intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Chức năng công tố của Viện kiểm sát

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:108

29
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở nghiên cứu chức năng để làm rõ vai trò của VKS trong thực hiện chức năng công tố cả về mặt lý luận và thực tiễn. Từ đó làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về chức năng công tố, đồng thời xác định thực trạng thực hiện chức năng, tìm nguyên nhân, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động công tố đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Chức năng công tố của Viện kiểm sát

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LẠI VĂN THÁI CHỨC NĂNG CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2013 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LẠI VĂN THÁI CHỨC NĂNG CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí HÀ NỘI - 2013 2
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG CÔNG TỐ CỦA VIỆN 7 KIỂM SÁT 1.1. Quyền công tố trong tố tụng hình sự 7 1.1.1. Sự xuất hiện quyền công tố 7 1.1.2. Khái niệm quyền công tố 11 1.1.3. Đối tượng, nội dung và phạm vi quyền công tố 18 1.2. Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự 19 1.2.1. Khái niệm thực hành quyền công tố 19 1.2.2. Phạm vi và nội dung thực hành quyền công tố 22 1.3. Chức năng công tố trong một số mô hình tố tụng hình sự 25 tiêu biểu trên thế giới 1.3.1. Mô hình tố tụng tranh tụng 25 1.3.2. Mô hình tố tụng thẩm vấn 29 1.3.3. Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam 30 Chương 2: CHỨC NĂNG CÔNG TỐ TRONG PHÁP LUẬT TỐ 32 TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 2.1. Chức năng công tố trước khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 32 2003 ra đời 3
  4. 2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960 32 2.1.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến trước khi Bộ luật Tố tụng hình 33 sự năm 2003 ra đời 2.2. Chức năng công tố theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 34 2.2.1. Viện kiểm sát là cơ quan thực hành quyền công tố ở Việt Nam 34 2.2.2. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát việc 35 tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự 2.2.3. Nội dung thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong 37 giai đoạn điều tra vụ án hình sự 2.2.3. Nội dung thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong 52 giai đoạn xét xử vụ án hình sự Chương 3: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CÔNG TỐ Ở VIỆT 71 NAM VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ 3.1. Thực trạng hoạt động công tố ở Việt Nam 71 3.1.1. Thực trạng thực hiện quyền công tố ở Việt Nam trong giai 71 đoạn điều tra vụ án hình sự 3.1.2. Thực trạng thực hiện quyền công tố ở Việt Nam trong giai 80 đoạn xét xử vụ án hình sự 3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động công tố ở 84 Việt Nam 3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật 84 3.2.2 Đổi mới nội dung và phương pháp thực hành quyền công tố 88 trong tố tụng hình sự 3.2.2.1. Nâng cao chất lượng khởi tố vụ án hình sự, thực hiện có 88 hiệu quả các biện pháp thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự 3.2.2.2. Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố tại phiên tòa 89 3.2.2.3. Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo điều hành trong việc tổ 89 chức thực hiện quyền công tố 4
  5. 3.2.2.4. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, 90 mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát với các ngành hữu quan trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm 3.2.3. Giải pháp về công tác cán bộ của Viện kiểm sát 91 3.2.3.1. Nâng cao trình độ năng lực, trách nhiệm nghề nghiệp và số 91 lượng Kiểm sát viên 3.2.3.2. Tăng cường sự lãnh đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của 93 lãnh đạo Viện kiểm sát cấp trên đối với các Viện kiểm sát cấp dưới KẾT LUẬN 94 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95 5
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao 6
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 3.1 Kết quả hoạt động điều tra, truy tố trong 6 năm (2007-2012) 82 3.2 Số liệu thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra những 86 vụ án đình chỉ, tạm đình chỉ và trả hồ sơ điều tra bổ sung 3.3 Kết quả kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm 6 năm (2007-2012) 89 7
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cải cách tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp trong đó có Viện kiểm sát (VKS) là một đòi hỏi cấp bách của Đảng, Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: "Viện kiểm sát nhân dân tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp" [10]. Yêu cầu trên đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) năm 2002, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003. Yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình hiện nay đòi hỏi phải nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Trong đó việc tăng cường chất lượng công tố của VKS nhằm chống bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, là một nội dung quan trọng được thể hiện trong nhiều nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp. Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị "Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới" đã chỉ rõ: Chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với nhu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội; vi phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và với các cơ quan tư pháp [11]. Cụ thể về công tố, Nghị quyết 08/NQ-TW đã có ý kiến chỉ đạo: Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội… Nâng cao chất lượng công 8
  9. tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác… [11]. Ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48/NQ-TW "Về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020", trong đó có nội dung: "Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo hướng bảo đảm thực hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Nghiên cứu hướng tới chuyển thành Viện công tố" [12]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục ghi nhận các nội dung: Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; hoàn thiện hệ thống pháp luật; xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh; đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm; thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra… Trong những năm vừa qua, quá trình thực hiện đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ trong việc trừng trị tội phạm, bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế, Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 "Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" đã chỉ ra: Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế. Chính sách hình sự, chế định pháp luật dân sự và pháp luật về tổ chức tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử. Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ quan tư pháp còn thiếu thốn, lạc hậu [13]. 9
  10. Những năm qua, Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung và ban hành nhiều văn bản pháp luật như: Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi), Luật tổ chức VKSND năm 2002, BLTTHS năm 2003 nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và VKS nói riêng. Các văn bản trên có nhiều quy định mới liên quan đến chức năng công tố của VKS. Vì vậy, cần nghiên cứu, làm rõ các quy định của pháp luật góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của VKS riêng cũng như của các cơ quan tư pháp nói chung. Trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay, để góp phần bảo đảm VKS thực hiện tốt chức năng công tố, việc tiếp tục nghiên cứu, làm rõ cả về mặt lý luận và thực tiễn quyền công tố trong tố tụng hình sự là vấn đề bức xúc và cần thiết. Đây cũng là lý do tôi lựa chọn đề tài "Chức năng công tố của Viện kiểm sát" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề quyền công tố và thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự đã được một số sách, báo, công trình nghiên cứu đề cập. Một số tác giả đã có những nghiên cứu, bài viết về vấn đề này: Tiến sĩ khoa học Lê Cảm có bài Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố (nhìn nhận từ góc độ nhà nước pháp quyền) (tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2001; Lê Thị Tuyết Hoa: Quyền công tố ở Việt Nam, (Luận án tiến sĩ luật học), Hà Nội, 2002; Tiến sĩ Trần Văn Độ có bài Một số vấn đề về quyền công tố; một số bài viết của các tác giả khác trong tập kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, Hà Nội, 1999… Một số luận văn thạc sĩ luật học đã được công bố tại Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội: Quyền công tố trong tố tụng hình sự tranh tụng và việc vận dụng vào điều kiện Việt Nam, của Lý Văn Chính (năm 2004); Quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, của Lang Văn Bảo (năm 2005); Tranh 10
  11. tụng tại phiên tòa một số vấn đề lý luận và thực tiễn, của Nguyễn Mạnh Tiến (năm 2005); Phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân đối với các quyết định của Cơ quan điều tra trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, của Đào Thị Diệp (năm 2008). Những luận văn, đề tài, công trình nghiên cứu trên về tổ chức và hoạt động của VKS nói chung, đồng thời đề cập đến các vấn đề liên quan đến quyền công tố. Từ khi BLTTHS 2003 có hiệu lực đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập toàn diện, đầy đủ về chức năng công tố của VKS; ngoài ra việc thực hiện các quy định về chức năng công tố có những nơi, địa bàn còn có nhận thức, áp dụng chưa thống nhất. Chính vì vậy việc tiếp tục nghiên cứu về chức năng công tố của VKS là vấn đề có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài * Mục đích của đề tài: Trên cơ sở nghiên cứu chức năng để làm rõ vai trò của VKS trong thực hiện chức năng công tố cả về mặt lý luận và thực tiễn. Từ đó làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về chức năng công tố, đồng thời xác định thực trạng thực hiện chức năng, tìm nguyên nhân, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động công tố đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. * Nhiệm vụ của đề tài - Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố trong tố tụng hình sự. - Nghiên cứu việc thực hiện chức năng công tố trong một số mô hình tố tụng hình sự tiêu biểu trên thế giới. - Nghiên cứu về chức năng công tố theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. 11
  12. - Nghiên cứu thực trạng thực hành quyền công tố ở nước ta trong những năm gần đây, tìm ra những nguyên nhân của những kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ chuyên ngành luật hình sự, luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận về quyền công tố và thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, thực trạng thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự những năm gần đây ở Việt Nam. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp, cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về Nhà nước và pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự và triết học, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự Việt Nam và nước ngoài. - Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận cụ thể để làm sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn đề tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu như: lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê; nghiên cứu hồ sơ vụ án, báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC). Ngoài ra, tác giả cũng tiếp thu có chọn lọc kết quả của của các công trình đã công bố; các đánh giá, tổng kết của cơ quan chuyên môn và các chuyên gia về những vấn đề có liên quan đến tổ chức và hoạt động của VKSND. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về mặt lý luận: Kết quả luận văn có ý nghĩa nhất định về mặt khoa học góp phần xây dựng một cái nhìn toàn diện về chức năng công tố của VKS, đồng thời thấy được trách nhiệm cũng như vai trò của VKS trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm hiện nay. 12
  13. Về thực tiễn: Luận văn sẽ là tài liệu có giá trị, có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập trong các cơ sở đào tạo, trong hoạt động nghiệp vụ của Kiểm sát viên và lãnh đạo VKS. Những đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp các luận cứ khoa học, làm cơ sở cho việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tổ chức, hoạt động trong cơ quan VKS. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận về chức năng công tố của Viện kiểm sát. Chương 2: Chức năng công tố trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Chương 3: Thực trạng hoạt động công tố ở Việt Nam và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả. 13
  14. Chương 1 LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT 1.1. QUYỀN CÔNG TỐ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1.1. Sự xuất hiện quyền công tố Công tố là hiện tượng xã hội xuất hiện khá sớm trong lịch sử nhân loại, nó gắn liền với các nhà nước trong các chế độ chính trị - xã hội và ngày càng phát triển. Trong nhà nước pháp quyền "công tố", "quyền công tố" và "thực hành quyền công tố" là những phạm trù đi liền với chức năng nhà nước trong quá trình quản lý xã hội, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Đồng thời, quyền công tố cũng được xem xét trong mối quan hệ với phạm trù bảo đảm quyền con người, nên nó là vấn đề khá "nhạy cảm" nếu không giải quyết tốt mối quan hệ này. Là hiện tượng trong cơ cấu thực hiện quyền lực nhà nước nhưng quan niệm về sự xuất hiện quyền công tố cũng như nội hàm của hiện tượng này có nhiều quan điểm khác nhau dựa trên những lập luận và cơ sở triết học cũng như thực tiễn khác nhau. Sự đa dạng của các quan điểm về sự ra đời của quyền công tố giúp chúng ta xem xét nó ở trên nhiều bình diện để có sự nhìn nhận, đánh giá khoa học nhất. Chúng tôi, khái quát những quan điểm tương đối về sự ra đời của quyền công tố trong lịch sử, cụ thể là: Thứ nhất, quan điểm cho rằng, quyền công tố gắn liền với sự phát triển của khoa học pháp lý, khi mà các khái niệm dân chủ và quyền con người được đề cao, đòi hỏi cần phải có một cơ quan thay mặt nhà nước đứng ra bảo vệ quyền bị xét xử bởi các cơ quan tư pháp [39, tr. 11]. Như vậy, quan điểm này đã thể hiện một nội dung quan trọng là quyền công tố không phải xuất hiện cùng với sự xuất hiện của nhà nước trong lịch sử xã hội loài mà chỉ xuất hiện khi nhà nước đó phát triển ở mức độ tương đối cao, khi mà "các khái 14
  15. niệm dân chủ và quyền con người được đề cao". Với lập luận này quyền công tố chỉ xuất hiện trong nhà nước có tính chất pháp quyền. Thứ hai, quan điểm coi quyền công tố là một quyền độc lập, chỉ có trong xã hội dân chủ, nhằm bảo vệ quyền của các chủ thể quan hệ pháp luật khi tham gia quá trình tố tụng tại phiên tòa và thực hiện các quyền theo quy định của pháp luật (có thể nằm trong cơ cấu của Tối cao pháp viện). Cơ quan công tố là "mối dây liên lạc giữa các cơ quan công quyền với quần chúng, giữa các cơ quan công quyền với nhau nhằm phục vụ lợi ích của các bên theo quy định của pháp luật". Đại diện cho trường phái này là E.Hermann và tập thể tác giả trong cuốn "Quyền công tố trong cơ cấu hành chính - chính trị". Các tác giả nhấn mạnh quyền công tố là một loại quyền năng mà khi có sự phân chia triệt để ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thì phải có một loại cơ quan đặc biệt để thực hiện quyền tư pháp nhưng "chống" lại quyền xét xử để nhằm bảo vệ các đạo luật, bảo vệ Chính phủ và các thể nhân bị Tòa án xét xử. Đó là quyền công tố [39, tr. 12]. Thứ ba, quan điểm cho rằng, đến cuối thể kỷ XIII đầu thế kỷ XIV (thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến), với việc tách các cơ quan Tòa án ra khỏi hệ thống các cơ quan hành pháp, cùng với sự phát triển của hệ thống pháp luật thì lịch sử công tố mới xuất hiện. Tuy không xuất hiện cùng với Nhà nước nhưng lịch sử quyền công tố gắn liền với quá trình phát triển của Nhà nước và phân chia quyền lực nhà nước, gắn liền với sự phát triển và văn minh của pháp luật. Trước đó việc xét xử do các quan chức hành chính kiêm nhiệm và là người đại diện cho Vua để xét xử, chứ không phải đại diện cho công quyền. Những người theo quan điểm này cho rằng, quyền công tố là quyền đại diện cho nhà nước, đại diện công quyền để đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật thống trị ra cơ quan xét xử (ra Tòa án), do đó quyền công tố không thể xuất hiện cùng với nhà nước mà chỉ xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Tòa án với tư cách là cơ quan xét xử chuyên nghiệp và độc lập [39, tr. 13]. 15
  16. Thứ tư, quan điểm cho rằng, quyền công tố là một khái niệm pháp lý, gắn liền với bản chất của nhà nước và xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước và pháp luật. Quyền công tố tồn tại trong tất cả các kiểu nhà nước, từ nhà nước chủ nô đến các nhà nước đại diện [39, tr. 14]. Quan điểm này, khá cởi mở và coi quyền công tố như một đặc tính vốn có của nhà nước như dân cư, lãnh thổ... Như vậy, đa số các quan điểm (thứ nhất, thứ hai, thứ ba) đều có cơ sở chung là khẳng định quyền công tố chỉ xuất hiện khi có nhà nước pháp quyền, và gắn việc xuất hiện quyền công tố với vấn đề dân chủ. Theo đó, quyền công tố là kết quả trực tiếp và tất yếu của quá trình vận động xã hội ở thời điểm xuất hiện dân chủ với nghĩa là một thể chế. Những quan điểm thuộc loại này đã phản ánh một thực tại là việc phân công rành mạch chức năng của các cơ quan nhà nước chỉ gắn liền với nhà nước dân chủ, nhà nước pháp quyền. Nghiên cứu lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới cho thấy các cơ quan chuyên trách thực hiện quyền công tố xuất hiện khá muộn, gắn liền với cuộc đấu tranh chống lại nhà nước chuyên chế, phi dân chủ, thực hiện sự phân chia quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước. Song không phải vì thế mà đồng nhất sự ra đời của cơ quan chuyên trách thực hiện quyền công tố (là một bộ phận thuộc cơ cấu quyền lực nhà nước) với sự ra đời của quyền công tố (là một khái niệm pháp lý). Từ những phân tích trên, quan điểm thứ tư là có cơ sở hơn cả. Quyền công tố luôn luôn gắn liền với bản chất của nhà nước, là một bộ phận cấu thành và không thể tách rời của công quyền. Với quan điểm coi quyền công tố là quyền nhân danh nhà nước (nhân danh công quyền) thực hiện việc buộc tội đối với những người đã thực hiện hành vi phạm tội (theo quan điểm của giai cấp thống trị xã hội), chúng tôi cho rằng khi nhà nước xuất hiện thì cùng đồng thời xuất hiện quyền công tố. Nhà nước nào cùng ban hành pháp luật để quản lý xã hội (nói chính xác hơn là để điều chỉnh các quan hệ xã hội, giữ cho các quan hệ xã hội được thực hiện theo ý muốn, theo khuôn mẫu tư tưởng của 16
  17. giới thống trị xã hội). Đồng thời nhà nước chỉ xuất hiện và tồn tại khi xuất hiện và tồn tại những mâu thuẫn đối kháng (mang tính giai cấp) không thể điều hòa được. Điều đó có nghĩa là trong bất kỳ một xã hội nào (khi đã xuất hiện nhà nước), bên cạnh lực lượng thống trị xã hội luôn luôn tồn tại một (hoặc nhiều) lực lượng (bị thống trị) có thái độ, có hành động thù địch chống lại lực lượng thống trị xã hội (nắm quyền lực nhà nước), biểu hiện cụ thể ở những hành vi vi phạm pháp luật (chống lại ý chí của giai cấp thống trị) đến mức nguy hiểm (đe dọa đến quyền thống trị nhà nước) cần phải bị trừng trị. Muốn trừng trị kẻ vi phạm thì phải buộc được tội của họ. Quyền nhân danh nhà nước (nhân danh công quyền) thực hiện sự buộc tội này chính là quyền công tố. Tuy nhiên việc tổ chức thực hiện quyền công tố, nội dung quyền công tố, và phạm vi thực hành quyền này được quy định rất khác nhau ở mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ lịch sử, tùy thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Ngay trong một nhà nước cụ thể với một chế độ chính trị xác định, ở mỗi giai đoạn phát triển của nó cũng có thể có những thay đổi nhất định trong việc tổ chức và xác định phạm vi thực hiện quyền công tố. Thời kỳ đầu khi nhà nước mới ra đời, trong điều kiện bộ máy nhà nước còn đơn giản và hệ thống pháp luật mới được hình thành quyền công tố chỉ được sử dụng trong một phạm vi hẹp để bảo vệ các lợi ích công, như các lợi ích của nhà nước (của giai cấp thống trị) và lợi ích của cả cộng đồng. Do đó chức năng nhà nước chưa được phân định rõ ràng giữa các cơ quan nhà nước, quyền công tố có thể do một cơ quan, thậm chí một quan chức nhà nước duy nhất thực hiện từ đầu đến cuối. Ví dụ, trong nhà nước chủ nô hoặc phong kiến, việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thông thường chỉ do một quan án đảm nhiệm. Càng về sau cùng với sự phát triển, hoàn thiện của bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật, việc phân định chức năng nhà nước giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước ngày càng cụ thể, rõ ràng hơn theo hướng chuyên môn hóa. Mặt khác nhận thức xã hội về lợi ích công, lợi ích tư, về trách nhiệm của 17
  18. nhà nước đối với xã hội và cá nhân đã có sự thay đổi đáng kể. Dần dần, nhà nước (giai cấp thống trị) nhận thức một cách đầy đủ và rõ ràng rằng, trong nhiều trường hợp khi có lợi ích cá nhân bị xâm phạm thì lợi ích công (như trật tự công cộng, an ninh xã hội...) cũng bị xâm hại hoặc bị đe dọa. Bởi vậy, cần thiết phải có sự can thiệp của nhà nước để bảo vệ lợi ích cá nhân khi chúng bị xâm phạm. Chính vì lẽ đó, vai trò của công tố ngày càng được đề cao, trong khi vai trò của tư tố ngày càng mờ nhạt dần trong hoạt động tố tụng hình sự. Quyền công tố có liên hệ chặt chẽ với pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự, trong đó quy định cụ thể các loại hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm. Bất kỳ giai cấp thống trị nào khi lên nắm quyền lực nhà nước đều hết sức quan tâm đến lĩnh vực pháp luật hình sự, bởi chính pháp luật hình sự là phương tiện cai trị hữu hiệu nhất. Khi một hành vi bị coi là tội phạm được thực hiện sẽ làm phát sinh một loại quan hệ pháp luật giữa một bên là nhà nước và bên kia là người phạm tội. Trong quan hệ này nhà nước là chủ thể sử dụng quyền lực nhà nước (quyền lực công) để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, còn người phạm tội là chủ thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự và gánh chịu các chế tài do pháp luật hình sự quy định và áp dụng. Quyền lực nhà nước trong lĩnh vực hình sự gắn liền với sự buộc tội nhân danh nhà nước (nhân danh công quyền) và chỉ phát sinh khi có hành vi phạm tội xảy ra. Sự buộc tội nhân danh công quyền đó được gọi là quyền công tố. Từ những phân tích trên, chúng tôi cho rằng "quyền công tố là một khái niệm pháp lý gắn liền với bản chất của nhà nước. Nó xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước và pháp luật, tồn tại khi có nhà nước và mất đi khi không còn nhà nước" [39, tr. 17]. 1.1.2. Khái niệm quyền công tố Thuật ngữ "công tố" là một thuật ngữ Hán-Việt, theo cuốn từ điển Tiếng Việt của Trung tâm từ điển học do GS. Hoàng Phê chủ biên, công tố có 18
  19. nghĩa là "điều tra, truy tố và buộc tội kẻ phạm pháp trước Tòa án" [59], như vậy về mặt ngôn ngữ tiếng Việt, công tố được hiểu là việc nhân danh nhà nước để buộc tội một người bị tình nghi là phạm tội. Hiến pháp năm 1980 là văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nước ta đưa ra thuật ngữ "thực hành quyền công tố" khi đề cập đến chức năng của VKSND (Điều 138). Thuật ngữ này được nhắc lại ở Điều 1 và Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 1981. Như vậy, trong các hoạt động của VKSND, bên cạnh khái niệm truyền thống "kiểm sát việc tuân theo pháp luật" đã xuất hiện khái niệm "quyền công tố" và "thực hành quyền công tố". Trong thời gian vừa qua đã có rất nhiều tài liệu, bài viết trên các tạp chí khoa học đề cập đến khái niệm này, song đến thời điểm này chúng ta vẫn chưa đạt được sự thống nhất cao trong nhận thức về vấn đề này. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một văn bản chính thức nào của Nhà nước ta (từ Ủy ban Thường vụ Quốc hội đến VKSNDTC) chính thức giải thích nội dung quyền công tố. Hiện nay, ở nước ta vẫn tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố, tựu chung lại có những quan điểm về nội hàm của quyền công tố, có thể kể đến các quan điểm tiêu biểu sau: a) Đồng nhất khái niệm quyền công tố với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND (trước khi Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001). Có thể thấy quan điểm này xuất phát từ chức năng của VKSND để xem xét quyền công tố. Quan điểm này cho rằng tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật đều là thực hành quyền công tố. Điều đó có nghĩa là ngay cả khi VKS kiến nghị yêu cầu các cơ quan nhà nước sửa chữa những vi phạm pháp luật của mình trên các lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội (một thời chúng ta gọi là kiểm sát chung) cũng là thực hành quyền công tố. Theo quan điểm này, công tố không phải là một chức năng độc lập của VKS, mà chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật [45, tr.85-87]. Có thể nói đây là quan điểm phổ biến, đặc biệt là trong ngành kiểm sát từ năm 1960 cho đến khi Luật tổ chức VKSND năm 2002 ra đời. Những người theo quan điểm này lập luận trên cơ sở nội dung 19
  20. các điều luật được quy định trong Luật tổ chức VKSND năm 1981, 1992. Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 1992 quy định VKSND thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố bằng 6 mặt công tác: đó là công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trên các lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội; công tác kiểm sát điều tra; công tác kiểm sát xét xử; công tác kiểm sát giam, giữ và cải tạo; công tác kiểm sát thi hành án và công tác điều tra tội phạm. Việc Hiến pháp năm 1992 đã bỏ đi chức năng kiểm sát chung của VKS nhưng chức năng công tố vẫn giữ lại cho thấy quan điểm đồng nhất quyền công tố với chức năng kiểm sát chung là không có cơ sở. Chức năng trọng yếu của VKS là công tố nên không thể quan niệm quyền công tố chỉ là một quyền năng, một hình tức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự; b) Quyền công tố là quyền đại diện cho nhà nước để đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật ra cơ quan xét xử để bảo vệ lợi ích của nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật. Những người theo quan điểm này cho rằng, quyền công tố xuất hiện từ khi có nhà nước và pháp luật, được thể hiện đầu tiên trong lĩnh vực hình sự, tố tụng hình sự, cùng với sự phát triển của xã hội, của các ngành luật, quyền công tố được mở rộng sang lĩnh vực dân sự, tố tụng dân sự và ngày nay tiếp tục mở rộng sang các lĩnh vực tố tụng tư pháp khác. Theo quan điểm này, trong khoa học pháp lý xã hội chủ nghĩa, khái niệm quyền công tố được xác định trên cơ sở các khái niệm công tố nhà nước, công tố xã hội và tư tố. Quyền công tố là quyền của nhà nước xã hội chủ nghĩa giao cho VKSND thực hiện theo luật định. Nội dung quyền công tố là tổng hợp các biện pháp pháp lý đặc trưng theo luật định mà VKS có trách nhiệm thực hiện trong hoạt động tố tụng tư pháp. Quyền công tố là một nội dung hoạt động thực hiện chức năng của VKS trong lĩnh vực tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và các lĩnh vực tư pháp khác nhằm bảo đảm mọi hành vi vi pháp pháp luật, hành vi phạm tội đều được phát hiện, điều tra, xử lý theo pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, tăng cường pháp chế thống nhất. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2