Luận văn Thạc sĩ Luật học: Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hải Phòng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
lượt xem 5
download
Mục đích của việc nghiên cứu là làm rõ một số vấn đề lý luận và những đòi hỏi, vướng mắc trong thực tiễn của công tác THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của VKSNDTP Hải Phòng theo các quy định của BLTTHS năm 2003, từ đó có những kiến nghị đề xuất nhằm nâng cao chất lượng của công tác này.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hải Phòng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI Công trình được hoàn thành tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội KHOA LUẬT PHẠM HỒNG QUÂN Người hướng dẫn khoa học: TS.GVC. Nguyễn Ngọc Chí CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA VIỆN KIỂM SÁT Phản biện 1: Nguyễn Văn Tuân TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Phản biện 2: Trịnh Tiến Việt Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 2012. TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Có thể tìm hiểu luận văn tại Trung tâm tư liệu - Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội Trung tâm tư liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội HÀ NỘI - 2012 1 2
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM HỒNG QUÂN CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hµ néi - 2012 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM HỒNG QUÂN CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 luận văn thạc sĩ luật học Người hướng dẫn khoa học: TS. GVC Nguyễn Ngọc Chí Hµ néi - 2012 2
- Lời cam đoan Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Phạm Hồng Quân 3
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG, NHIỆM 6 VỤ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Chức năng của viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra các vụ 6 án hình sự 1.1.1. Khái niệm chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra 6 1.1.2. Nội dung chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra 8 1.2. Nhiệm vụ của viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra các vụ án 20 hình sự 1.2.1. Các nhiệm vụ của chức năng thực hành quyền công tố trong 20 giai đoạn điều tra các vụ án hình sự 1.2.2. Các nhiệm vụ của chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật 24 trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự 1.3. Chức năng, nhiệm vụ của viện kiểm sát từ năm 1945 đến 28 trước năm 2003 1.3.1. Từ năm 1945 đến năm 1960 28 1.3.2. Từ năm 1960 đến năm 1980 29 1.3.3. Từ năm 1980 đến năm 1992 30 4
- 1.3.4. Từ năm 1992 đến trước năm 2003 30 1.4. So sánh với chức năng, nhiệm vụ của viện kiểm sát Trung Quốc 31 Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG 34 GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 2.1. Đặc điểm tình hình có liên quan đến hoạt động thực hiện chức 34 năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự 2.1.1. Vị trí địa lý 34 2.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội 34 2.1.3. Tình hình tội phạm 36 2.2. Thực trạng thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát 38 nhân dân thành phố Hải Phòng trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự 2.2.1. Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng 38 2.2.2. Đối với các hoạt động nghiệp vụ 39 2.3. Những tồn tại trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ 68 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng 2.3.1. Những tồn tại 68 2.3.2. Nguyên nhân 73 Chương 3: NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT, GIẢI PHÁP NÂNG CAO 76 CHẤT LƢỢNG THỰC HIỆN CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ 3.1. Các cơ sở của cải cách tư pháp đối với chức năng và nhiệm vụ 76 của viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự 3.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội và tội phạm trên địa bàn thành phố 76 Hải Phòng trong thời gian tới 5
- 3.1.2. Những yêu cầu của cải cách tư pháp trong thời gian tới 80 3.2. Một số kiến nghị, giải pháp 82 3.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật 82 3.2.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, 95 kiểm sát điều tra các vụ án hình sự trong thời gian tới KẾT LUẬN 109 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 110 PHỤ LỤC 116 6
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BCA : Bộ Công an BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng ĐTV : Điều tra viên HĐND : Hội đồng nhân dân KSĐT : Kiểm sát hoạt động điều tra KSHĐTP : Kiểm sát các hoạt động tư pháp KSV : Kiểm sát viên THQCT : Thực hành quyền công tố VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao VKSNDTP : Viện kiểm sát nhân dân thành phố XHCN : Xã hội chủ nghĩa 7
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu Theo quy định của Điều 137 Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001), Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) có hai chức năng thực hành quyền công tố (THQCT) và kiểm sát hoạt động tư pháp (KSHĐTP). Trước những đòi hỏi của công cuộc đổi mới đất nước và cải cách tư pháp, Đảng và Nhà nước luôn đặt ra những yêu cầu mới trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND). Điều này được thể hiện rõ trong các Nghị quyết của Đảng. Nghị quyết số 08 NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã đặt ra yêu cầu đối với VKSND các cấp là: Viện kiểm sát nhân dân các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ... [8]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" xác định: "....tăng cường nhiệm vụ của công tố trong hoạt động điều tra..." [10]. Tiếp theo đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ IX của Ban Chấp hành Trung ương khóa X ngày 05/01/2009 về việc tiếp tục thực hiện có hiệu quả cải cách tư pháp đã khẳng định: "…Bảo đảm có điều kiện cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra…". Điều này cho thấy, hoạt động THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn điều tra các vụ án hình 8
- sự của VKSND không ngừng được nâng cao về chất lượng, đổi mới về nội dung, phương pháp, cách thức thực hiện nhằm tạo ra những chuyển biến mới về chất của công tác này. Theo quy định của Điều 137 Hiến pháp sửa đổi năm 2001, Điều 13 - 14 Luật tổ chức VKSND năm 2002 và Điều 112 - 113 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) hiện hành thì trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự VKSND có chức năng, nhiệm vụ cụ thể là: khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra (CQĐT) khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; kiểm sát việc khởi tố; kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của CQĐT; đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra; trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật; yêu cầu thủ trưởng CQĐT thay đổi Điều tra viên (ĐTV) theo quy định của pháp luật; nếu hành vi của ĐTV có dấu hiệu của tội phạm thì khởi tố về hình sự; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác, phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của CQĐT theo quy định của pháp luật; hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của CQĐT; Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng; giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra theo quy định của pháp luật; yêu cầu CQĐT khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra; yêu cầu thủ trưởng CQĐT xử lý nghiêm minh ĐTV đã vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra; kiến nghị với cơ quan, tổ chức và đơn vị hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật. Trong phạm vi, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, VKSND đã góp phần hạn chế, khắc phục các vi phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT), người tiến hành tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, quyền và lợi ích của Nhà nước, các tổ chức xã hội khác... Qua đó, đã góp phần không nhỏ vào hoạt động đấu tranh, phòng, chống tội phạm và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN). 9
- Thực hiện các Nghị quyết của Đảng và Luật tổ chức VKSND năm 2002, thời gian qua Viện kiểm sát nhân dân thành phố (VKSNDTP) Hải Phòng trong công tác THQCT và KSHĐTP ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự đã có nhiều cố gắng, từng bước khắc phục khó khăn nâng cao chất lượng công tác. Tuy nhiên, qua tổng kết hoạt động của VKSNDTP Hải Phòng cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, đã ảnh hưởng đến hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa bàn thành phố Hải Phòng. Trong việc giải quyết một số vụ án hình sự cụ thể ở giai đoạn điều tra có tình trạng Kiểm sát viên (KSV) được phân công THQCT và KSĐT các vụ án hình sự đã không nhận thức và thực hiện đúng, đầy đủ quyền hạn trách nhiệm của mình như: không tiến hành kiểm sát điều tra (KSĐT từ đầu), kiểm sát kết thúc điều tra, thụ động và phụ thuộc vào kết quả điều tra của CQĐT, không kịp thời phát hiện các vi phạm của CQĐT trong hoạt động khởi tố, điều tra vụ án hình sự, chưa đề ra được các yêu cầu điều tra sát thực nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong việc điều tra vụ án, dẫn đến tình trạng Tòa án trả hồ sơ cho VKS (Viện kiểm sát), VKS trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hoặc để lọt tội phạm vẫn còn xảy ra. Chính vì vậy, trên phương diện là học viên cao học em chọn đề tài: "Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hải Phòng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" làm luận văn nghiên cứu nhằm góp phần tìm ra các giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác này, đáp ứng với yêu cầu của cải cách tư pháp trên địa bàn thành phố Hải Phòng. 2. Tình hình nghiên cứu Có rất nhiều tác giả quan tâm đến vấn đề này đã viết bài như: Kỹ năng THQCT và kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự - Nguyễn Văn Huyên; THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn điều tra - Lê Hữu Thể; Một số nghiên cứu về vai trò của VKSND trong giai đoạn điều tra, truy tố, quyền công tố và THQCT tại địa bàn tỉnh Thái Nguyên - Khoa luật trường Đại học Quốc gia Hà Nội; Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền công tố của 10
- VKSND trong tố tụng hình sự... Tại VKSNDTP Hải Phòng cũng đã có một số chuyên đề nghiên cứu về vấn đề này như: chuyên đề án đình chỉ điều tra, chuyên đề giải pháp nâng cao chất lượng bản cáo trạng, chuyên đề công tác THQCT và KSĐT các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hải Phòng năm 2008... Các công trình nghiên cứu của các tác giả mới đề cập nhiều ở mặt lý luận và giới hạn ở một số khía cạnh của từng nội dung công tác THQCT và KSHĐTP chưa đề cập nhiều đến thực trạng của hoạt động này tại Hải Phòng. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu luận văn tập trung làm sáng tỏ những chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong các quy định của pháp luật hiện hành và thông qua thực tiễn áp dụng, thực hiện hoạt động THQCT và KSHĐTP trên địa bàn thành phố Hải Phòng để tổng hợp, phân tích, đánh giá đúng thực trạng hoạt động THQCT và KSHĐTP của VKSNDTP Hải Phòng trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự, từ năm 2006 đến năm 2011. Trên cơ sở đó, đề ra những đề xuất, kiến nghị, giải pháp để nâng cao chất lượng thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nói chung và VKSNDTP Hải Phòng nói riêng. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn Nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của VKSND nói chung và VKSNDTP Hải Phòng nói riêng trong thời gian tới. - Mục đích của việc nghiên cứu là làm rõ một số vấn đề lý luận và những đòi hỏi, vướng mắc trong thực tiễn của công tác THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của VKSNDTP Hải Phòng theo các quy định của BLTTHS năm 2003, từ đó có những kiến nghị đề xuất nhằm nâng cao chất lượng của công tác này. - Từ mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ cụ thể như: Nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự theo quy định của pháp luật hiện hành. 11
- Tổng kết, đánh giá thực tiễn hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án hình sự của VKSNDTP Hải Phòng từ năm 2006 đến năm 2011. Xây dựng các giải pháp để khắc phục những hạn chế và nâng cao chất lượng của công tác THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của luận văn gồm: lý luận về chức năng nhiệm vụ của VKSND trong quá trình THQCT và KSHĐTP ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo quy định của BLTTHS năm 2003 và hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSNDTP Hải Phòng từ năm 2006 đến năm 2011. - Luận văn xác định nghiên cứu hoạt động THQCT và KSHĐTP của VKSNDTP Hải Phòng, không đề cập đến hoạt động của VKS quân sự. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Nhà nước pháp luật của Hồ Chí Minh làm nền tảng cho quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn. - Các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như: thu thập số liệu, thông tin; thống kê, tổng hợp, phân tích, đánh giá, so sánh... 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự. Chương 2: Thực trạng hoạt động của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra tại thành phố Hải Phòng. Chương 3: Những kiến nghị, đề xuất, giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. 12
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1.1. Khái niệm chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra Thuật ngữ "chức năng" theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học định nghĩa là hoạt động, tác dụng bình thường hoặc đặc trưng của một cơ quan, một hệ cơ quan nào đó trong cơ thể" [69]. "Chức năng của Cơ quan nhà nước là hoạt động chủ yếu, thường xuyên, có tính ổn định tương đối của riêng cơ quan đó nhằm thực hiện chức năng chung của cả bộ máy nhà nước" [18]. Trong Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan VKSND là một mắt xích quan trọng. Trong đó, nhà nước giao cho VKS hai chức năng cơ bản là THQCT và KSHĐTP. Theo Điều 137 Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) quy định: "Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất" [31] và Điều 23 BLTTHS quy định: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội [33]. Như vậy, VKS là cơ quan thay mặt Nhà nước truy tố người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử và là cơ quan giám sát của Nhà nước trong quá trình giải quyết vụ án hình sự từ giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. 13
- Trong tố tụng hình sự Việt Nam chưa có khái niệm quy định thế nào là "giai đoạn tố tụng". Theo GS.TSKH Lê Cảm: Giai đoạn tố tụng hình sự là những bước của quá trình tố tụng hình sự, tương ứng với chức năng nhất định trong hoạt động tư pháp hình sự của từng loại chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc để giải quyết vụ án hình sự một cách công minh và khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ vững chắc các quyền hợp pháp của công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự [3]. Trên cơ sở các quy định của BLTTHS Việt Nam thì quá trình tố tụng của nước ta trải qua các giai đoạn: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Điều tra là hoạt động có mục đích khám phá sự thật khách quan phục vụ nhu cầu của con người. Trong lĩnh vực phòng, chống tội phạm, điều tra là hoạt động khám phá, phát hiện tội phạm. Điều tra là giai đoạn thứ 2 của quá trình tố tụng, trong đó, CQĐT căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và dưới sự kiểm sát của VKS tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm thu thập và củng cố chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết của vụ án, phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, cũng như người có lỗi trong việc bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra và trên cơ sở đó quyết định: đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ điều tra, chuyển toàn bộ tài liệu chứng cứ cho VKS đề nghị truy tố người phạm tội theo tội danh nhất định được quy định trong Bộ luật hình sự (BLHS). Chức năng của VKS trong giai đoạn điều tra là tổng thể những biện pháp mà VKS áp dụng để chứng minh việc thực hiện tội phạm, xác định rõ nguyên nhân, điều kiện thực hiện hành vi phạm tội, động cơ, mục đích của tội phạm, lỗi của chủ thể cũng như nhân thân người phạm tội, hậu quả của tội phạm, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm, tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội gây ra. Chức năng này là một phần của quyền công tố. 14
- Phạm vi thực hiện chức năng nhiệm vụ của VKS trong giai đoạn điều tra bắt đầu từ khi CQĐT hoặc cơ quan khác có thẩm quyền điều tra ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi CQĐT ban hành bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án. 1.1.2. Nội dung chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra 1.1.2.1. Thực hành quyền công tố Theo TS. Lê Hữu Thể: Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội, hay nói cách khác là quyền nhân danh quyền lực công thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này là quyền của Nhà nước, Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta từ năm 1960 đến nay là cơ quan Viện kiểm sát). Để làm được điều này, cơ quan công tố phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó quyết định việc truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa [38]. Quyền công tố là quyền truy cứu trách nhiệm hình sự nhân danh công quyền đối với người phạm tội nên đối tượng của quyền công tố chỉ là tội phạm và người phạm tội. Với quan niệm như trên về quyền công tố và đối tượng của quyền công tố, theo ý kiến của em nội dung của quyền công tố là sự buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi tội phạm. Hiện nay trong giới luật học của nước ta có nhiều quan điểm về phạm vi quyền công tố. Quan điểm thứ nhất cho rằng: Quyền công tố của VKS được tiến hành tại Tòa án thể hiện bằng quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án thông qua Cáo trạng, bằng việc đọc Cáo trạng tại phiên tòa, bằng lời buộc tội của KSV khi tranh luận và đề nghị kết tội với mức và loại hình phạt nhất định. Do vậy, việc điều tra vụ án được giao cho CQĐT là độc lập không liên quan đến chức năng của VKS. 15
- Quan điểm thứ hai cho rằng: Quyền công tố của VKS không chỉ ở giai đoạn xét xử mà ngay từ giai đoạn điều tra. Hoạt động điều tra vụ án hình sự được thực hiện bởi CQĐT bằng các quyết định tố tụng. Các quyết định này có thể bị VKS thay đổi hoặc hủy bỏ nếu không đúng quy định của pháp luật. Do vậy hoạt động điều tra của CQĐT là những việc làm giúp VKS thực hiện chức năng công tố. Với quan niệm quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, phạm vi của quyền này bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án đã có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị. Để bảo đảm thực hiện quyền công tố trong thực tế đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, Nhà nước đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, trong đó quy định các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố. Các quyền năng pháp lý đó Nhà nước giao cho VKS thực hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Thực tiễn hoạt động giải quyết án hình sự ở nước ta 50 năm qua cho thấy, CQĐT và Tòa án các cấp cũng khởi tố vụ án hình sự, thậm chí số vụ án do các CQĐT thực hiện việc khởi tố chiếm tới khoảng hơn 95%. Số vụ án VKS khởi tố và yêu cầu khởi tố chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ so với tổng số vụ án mà CQĐT khởi tố. Tuy nhiên phải thấy rằng xét đến cùng VKS là cơ quan có vai trò quyết định trong việc khởi tố. CQĐT có quyền bắt người phạm tội, điều tra thu thập chứng cứ v.v... Nhưng đây thực chất chỉ là những hoạt động hỗ trợ, phục vụ cho hoạt động công tố. Trên cơ sở kết quả điều tra, lời luận tội của KSV và kết quả tranh tụng dân chủ tại phiên tòa, Tòa án áp dụng pháp luật quy kết trách nhiệm đối với bị cáo. Bản án kết tội của Tòa án cũng là sự chấp nhận lời buộc tội của VKS đối với người phạm tội. Từ những nội dung trình bày trên, có thể hiểu THQCT là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn 16
- điều tra, truy tố và xét xử. Theo đó, THQCT trong các giai đoạn điều tra là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong giai đoạn này. Từ định nghĩa này, có thể rút ra kết luận về một số đặc điểm của hoạt động thực hành quyền công tố như sau: Thứ nhất, THQCT do VKS thực hiện, vì vậy nó mang tính quyền lực nhà nước và có tính mục đích: Bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội; việc điều tra phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác. Thứ hai, THQCT là những hoạt động phát động công tố, đó là khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Khởi tố vụ án là việc Nhà nước chính thức công khai trước toàn xã hội có tội phạm xảy ra và bắt đầu triển khai hoạt động thực hành quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đã thực hiện tội phạm đó. Còn khởi tố bị can là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền chính thức tuyên bố về mặt pháp lý một người nào đó có dấu hiệu phạm tội và đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Khi quyền công tố đã được khởi động, đòi hỏi CQĐT phải tiến hành điều tra để làm rõ có tội phạm xảy ra hay không? Nếu có, ai là người phạm tội, phạm tội gì, mức độ phạm tội ?... Thứ ba, trong giai đoạn điều tra vụ án, VKS THQCT với những nội dung cơ bản sau đây: - Yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can. - Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra. - Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra. 17
- - Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác. - Phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của CQĐT. - Hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của CQĐT - Quyết định việc truy tố bị can - Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra. - Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Một vấn đề rất quan trọng bắt buộc phải làm rõ khi nói về hoạt động THQCT, đó là phạm vi và nội dung THQCT. Theo em, phạm vi THQCT bắt đầu từ khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị, hoặc vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Trong giai đoạn điều tra, phạm vi THQCT bắt đầu từ khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm xảy ra đến khi kết thúc việc điều tra, VKS ra quyết định truy tố hoặc đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Việc xác định đúng khái niệm, đặc điểm, phạm vi của hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là căn cứ, cơ sở để phân biệt với hoạt động KSHĐTP trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự và các hoạt động thực hiện chức năng khác nhằm thực hiện đúng thẩm quyền trong quá trình điều tra vụ án hình sự, từ đó nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác. 1.1.2.2. Kiểm sát hoạt động tư pháp Trong khoa học pháp lý đang tồn tại nhiều quan điểm khác nhau xung quanh khái niệm hoạt động tư pháp: Thứ nhất, hoạt động tư pháp là hoạt động của các cơ quan: điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức liên quan hoặc bổ trợ cho công tác xét xử của Tòa án. Tòa án sử dụng công khai các kết quả hoạt động điều tra, truy tố, bào chữa, giám định tư pháp, áp dụng các thủ tục 18
- tư pháp theo luật định để nhân danh Nhà nước đưa ra phán quyết cuối cùng thể hiện quyền lực nhà nước. Thứ hai, có bốn dạng hoạt động tư pháp tương ứng với bốn chức năng của quyền tư pháp. Một là, thực hiện thẩm quyền giải thích các quy phạm pháp luật mà trước hết là giải thích Hiến pháp. Hai là, thực hiện thẩm quyền xét xử bằng hoạt động tố tụng tư pháp. Ba là, thực hiện thẩm quyền giám sát của Tòa án đối với tính hợp pháp và có căn cứ của việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước có tính chất tố tụng, tức là thực hiện sự kiểm tra của Tòa án trong việc áp dụng các chế tài về hành chính, tố tụng hình sự và hình sự của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Bốn là, thực hiện thẩm quyền xác nhận chính thức các sự kiện thông qua các hành vi cụ thể có ý nghĩa pháp lý trong các lĩnh vực của đời sống xã hội hoặc hạn chế quyền chủ thể tương ứng của các công dân trong quá trình giải quyết các mối quan hệ xã hội. Thứ ba, hoạt động tư pháp là hoạt động của các cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia vào việc giải quyết các tranh chấp pháp lý, các vi phạm pháp luật thuộc thẩm quyền phán quyết của Tòa án và thi hành các phán quyết đó theo thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định. Từ góc độ chủ thể, hoạt động tư pháp là hoạt động của các CQTHTT (các cơ quan tư pháp), các cơ quan thực hiện một số nhiệm vụ tố tụng, các cơ quan bổ trợ tư pháp (giám định tư pháp, công chứng tư pháp, luật sư). Thứ tư, hoạt động tư pháp phải do cơ quan tư pháp tiến hành. Tuy nhiên, không phải tất cả các hoạt động của cơ quan tư pháp đều được gọi là hoạt động tư pháp. Xuất phát từ nghĩa rộng của khái niệm tư pháp, có thể hiểu hoạt động tư pháp là các hoạt động liên quan tới quá trình giải quyết các tranh chấp bao gồm các hoạt động điều tra, thu thập tài liệu, chứng cứ về tranh chấp; hoạt động khởi kiện, khởi tố, truy tố; hoặc xét xử và thi hành các phán quyết của Tòa án trong thực tiễn. Cũng như các cơ quan nhà nước khác, các cơ quan tư pháp cũng có nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau. Bên cạnh hoạt động tư pháp (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án) mỗi cơ quan tư 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 236 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 65 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn