm sát, số 14, 2007; Tạp chí kiểm sát số 13 (tháng 7/2012) số chuyên đề: tổng kết thi hành và nghiên cứu và đề xuất sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992… Các công trình khoa học, những bài viết đã nghiên cứu, đánh giá về những khía cạnh khác nhau trong chế định Viện kiểm sát nhân dân, tuy nhiên đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, sâu sắc về chế định Viện kiểm sát nhân dân trong trong các bản Hiến pháp cũng như các vấn đề đặt ra trong việc sửa đổi Hiến pháp 2013 về chế định Viện kiểm sát nhân dân. Do vậy đề tài “Chế định Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp Việt Nam" không trùng lặp với bất kỳ đề tài khoa học, luận văn, luận án nào. Mặc dù vậy, các công trình khoa học, các bài viết trên đây là những tài liệu tham khảo có giá trị để nghiên cứu và hoàn thiện đề tài luận văn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ chế định Viện kiểm sát trong các bản Hiến pháp Việt Nam từ các quy định Hiến pháp đến tổ chức thực thi Hiến pháp. Đồng thời luận văn cũng đi sâu đánh giá những quan điểm, đề xuất và những vấn đề đặt ra trong quá trình sửa đổi Hiến pháp 2013. 3.2. Nhiệm vụ Để thực hiện mục tiêu nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau: - Thứ nhất: làm rõ lịch sử hình thành và phát triển của Viện kiểm sát nhân dân qua các Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 có tham chiếu với quy 4
  9. định về Viện kiểm sát trong Hiến pháp ở một số nước trên thế giới, từ đó có sự đánh giá toàn diện và lịch sử về vị trí hiến định của Viện kiểm sát nhân dân trong các bản Hiến pháp này, làm cơ sở đối chiếu, so sánh. - Thứ hai: luận văn làm rõ về những quy định của Hiến pháp về vị trí, chức năng nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân được quy định cụ thể trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, đồng thời đánh giá thực trạng về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát hiện nay - Thứ ba: trên cơ sở lý luận, thực tiễn thực thi các quy định của Hiến pháp về Viện kiểm sát nhân dân, luận văn đánh giá các quan điểm, đề xuất và những vấn đề đặt ra trong quá trình sửa đổi Hiến pháp 2013. 4. Phạm vi nghiên cứu. Chế định Viện kiểm sát nhân dân là một vấn đề rất rộng và liên quan đến nhiều lĩnh vực. Do vậy phạm vi nghiên cứu của luận văn được giới hạn là những quy định về Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp được cụ thể trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, có sự so sánh, đánh giá với các bản Hiến pháp trong lịch sử quy định về cơ quan Viện kiểm sát cũng như Hiến pháp của một số nước trên thế giới từ đó có những quan điểm nhằm hoàn thiện các quy định về Viện kiểm sát 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin với phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu về chế định Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp Việt Nam. Ngoài ra, các lý luận liên quan đến chế định Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn trước đây đã được tổng hợp, đúc kết sẽ được sử dụng làm tài liệu cho việc nghiên cứu đề tài cùng với vận dụng kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đến vị trí, chức năng, tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát cũng như các những quan điểm trong việc sửa đổi chế định Viện kiểm sát nhân dân 5
  10. trong Hiến pháp đã được nêu trong các bài viết, hội thảo khoa học để làm sâu sắc thêm các luận điểm. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp lịch sử; phương pháp so sánh, đối chiếu, logic, bình luận... 6. Những đóng góp mới của luận văn - Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống và luận cứ khoa học về vị trí, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn… của Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp Việt Nam - Khái quát quá trình hình thành, phát triển của Viện kiểm sát nhân dân trong các bản Hiến pháp Việt Nam và mô hình Viện kiểm sát của một số nước trên thế giới để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm nhằm vận dụng trong việc đổi mới Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp, đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. - Trên cơ sở tổng hợp số liệu qua nhiều nguồn xác thực, luận văn đánh giá đúng thực trạng về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo quy định của Hiến pháp 1992 đến nay. - Phân tích các quan điểm, đề xuất hoàn thiện Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001) và những điểm mới của Hiến pháp 2013 về Viện kiểm sát. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn được nghiên cứu trong quá trình Hiến pháp năm 2013 đang được triển khai thực hiện trong cuộc sống. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ vị trí hiến định của Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp Việt Nam, nhằm nâng cao nhận thức về vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong Bộ máy nhà nước; về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống các cơ quan nhà nước. Qua phân tích cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng của Viện kiểm sát 6
  11. hiện nay, luận văn khẳng định tính tất yếu của chủ trương cải cách tư pháp hiện nay của Đảng, đóng góp những đề xuất cho việc hoàn thiện chế định Viện kiểm sát trong Hiến pháp hiện nay. Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên cao học và những người quan tâm trong việc nghiên cứu chế định Viện kiểm sát nhân dân trong bối cảnh Hiến pháp năm 1992 vừa mới được sửa đổi, bổ sung. 8. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn gồm 03 chương được kết cấu như sau: Chương 1. Sự hình thành và phát triển của Viện kiểm sát nhân dân. Chương 2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của Hiến pháp 1992 Chương 3. Những quan điểm, đề xuất hoàn thiện các quy định của Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001) và những điểm mới của Hiến pháp 2013 về Viện kiểm sát nhân dân. 7
  12. Chương 1 SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 1.1. Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước kiểu mới, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta là quyền lực nhà nước là thống nhất và tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, do nhân dân bầu ra đó là Quốc hội với vị trí là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Tuy nhiên Quốc hội không nắm giữ toàn bộ quyền lực đó mà quyền lực nhà nước có sự phân công, phân nhiệm và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Điều này được ghi nhận cụ thể trong tất cả các Hiến pháp của nước ta. Cụ thể tại Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2013) quy định: 1. Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. 3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp [42, Điều 2] 8
  13. Xuất phát từ bản chất và đặc điểm cơ bản nhất của nhà nước ta, phải đảm bảo nguyên tắc tập trung thống nhất quyền lực, kết hợp với nguyên tắc tập trung dân chủ để phân công, phân nhiệm cho từng cơ quan trong bộ máy nhà nước nhằm đảm bảo tính tập trung nhưng vẫn phát huy tính tự chủ để thực hiện tốt quyền lực của nhân dân. Về nguyên tắc, Quốc hội thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, Tòa án thực hiện quyền tư pháp; ngoài ra còn có các thiết chế độc lập khác cũng góp phần tạo nên hệ thống bộ máy nhà nước. Lập pháp, hành pháp và tư pháp là ba phạm vi quyền lực thống nhất trong nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Viện kiểm sát nhân dân là một bộ phận quan trọng trong bộ máy nhà nước ta, tổ chức và hoạt động cũng chi phối bởi các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Viện kiểm sát nhân dân là một trong bốn hệ thống cơ quan do Quốc hội bầu ra, là một thiết chế đặc thù trong tổ chức bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Kể từ khi thành lập đến nay, Viện kiểm sát nhân dân luôn khẳng định được vị trí của mình trong bộ máy nhà nước ta. Ngay từ những ngày đầu thành lập nước đến Hiến pháp năm 1959, mặc dù tổ chức của Viện kiểm sát vẫn tồn tại trong hệ thống tòa án nên chưa hình thành một hệ thống Viện kiểm sát nhân dân độc lập như ngày nay, song về hoạt động luôn thể hiện tính độc lập. Sau khi hệ thống Viện công tố chuyển thành hệ thống Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp năm 1959 đến nay, vị trí của Viện kiểm sát nhân dân không hề thay đổi và luôn khẳng định vị trí độc lập trong bộ máy nhà nước, thống nhất từ trung ương đến địa phương. Tính thống nhất của nó được thể hiện ở chỗ: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trưởng các Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. 9
  14. Tính đ ộc lâ ̣p của nó thể hiện ở chỗ Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao người đứng đầ u hệ thố ng thố ng nhấ t đó chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quố c hội ; trong thời gian Quố c hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban Th ường vụ Quố c hội và Chủ tịch nước. Chế độ báo cáo công tác của các Viện trưởng các Viện kiểm sát khác do luật định. Theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân hiện hành thì ở các địa phương, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân và trả lời chấ t vấ n của đại biể u Hội đồng nhân dân . Với vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước thì Viện kiểm sát là một trong những cơ quan thể hiện trực tiếp bản chất của Nhà nước ta, là một bộ phận quan trọng và không thể thiếu trong bộ máy Nhà nước. Về chức năng của Viện kiểm sát: Hiến pháp quy định Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. - Chức năng thực hành quyền công tố: Trên thế giới, “quyền công tố” đã xuất hiện từ thời kỳ xa xưa của xã hội loài người. Quyền công tố là một khái niệm pháp lý gắn liền với bản chất của Nhà nước, là một bộ phận cấu thành và không thể tách rời khỏi công quyền. Quyền công tố có trong tất cả các kiểu Nhà nước; nó ra đời, tồn tại và mất đi cùng với Nhà nước và pháp luật. Khi mới có Nhà nước, quyền công tố chỉ giới hạn trong phạm vi rất hẹp để bảo vệ các lợi ích của giai cấp thống trị. Cùng với sự phát triển của xã hội, nhận thức về lợi ích công và lợi ích tư, về trách nhiệm của Nhà nước đối với xã hội và cá nhân ngày càng có những thay đổi: Lợi ích cá nhân liên quan đến lợi ích công, tác động qua lại với nhau; chính vì vậy, cần có sự can thiệp của Nhà nước vào đời sống của cá nhân. Từ đó, vai trò công tố càng được đề cao trong xã hội. Tại Việt Nam, khoa học Luật tố tụng hình sự nói riêng cũng như khoa 10
  15. học pháp lý nói chung, chế định “quyền công tố” chưa được nghiên cứu một cách toàn diện; chính vì vậy, chưa có khái niệm chính thống về quyền công tố. Mặc dù vậy, quyền công tố là một quyền năng quan trọng đã được Viện công tố thực hiện ở nước ta từ năm 1945; từ 1960 đến nay do Viện kiểm sát nhân dân thực hiện. Theo từ điển tiếng Việt, công tố có nghĩa là “điều tra, truy tố và buộc tội kẻ phạm pháp trước Toà án” [53, tr.204]. Từ điển luật học lại ghi: Công tố "là quyền của Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội" [3, tr.188]. Thuật ngữ "quyền công tố" lần đầu tiên được ghi nhận tại Hiến pháp năm 1980; sau đó tại Hiến pháp năm 1992, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1998, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân các năm 1981 năm 1992, năm 2002 và Pháp lệnh kiểm sát viên năm 2002... Hiện nay chưa có văn bản pháp luật nào của Nhà nước giải thích chính thức nội dung quyền công tố. Có nhiều quan điểm khác nhau về nội dung, lĩnh vực cũng như phạm vi chủ thể tham gia thực hành quyền công tố. Nhưng về nội dung và phạm vi thực hành quyền công tố (những yếu tố cấu thành quyền công tố) là những yếu tố không thể thay đổi ở bất kỳ quốc gia nào. Có thể hiểu: Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này thuộc về Nhà nước, được Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta là cơ quan Viện kiểm sát) để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Để làm được điều này, cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó quyết định truy tố bị can ra trước Toà án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên toà [46]. Về khái niệm thực hành quyền công tố hiện nay cũng có nhiều quan 11
  16. điểm khác nhau, chẳng hạn: Có quan điểm đã đồng nhất quyền công tố với thực hành quyền công tố trên các phương diện về đối tượng, nội dung, phạm vi. Quan điểm khác lại gắn việc thực hành quyền công tố với việc thực hiện những nhiệm vụ khác của Công tố viên trong tố tụng hình sự. Có quan điểm mở rộng phạm vi quyền công tố được thực hiện trong một giai đoạn tố tụng hình sự bao gồm cả điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Từ điển Luật học giải thích: "Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử". Trên cơ sở các quan niệm khác nhau về thực hành quyền công tố nêu trên, theo tôi, để làm rõ hơn khái niệm thực hành quyền công tố cần xuất phát từ những quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố mà pháp luật đã trao cho Viện kiểm sát; quyền năng pháp lý này được thực hiện trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử đối với người phạm tội. Pháp luật quy định một loạt những nhiệm vụ, quyền hạn nhằm xác lập cho Viện kiểm sát các quyền năng pháp lý cần thiết để thực hiện chức năng của mình trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử kẻ phạm tội, như khởi tố vụ án, bị can; yêu cầu điều tra hoặc trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra; áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn; giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra; quyết định truy tố bị can; đọc cáo trạng; luận tội đối với bị cáo; tranh luận với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác; kiểm sát xét xử; kháng nghị… [40, Điều 13-19]. Việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân như nêu trên nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với kẻ phạm tội gọi là thực hành quyền công tố. Vậy, Thực hành quyền công tố là việc cơ quan nhà nước thẩm quyền 12
  17. tiến hành các hoạt động do Nhà nước quy định nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm. Điều 112 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn kiểm sát điều tra, cụ thể: 1. Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can theo quy định của Bộ luật này; 2. Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra; khi xét thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật này; 3. Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo quy định của Bộ luật này; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự; 4. Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra theo quy định của Bộ luật này. Trong trường hợp không phê chuẩn thì trong quyết định không phê chuẩn phải nêu rõ lý do; 5. Huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can; 6. Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.[41, Điều 112] Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử, Viện kiểm sát có nhiệm vụ và quyền hạn như: đọc cáo trạng, tham gia xét hỏi tại phiên tòa, thực hiện việc luận tội đối với bị cáo, tranh luận với bị cáo, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa... 13
  18. - Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp: Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp là một vấn đề được quan tâm nghiên cứu, tranh luận trong suốt quá trình lập Hiến và lập pháp cũng như trong quá trình đổi mới cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nước ta trong thời gian qua. Chức năng này là một chức năng riêng có chỉ của Viện kiểm sát và đây là chức năng thể hiện rõ nhất bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa [30]. Thuật ngữ “kiểm sát hoạt động tư pháp” được xuất hiện trong Văn kiện của Đảng như Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết số 08 ngày 02/1/2001 của Bộ Chính trị và đặc biệt được quy định tại Điều 107 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002. Tuy nhiên nhà lập pháp nước ta chưa đưa ra một định nghĩa pháp lý duy nhất nên đã dẫn tới nhiều quan điểm nhận nước khác nhau về khái niệm này Quan điểm thứ nhất hiểu kiểm sát hoạt động tư pháp chỉ bao gồm kiểm sát các hoạt động tố tụng như điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Quan điểm thứ hai hiểu kiểm sát hoạt động tư pháp bao gồm kiểm sát các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử (cả các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính) và phần “tư pháp” trong thi hành án. Mỗi quan điểm trên đều có những lập luận đúng của mình về khái niệm “kiểm sát hoạt động tư pháp”. Tuy nhiên, theo quan điểm của tôi trước hết cần phải khẳng định kiểm sát hoạt động tư pháp là chức năng hiến định của Viện kiểm sát. Kiểm sát hoạt động tư pháp là một dạng giám sát nhà nước về tư pháp, là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, khác với hoạt động giám sát của Nhà nước nói chung về tư pháp, kiểm sát hoạt động tư pháp là sự kiểm sát trực tiếp các hoạt động cụ thể của các cơ quan tư pháp trong quá trình tố tụng với mục đích nhằm đảm bảo cho pháp luật được áp dụng nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình giải quyết các vụ án. 14
  19. Chức năng công tố và chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc tiến hành kiểm sát hoạt động tư pháp, bảo đảm cho công việc điều tra, thu thập tài liệu, chứng cứ về vụ án hình sự, xét xử vụ án một cách khách quan đúng pháp luật cũng là một điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động buộc tội. Nội dung của chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp bao gồm: Kiểm sát việc thu thập và xử lý thông tin, tin báo và tố giác hành vi phạm tội; Kiểm sát khởi tố vụ án hình sự, kiểm sát khởi tố bị can; Kiểm sát hoạt động điều tra và xét xử; Kiểm sát giam giữ, cải tạo; Kiểm sát thi hành án Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát khác với giám sát hoạt động tư pháp của Quốc hội và giám sát thực hiện quyền lực Nhà nước của các cơ quan khác. Sự khác nhau trước hết thể hiện ở chủ thể thực hiện sự kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp. Bản thân Viện kiểm sát được giao nhiệm vụ kiểm sát hoạt động tư pháp nhưng việc kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát cũng chịu sự giám sát của Quốc hội. Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát vừa mang tính đối trọng vừa mang tính phối hợp. Mục đích kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhằm ngăn ngừa những vi phạm pháp luật từ phía các cơ quan tư pháp khác và nếu phát hiện vi phạm pháp luật thì yêu cầu khắc phục hoặc cùng với cơ quan cơ hành vi vi phạm khắc phục hậu quả, khắc phục lại trạng thái bình thường các quan hệ xã hội đó bị xâm hại. Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát được thực hiện ngay trong quá trình giải quyết vụ án hoặc “tranh chấp” trong khi sự giám sát hoạt động tư pháp của Quốc hội không được tiến hành trong thời điểm đó (Cơ quan lập pháp không được can thiệp vào hoạt động xét xử từng vụ án cụ thể). Với tư cách là cơ quan lập pháp, Quốc hội thực hiện sự giám sát đối với một hoặc một số hoạt động cụ thể của các cơ quan tư pháp. Ví dụ, giám sát đối với công tác giam giữ, cải tạo; giám sát đối với hoạt động thi 15
  20. hành án hay một phần công việc của thi hành án là giảm án, tha tù…). Công tác giám sát hoạt động tư pháp của Quốc hội nhân danh cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, không mang tính phối hợp cũng không mang tính đối trọng như kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát. Công tác này là một bộ phận hợp thành, một khâu cuối cùng của chu trình quản lý Nhà nước. Mục đích của việc giám sát trên đây để kiểm tra tính đúng đắn của chính sách, đường lối và đề ra định hướng, hoàn thiện chính sách, đường lối liên quan tới hoạt động của các cơ quan tư pháp. Nghiên cứu, tổng kết quá trình hình thành và phát triển của cơ quan công tố, cơ quan kiểm sát nước ta trên 60 năm qua cho thấy, trước năm 1960, cơ quan công tố không chỉ thực hành quyền công tố mà còn thực hiện giám sát đối với các hoạt động tư pháp và không chỉ thực hiện chức năng, nhiệm vụ trên lĩnh vực hình sự, mà cả trên các lĩnh vực dân sự, thi hành án, giam giữ, cải tạo… Từ năm 1960 đến năm 2002, qua nhiều lần tiến hành đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhằm không ngừng nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả, pháp luật luôn quy định Viện kiểm sát có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố. Qua tổng kết 04 năm triển khai Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và sơ kết 03 năm thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị thấy rằng, kết quả hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát đã có những chuyển biến mạnh mẽ, tích cực, với chất lượng, hiệu quả ngày càng được nâng cao hơn. Trên cơ sở chức năng của Viện kiểm sát nhân dân như trên đã phân tích, Điều 126 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 quy định chung vai trò của Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân đó là: 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2