Luận văn Thạc sĩ Luật học: Chức năng, nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Hải Phòng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
lượt xem 9
download
Luận văn nhằm mục đích làm rõ những vấn đề lý luận, đánh giá những thành tựu đã đạt được, chỉ ra những vướng mắc và các yêu cầu của thực tiễn đối với công tác THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của VKSNDTP Hải Phòng, từ đó có những kiến nghị đề xuất nhằm nâng cao chất lượng công tác này trong thời gian tới trên địa bàn thành phố Hải Phòng. Đồng thời nhằm nâng cao uy tín, vị thế của ngành Kiểm sát nhân dân trong hệ thống các cơ quan tư pháp trong quá trình đấu tranh, phòng, chống tội phạm; bảo vệ quyền và tự do của con người.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Chức năng, nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Hải Phòng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI Công trình được hoàn thành tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ TUYẾT NHUNG Người hướng dẫn khoa học: TS.GVC. Nguyễn Ngọc Chí CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ Phản biện 1: Trịnh Quốc Toản CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI HẢI PHÒNG - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄn Phản biện 2: Nguyễn Văn Tuân Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 2012. TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Có thể tìm hiểu luận văn tại Trung tâm tư liệu - Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội HÀ NỘI - 2012 Trung tâm tư liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội 1 2
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG, NHIỆM 6 VỤ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Đặc điểm của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và vai 6 trò của Viện kiểm sát 1.1.1. Đặc điểm của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 6 1.1.2. Vai trò của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ 8 án hình sự 1.2. Khái niệm chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai 9 đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 1.2.1. Khái niệm chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét 9 xử sơ thẩm 1.2.2. Khái niệm nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử 15 sơ thẩm 1.3. Nội dung của chức năng, nhiệm vụ của viện kiểm sát trong 16 giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 1.3.1. Chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố 16 1.3.2. Chức năng, nhiệm vụ kiểm sát tuân theo pháp luật 31 1.4. Lịch sử hình thành chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát ở 36 Việt Nam 1.4.1. Quá trình phát triển 36 1.4.2. Cơ quan Viện kiểm sát ở một số nước trên thế giới 40 3
- Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA 44 VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 2.1. Thực trạng thực hiện chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát 44 nhân dân thành phố Hải Phòng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 2.1.1. Đặc điểm tình hình có liên quan đến hoạt động thực hiện 44 chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 2.1.2. Thực trạng thực hiện chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát 51 nhân dân thành phố Hải Phòng 2.2. Những tồn tại trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ 78 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng 2.2.1. Những tồn tại 78 2.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại 84 Chương 3: NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT, GIẢI PHÁP 87 3.1. Cơ sở của những kiến nghị, đề xuất đối với Viện kiểm sát khi 87 thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 3.1.1. Dự báo các yếu tố tác động đến công tác thực hành quyền 87 công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hải Phòng 3.1.2. Các định hướng thực hiện chức năng nhiệm vụ của Viện 92 kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 3.2. Các giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng thực hành quyền 96 công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 3.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật 96 3.2.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát 105 trong giai đoạn xét xử sơ thẩm KẾT LUẬN 119 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 120 4
- PHỤ LỤC 127 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BCA : Bộ Công an BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự CQCSĐT : Cơ quan cảnh sát điều tra CQĐT : Cơ quan điều tra CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng ĐTV Điều tra viên HĐND : Hội đồng nhân dân HĐXX : Hội đồng xét xử HTND : Hội thẩm nhân dân KSHĐTP : Kiểm sát hoạt động tư pháp KSV : Kiểm sát viên KSXX : Kiểm sát xét xử TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân Tối Cao THQCT : Thực hành quyền công tố TTLT : Thông tư liên tịch UBND : Ủy ban nhân dân UBTVQH : Ủy ban Thường vụ Quốc hội VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao VKSNDTP : Viện kiểm sát nhân dân thành phố 5
- VKSQSTW : Viện kiểm sát quân sự Trung ương XHCN : Xã hội chủ nghĩa 6
- Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n cha tõng ®îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n NguyÔn ThÞ TuyÕt Nhung 7
- 8
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu Cải cách tư pháp là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước hiện nay để tiến tới xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam. Chủ trương này đã được thể hiện cụ thể trong các Nghị quyết của Đảng. Theo Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/1/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã xác định: Viện kiểm sát nhân dân các cấp thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được tiến hành ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ. Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác... tổ chức sắp xếp lại các đơn vị Viện kiểm sát nhân dân các cấp để thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp... [8]. Và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ bên cạnh việc cải cách, sửa đổi hệ thống pháp luật của nước ta, cần phải: Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp. Trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án....Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp... [9]. 9
- Từ những quy định trên cho thấy Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm và chú trọng đến hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân. Để hoạt động xét xử của Tòa án được tiến hành có hiệu quả và đạt hiệu lực cao; đảm bảo việc xét xử khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thì VKS có vai trò rất quan trọng. Theo quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) năm 2002, trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, VKSND có chức năng, nhiệm vụ cụ thể là: kiểm sát hoạt động chấp hành pháp luật của Tòa án về thẩm quyền xét xử, thủ tục xét xử của Tòa án các cấp, việc chuyển vụ án; về thời hạn chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử của Tòa án, việc ra các quyết định của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử; việc áp dụng, thay đổi biện pháp ngăn chặn của Tòa án; kiểm sát việc chấp hành thủ tục tố tụng về thành phần Hội đồng xét xử (HĐXX) và những người tham gia phiên tòa; kiểm sát việc xét xử của tòa án, kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng, những người tham dự phiên tòa... kiểm sát việc tuyên án của HĐXX; sau kết thúc phiên tòa, Viện kiểm sát (VKS) còn kiểm tra biên bản phiên tòa, giám sát việc ra bản án của Tòa án để thực hiện việc kháng nghị phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm Tòa án đã tuyên. Bên cạnh chức năng Kiểm sát hoạt động tư pháp (KSHĐTP), VKS còn thực hiện chức năng công tố như: đọc cáo trạng, các quyết định rút truy tố (nếu có), tham gia xét hỏi cùng HĐXX để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án, luận tội đối với bị cáo, tranh tụng với người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Những năm gần đây, chất lượng thực hành quyền công tố (THQCT) và KSHĐTP của VKS đã được nâng lên: chất lượng cáo trạng, chất lượng luận tội, chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên (KSV) tại phiên tòa đã dần dần khắc phục được những hạn chế trước đây đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Thông qua chức năng THQCT và KSHĐTP, VKS đã góp phần giúp Tòa án tuyên những bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế đến mức thấp nhất việc oan sai, bỏ lọt tội phạm. Tuy nhiên, vẫn còn bộc lộ một số hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp đặc biệt là hoạt động tranh luận của KSV tại 10
- phiên tòa đã ảnh hưởng đến chất lượng THQCT của VKS trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử vẫn để xảy ra tình trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Việc thực hiện các quy định pháp luật hình sự và tố tụng hình sự chưa nghiêm, áp dụng pháp luật còn tùy tiện nên tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) vẫn xảy ra nhiều. Văn hóa pháp lí chưa đúng chuẩn mực, chưa đảm bảo quyền con người trong hoạt động xét xử... Việc nghiên cứu làm sáng tỏ các lý luận về chức năng, nhiệm vụ của VKS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là cần thiết trong lộ trình cải cách tư pháp hiện nay. Trên cơ sở thực tiễn áp dụng pháp luật để tìm ra những hạn chế, thiếu sót từ đó đề ra những phương hướng, giải pháp khắc phục để nâng cao chất lượng THQCT và Kiểm sát xét xử (KSXX) sơ thẩm các vụ án hình sự. Thông qua đó, giúp cho VKS ngày một nâng cao hơn nữa vị thế của mình trong hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật và trong hoạt động đấu tranh, phòng chống tội phạm bảo vệ quyền con người. Vì vậy, em chọn đề tài: "Chức năng, nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Hải Phòng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" làm luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu Bàn đến vấn đề này đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu, có nhiều bài viết liên quan đến hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKS trong giai đoạn xét xử nói chung và xét xử sơ thẩm nói riêng như: "Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự"- TS. Nguyễn Văn Huyên, Học viện tư pháp. Trong ngành kiểm sát cũng có một số chuyên đề nghiên cứu về vấn đề này: chuyên đề "Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự" của Vụ THQCT và KSXX án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC); và một số chuyên đề nghiên cứu về một số hoạt động của VKS trong giai đoạn xét xử: "Nâng hiệu quả công tác kiểm sát án hình sự, hạn chế thấp nhất việc Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội năm 2008" của VKSNDTC. Tại Hải Phòng cũng đã có một số chuyên đề liên quan đến hoạt động 11
- thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKS ở giai đoạn xét xử: Chuyên đề "Nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự ở Hải Phòng theo tinh thần Nghị quyết 49", chuyên đề: "Nâng cao chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm án hình sự", chuyên đề: "Phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp", chuyên đề "tổ chức các phiên tòa nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử của Kiểm sát viên"... Các chuyên đề này chủ yếu đề cập đến một trong những hoạt động thực tiễn thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND chưa mang tính khái quát, chuyên sâu về mặt lý luận. Trong phạm vi nghiên cứu, Luận văn tập trung làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về chức năng, nhiệm vụ của VKSND. Trên cơ sở thực tiễn của Viện kiểm sát nhân dân thành phố (VKSNDTP) Hải Phòng từ năm 2004 - 2011, Luận văn tiến hành phân tích, đánh giá việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSNDTP Hải Phòng tìm ra các hạn chế, thiếu sót từ đó đề xuất một số phương hướng, giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt động này trong thời gian tới. Qua đó, góp phần nâng cao uy tín, vị thế của ngành kiểm sát nhân dân trong hoạt động giữ gìn trật tự kỉ cương của pháp luật và bảo về quyền con người tại Hải Phòng. 3. Mục tiêu của luận văn Luận văn nhằm mục đích làm rõ những vấn đề lý luận, đánh giá những thành tựu đã đạt được, chỉ ra những vướng mắc và các yêu cầu của thực tiễn đối với công tác THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của VKSNDTP Hải Phòng, từ đó có những kiến nghị đề xuất nhằm nâng cao chất lượng công tác này trong thời gian tới trên địa bàn thành phố Hải Phòng. Đồng thời nhằm nâng cao uy tín, vị thế của ngành Kiểm sát nhân dân trong hệ thống các cơ quan tư pháp trong quá trình đấu tranh, phòng, chống tội phạm; bảo vệ quyền và tự do của con người. 4. Nhiệm vụ của luận văn Xuất phát từ mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ thể như sau: - Nghiên cứu làm sáng tỏ một số lý luận về chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 12
- - Tổng kết, phân tích, đánh giá, nhận xét thực tiễn thực hoạt động THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của VKSNDTP Hải Phòng từ năm 2004 - 2011. - Đề xuất các phương hướng, xây dựng các giải pháp để khắc phục những hạn chế của VKS trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình để nâng cao chất lượng của hoạt động này trong thời gian tới đồng thời cũng nhằm nâng cao vị thế của ngành kiểm sát trong hoạt động bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền và tự do của công dân. 5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn - Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo quy định của pháp luật hiện hành. Trên cơ sở đối chiếu với thực tiễn thực hiện chức năng THQCT và KSHĐTP của VKSNDTP Hải Phòng từ năm 2004 đến năm 2011. - Trong phạm vi nghiên cứu luận văn chỉ đề cập đến hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong giai đoạn xét xử sở thẩm vụ án hình sự, cụ thể là VKSNDTP Hải Phòng, không đề cập đến hoạt động của VKS quân sự. 6. Phương pháp tiếp cận vấn đề - Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật làm nền tảng cho quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn. - Các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như: thu thập số liệu, thông tin; thống kê, tổng hợp, phân tích, đánh giá, so sánh và dự báo tình hình.... 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục nội dung của luận văn được kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Chương 2: Thực tiễn thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng. Chương 3: Những kiến nghị, đề xuất, giải pháp. 13
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT 1.1.1. Đặc điểm của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Để đảm bảo cho việc phát hiện, xác định tội phạm và người phạm tội được chính xác, xử lý nghiêm minh, không để lọt tội phạm, làm oan người vô tội đồng thời bảo về các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, BLTTHS nước ta quy định trình tự thủ tục giải quyết vụ án hình sự trải qua các giai đoạn: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Theo GS.TSKH Lê Cảm: Giai đoạn tố tụng hình sự là những bước của quá trình tố tụng hình sự, tương ứng với chức năng nhất định trong hoạt động tư pháp hình sự của từng loại chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc để giải quyết vụ án hình sự một cách công minh và khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ vững chắc các quyền hợp pháp của công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự [2]. Mỗi giai đoạn tố tụng do những cơ quan tố tụng có thẩm quyền thực hiện. Các giai đoạn của hoạt động tố tụng độc lập với nhau nhưng lại có mối quan hệ khăng khít với nhau, giai đoạn trước là tiền đề cho giai đoạn sau tạo thành một hệ thống hoạt động thống nhất. Những giai đoạn này có những nhiệm vụ và định hướng khác nhau nhưng đều hướng tới một mục đích giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, đúng quy định của pháp luật. 14
- Xét xử là chức năng của Tòa án, Điều 72 Hiến pháp 1992 và Điều 9 BLTTHS quy định "Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" [34]. Kết quả xét xử của Tòa án là phán quyết cuối cùng đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Đây là cơ sở duy nhất để xác định một người có bị coi là có tội hay không. Do đó, xét xử là giai đoạn trung tâm và quan trọng trong việc tăng cường pháp chế và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bởi những lý do sau: Thứ nhất, các hoạt động điều tra thu thập chứng cứ của Cơ quan điều tra (CQĐT) trong giai đoạn điều tra nhằm mục đích chứng minh tội phạm và hành vi của người phạm tội phục vụ cho việc xét xử. Thông qua hồ sơ vụ án do CQĐT thiết lập, Tòa án kiểm tra tính xác thực của chứng cứ mà CQĐT thu thập được để từ đó đưa ra những phán quyết về tội phạm và người phạm tội. Tại phiên tòa, chứng cứ được đưa ra xem xét, đánh giá một cách chính thức và chỉ những chứng cứ nào được đưa ra xem xét tại phiên tòa mới được dùng làm căn cứ chứng minh tội phạm mới là cơ sở để HĐXX đưa ra các quyết định của mình. Vì vậy, hoạt động đánh giá chứng cứ, nhân danh Nhà nước ra bản án của HĐXX được xem là hoạt động điều tra chính thức tại phiên tòa. Thứ hai, quyết định truy tố của VKS chỉ là cơ sở để Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử còn việc phán quyết về sự việc phạm tội, hành vi của bị cáo thuộc chức năng của Tòa án. Theo quy định tại Điều 196 BLTTHS quy định: "Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố..." [34]. Vì vậy, có thể nói hoạt động truy tố của VKS hướng tới việc tạo căn cứ, giới hạn cho hoạt động xét xử của Tòa án. Thứ ba, bản án và quyết định của Tòa án là căn cứ pháp lý để tiến hành hoạt động thi hành án, biến việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội của các CQTHTT phát huy tác dụng trên thực tế. Thứ tư, theo nguyên nghĩa, quyền tư pháp gắn liền với hoạt xét xử của Tòa án, nên ở các nước trên thế giới như Hoa Kỳ, Pháp... coi Tòa án là cơ quan đại diện cho quyền tư pháp và hoạt động xét xử là giai đoạn trung tâm của tố tụng hình sự. 15
- Theo quy định tại Điều 20 BLTTHS quy định: "Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử" [34], trong đó xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đóng vai trò quan trọng, đây là giai đoạn đầu tiên của Tòa án có thẩm quyền tiến hành xét xử và tuyên một người có bị coi là có tội hay không. Các quyết định, phán quyết của Tóa án cấp sơ thẩm là những điều kiện, cơ sở để Tóa án cấp phúc thẩm xem xét lại bản án chưa có hiệu lực pháp luật hoặc là căn cứ để Tóa án cấp trên xét lại bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. 1.1.2. Vai trò của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Song hành với nhiệm vụ xét xử của tòa án là nhiệm vụ THQCT và KSXX vụ án hình sự của VKS. Với tư cách là CQTHTT, VKS có trách nhiệm phối hợp cùng Tòa án áp dụng nghiêm minh, thống nhất các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật hình sự để góp phần cùng Tòa án đưa ra bản án khách quan, toàn diện, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Đồng thời góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và bảo vệ pháp chế XHCN. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, VKS có những vai trò sau: - Bảo đảm cho việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội. Việc truy tố của VKS phải dựa trên cơ sở kết quả điều tra của CQĐT trong suốt quá trình điều tra và kết quả điều tra công khai tại phiên tòa của HĐXX. Từ đó, VKS đưa ra sự buộc tội chính thức và cuối cùng đối với người phạm tội. - Bảo đảm cho việc tranh tụng được bình đẳng, dân chủ, công khai. Trách nhiệm của VKS là phải đối đáp lại các ý kiến của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự công khai tại tòa. Khi tranh luận các bên có quyền và nghĩa vụ bình đẳng với nhau. Chỉ tranh luận những vấn đề liên quan đến vụ án. Những nội dung đưa ra tranh luận đều phải được đối đáp lại. - Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và những người tham gia tố tụng khác. BLTTHS quy định quyền và nghĩa vụ của từng tư cách tham gia tố 16
- tụng, trách nhiệm của VKS là bảo đảm cho các quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng được thực hiện đầy đủ. - Bảo đảm cho việc tuân thủ và áp dụng pháp luật thống nhất. Hiện nay, giữa lý luận và thực tiễn còn nhiều nhận thức khác nhau một số quy định pháp luật. Kể cả trong chính những người làm thực tiễn cũng có nhiều quan điểm, nhận thức khác nhau. Do đó, trách nhiệm của các CQTHTT nói chung và VKS nói riêng là rất quan trọng trong việc áp dụng thống nhất pháp luật. - Bảo đảm cho các bản án, quyết định của Tòa án được thực thi đúng quy định pháp luật. Nếu các bản án, phán quyết của Tòa án không được đưa ra thi hành thì cũng chỉ là các quyết định giấy. Việc thực hiện các quyết định đó như thế nào, trách nhiệm của từng cá nhân, cơ quan hữu quan đến đâu, phải được đặt dưới sự giám sát của cơ quan VKS. 1.2. KHÁI NIỆM CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ Vai trò của VKS được thể hiện cụ thể trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình đặc biệt trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. 1.2.1. Khái niệm chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm Đề cập đến "chức năng" của một cơ quan là nói đến những mặt, những phương diện hoạt động có tính chất cơ bản, tương đối ổn định. Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học năm 2001 thuật ngữ "chức năng" theo từ điển định nghĩa "là hoạt động, tác dụng bình thường hoặc đặc trưng của một cơ quan…" [90, tr. 191]. Theo từ điển Luật học và giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật của Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, định nghĩa: Chức năng của nhà nước là hoạt động nhà nước cơ bản nhất, mang tính thường xuyên, liên tục, ổn định tương đối, xuất phát từ bản chất, cơ sở kinh tế - xã hội, nhiệm vụ chiến lược, mục tiêu cơ bản của nhà nước và có ý nghĩa quyết định tới sự tồn tại và phát triển của nhà nước... Chức năng của Nhà nước là hoạt động chủ yếu của bộ máy nhà nước mà 17
- tất cả các cơ quan nhà nước đều tham gia thực hiện với mức độ, phạm vi nhất định xuất phát từ vị trí, vai trò, thẩm quyền của mình [19], [46]. Theo đó, chức năng của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là những hoạt động chủ yếu thường xuyên có tính ổn định tương đối, trực tiếp thể hiện bản chất, nhiệm vụ chiến lược, mục tiêu lâu dài của nhà nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện tốt chức năng của Nhà nước thì bản thân mỗi cơ quan nhà nước phải thực hiện tốt chức năng của mình. Do đó, cần phân biệt khái niệm "chức năng của cơ quan nhà nước" với "chức năng của nhà nước". Theo giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật của Khoa Luật định nghĩa: "chức năng của Cơ quan nhà nước là hoạt động chủ yếu, thường xuyên, có tính ổn định tương đối của riêng cơ quan đó nhằm thực hiện chức năng chung của cả bộ máy nhà nước" [19]. Với tư cách là Cơ quan nhà nước nằm trong Bộ máy nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, VKSND cũng có những chức năng, nhiệm vụ riêng của mình. Theo quy định tại điều 137 Hiến pháp 1992 (sửa đổi): "Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất" [31]. Cụ thể hóa quy định này, điều 23 BLTTHS quy định: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, quyết định truy tố người phạm tội ra trước Tòa án. Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, có trách nhiệm phát hiện kịp thời những vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội [34]. 18
- Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định: "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật" [33, Điều 1]. "Trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm thực hành quyền công tố, bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội; kiểm sát việc xét xử các vụ án hình sự, nhằm đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời" [33, Điều 16]. Những quy định trên cho thấy, VKSND có hai chức năng là THQCT và KSHĐTP. VKS phối hợp cùng với các cơ quan tiến hành tố tụng khác giúp đỡ lẫn nhau để thực hiện tốt các nhiệm vụ chung mà Nhà nước đặt ra đối với ngành tư pháp nói riêng và với cơ quan nhà nước nói chung là bảo vệ những cơ sở của chế độ Hiến định, nhân thân, cũng như các quyền và tự do của con người và của công dân, đồng thời bảo vệ pháp chế và trật tự pháp luật, góp phần giữ gìn hòa bình và an ninh của nhân loại trong khu vực và trên toàn thế giới. Hiện nay, các nhà luật học có nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố và THQCT. Trong đó, có quan điểm cho rằng: quyền công tố của VKS được tiến hành tại Tòa án thể hiện bằng quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án thông qua Cáo trạng, bằng việc đọc Cáo trạng tại phiên tòa, bằng lời buộc tội của KSV khi tranh luận và đề nghị kết tội với mức và loại hình phạt nhất định. Theo TS Lê Hữu Thể thì: Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội, hay nói cách khác là quyền nhân danh quyền lực công thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này là quyền của Nhà nước, Nhà nước giao cho VKS thực hiện. Để làm được điều này, cơ quan công tố phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó quyết định việc truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa [38]. Theo đó, phạm vi của quyền công tố trong giai đoạn xét xử bắt đầu từ khi VKS chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cùng bản cáo trạng truy tố bị can về tội danh cụ 19
- thể đến Tòa án để xét xử và kết thúc khi bản án đã tuyên của Tòa án có hiệu lực pháp luật không bị kháng cáo, kháng nghị. Trong quá trình đấu tranh, chống và phòng ngừa tội phạm, Nhà nước ta đã trao quyền công tố cho Cơ quan duy nhất là VKS. Theo đó, VKS sử dụng tất cả các quyền năng được nhà nước trao cho thông qua hệ thống các văn bản pháp luật quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ… để truy tố người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử. Như vậy, có thể hiểu THQCT là việc cơ quan VKS thực hiện tổng hợp các quyền năng pháp lý được nhà nước trao cho để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, đưa người phạm tội ra trước tòa án để xét xử và bảo vệ sự buộc tội đó. Từ định nghĩa trên cho thấy hoạt động THQCT trong giai đoạn xét xử có những đặc điểm: Thứ nhất, THQCT do VKS thực hiện, vì vậy nó mang tính quyền lực nhà nước và có tính mục đích: mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm, người phạm tội, làm oan người vô tội; việc điều tra, truy tố, xét xử phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác. Thứ hai, THQCT là những hoạt động do VKS tiến hành với những nội dung cơ bản như: ban hành cáo trạng truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử về tội danh cụ thể được quy định trong BLHS; tham gia xét hỏi làm rõ hành vi phạm tội và những tình tiết khác của vụ án; luận tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội theo toàn bộ hoặc một phần nội dung đã truy tố; tranh luận với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác; kháng nghị bản án của tòa án khi áp dụng sai pháp luật hoặc áp dụng hình phạt chưa tương xứng với tính chất và mức độ của tội phạm. Bên cạnh khái niệm THQCT, khái niệm KSHĐTP cũng có nhiều cách hiểu khác nhau. Có một số khái niệm rất gần với khái niệm này như: kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, KSHĐTP trong tố tụng hình sự... Vậy, thế nào là hoạt động tư pháp? Có quan điểm cho rằng hoạt động tư pháp chính là hoạt động xét xử của Tòa án trong việc thực hiện nhánh quyền tư pháp. Ý kiến khác cho rằng hoạt động tư pháp là hoạt động xét xử của Tòa án và hoạt động của các cơ quan, tổ chức của nhà nước trực tiếp liên quan hoặc phục vụ cho hoạt động xét xử của Tòa 20
- án. Theo đó, Tòa án sử dụng các kết quả của quá trình điều tra, truy tố, bào chữa, giám định tư pháp…một cách công khai và áp dụng các thủ tục tố tụng để nhân danh Nhà nước đưa ra phán quyết cuối cùng. Theo TS.Trần Văn Nam "hoạt động tư pháp là những hoạt động chủ yếu do các cơ quan tư pháp thực hiện trong quá trình tố tụng nhằm mục đích là giải quyết các vụ việc một cách đúng đắn, khách quan" [25]. Theo PGS.TS Phạm Hồng Hải thì: "Hoạt động tư pháp là tập hợp những việc làm cụ thể do cơ quan tư pháp thực hiện trong tố tụng trực tiếp liên quan và hướng tới mục đích giải quyết các vụ án một cách khách quan" [14]. Do vậy, hoạt động tư pháp cần được hiểu là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước của các Cơ quan tư pháp gồm CQTHTT (CQĐT, VKS, Tòa án), cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức liên quan hoặc bổ trợ cho hoạt động xét xử của Tòa án, được quy định trong tố tụng và trực tiếp liên quan đến quá trình giải quyết vụ án. Hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là hoạt động của các CQTHTT thực hiện, mang tính quyền lực nhà nước, được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự và trực tiếp liên quan đến quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Theo quy định của pháp luật hiện hành, trong quá trình THQCT, VKS thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật tức là kiểm tra, giám sát các CQTHTT, những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng trong việc áp dụng và chấp hành pháp luật. Nếu phát hiện vi phạm tùy từng trường hợp cụ thể sẽ có biện pháp xử lý để khắc phục kịp thời nhằm mang lại hiệu quả cao trong quá trình thực thi pháp luật. Trong giới luật học hiện nay, cũng có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm KSHĐTP. Có quan điểm cho rằng: KSHĐTP chỉ bao gồm các hoạt động tố tụng như điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Có quan điểm khác cho rằng: KSHĐTP còn bao gồm cả các hoạt động bổ trợ tư pháp hoặc là một dạng của giám sát nhà nước về tư pháp… Theo TS Trần Văn Nam: "KSHĐTP là hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS đối với các tổ chức và cá nhân trong hoạt động tư pháp nhằm đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất" [25]. Theo em, KSHĐTP cần được hiểu: là hoạt động giám sát việc tuân theo pháp luật của duy nhất cơ quan VKS đối với các CQTHTT, tổ chức, cá nhân trong 21
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 99 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 65 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn