intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:123

24
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận, những quy định của pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra và thực tiễn của hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS, luận văn đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS và nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thực tế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ NGỌC HÀ CHỨNG MINH TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn Hà Nội – 2013
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Vũ Ngọc Hà
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục đồ thị MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA 8 1.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra 8 1.1.1. Khái niệm hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra 8 1.1.2. Đặc điểm của hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra 14 1.2. Nội dung hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra 17 1.2.1. Thu thập chứng cứ 17 1.2.2. Kiểm tra chứng cứ 22 1.2.3. Đánh giá chứng cứ 24 1.3. Ý nghĩa của hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra 27 Kết luận chương 1 31 Chƣơng 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA 32 2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình hình sự về đối tượng với giới hạn chứng minh 32 2.1.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về đối tượng chứng minh 32 2.1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về giới hạn chứng minh 37 2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình hình sự về nghĩa vụ chứng minh 40 2.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình hình sự về thu thập và đánh giá chứng cứ 46
  4. 2.3.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình hình sự về thu thập chứng cứ 46 2.3.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình hình sự về đánh giá chứng cứ 53 2.4. Quy định của pháp luật tố tụng hình hình sự về nguồn chứng cứ 57 Kết luận chương 2 64 Chƣơng 3: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA 65 3.1. Thực tiễn thi hành quy định của pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự 65 3.1.1. Những kết quả đạt được 65 3.1.2. Những hạn chế 71 3.1.3. Nguyên nhân 78 3.1.3.1. Nguyên nhân từ hệ thống pháp luật tố tụng hình sự hiện hành 78 3.1.3.2. Nguyên nhân từ phía chủ thể có trách nhiệm chứng minh 82 3.1.3.3. Nguyên nhân từ phía chủ thể tham gia hoạt động chứng minh 84 3.1.3.4. Nguyên nhân khác 86 3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra 87 3.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến hoạt động chứng minh 88 3.2.2. Giải pháp đối với chủ thể có trách nhiệm chứng minh 93 3.2.3. Giải pháp đối với chủ thể tham gia hoạt động chứng minh 95 3.2.4. Giải pháp khác 96 Kết luận chương 3 99 KẾT LUẬN 100 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Phụ lục
  5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Bộ luật Tố tụng hình sự BLTTHS Cơ quan điều tra CQĐT Tiến hành tố tụng THTT Tòa án TA Tòa án nhân dân TAND Viện kiểm sát VKS Viện kiểm sát nhân dân VKSND Vụ án hình sự VAHS
  6. DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ Đồ thị số 3.1: Số vụ án thụ lý, xét xử theo thủ tục sơ thẩm từ năm 2007 - 2012 ......................................................................................................................... 67 Đồ thị số 3.2: TA sơ thẩm tuyên vô tội từ năm 2007 - 2012 .......................... 70 Đồ thị số 3.3: VKS trả hồ sơ cho CQĐT, TA trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung từ năm 2007-2012 ................................................................................... 73 Đồ thị số 3.4: VKS đình chỉ vụ án từ năm 2007-2012 ................................... 75
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đấu tranh phòng và chống tội phạm là một vấn đề quan trọng trong xã hội. Mục đích của việc đấu tranh phòng và chống tội phạm chính là mục đích của tố tụng hình sự, là “chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội” [36]. Do đó, chứng minh trong tố tụng hình sự là một vấn đề phức tạp, vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn. Việc nhận thức đúng và đầy đủ lý luận về chứng minh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc làm sáng tỏ sự thật của vụ án, bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan THTT trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử được khánh quan, chính xác - thể hiện rõ mục đích của tố tụng hình sự. Bởi vì, hoạt động chứng minh trong tố tụng hình sự có tính quyết định trong việc xác định sự thật khách quan của VAHS. Hoạt động chứng minh trong VAHS cần được giải quyết một cách kiên quyết, kịp thời, có hiệu quả như Lênin đã chỉ rõ: “Tác dụng ngăn ngừa của hình phạt… hoàn toàn không phải ở chỗ hình phạt đó phải nặng, mà ở chỗ đã phạm tội thì không thoát khỏi bị trừng phạt. Điều quan trọng không phải ở chỗ đã phạm tội thì phải trừng phạt nặng, mà là ở chỗ không tội phạm nào không bị phát hiện” [29, tr.508]. Mặt khác, giai đoạn điều tra VAHS là giai đoạn để chứng minh tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, xác định tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra, các vấn đề cần thiết khác. Kết quả điều tra là cơ sở để VKS quyết định truy tố bị can trước TA hoặc quyết định đình chỉ vụ án, đồng thời là cơ sở để TA xét xử đúng người, đúng tội. Mỗi tội phạm xảy ra bao giờ cũng để lại những dấu vết nhất định trong thế giới khách quan. Đối với một VAHS, việc áp dụng các biện pháp điều tra luôn cần thiết để thu thập, 1
  8. kiểm tra, đánh giá chứng cứ thì CQĐT có thể xác định được diễn biến tội phạm và xác định được ai là người thực hiện hành vi phạm tội đó. Vụ án chỉ có thể được xét xử, làm rõ trên cở sở những vấn đề đã được điều tra, lập hồ sơ và có quyết định truy tố bằng bản cáo trạng của VKS. Thiếu hoạt động điều tra, không có hồ sơ vụ án, TA không có cơ sở để xét xử. Kết quả của hoạt động điều tra càng cụ thể, chính xác, càng thu thập được đầy đủ các chứng cứ thì càng tạo điều kiện cho TA xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Ngược lại, nếu điều tra chưa thu thập được đầy đủ chứng cứ hoặc việc thu thập chứng cứ có những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thì TA không thể đưa vụ án ra xét xử mà phải trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung. Do đó, chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS càng thể hiện rõ vị trí, vai trò và tầm quan trọng. Tuy nhiên, vấn đề nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận để áp dụng quy định của pháp luật về quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS ít được quan tâm nghiên cứu - một trong những giai đoạn quan trọng làm sáng tỏ nội dung của vụ án. Bên cạnh đó, trong thực tiễn vẫn còn nhiều vụ án mà CQĐT, VKS, TA giải quyết chưa được triệt để, quá trình chứng minh xác định sự thật vụ án còn có nhiều sai sót. Từ đó cho thấy, việc nhận thức và áp dụng pháp luật về chứng minh nói chung và chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS của một số chủ thể THTT chưa được triệt để, đầy đủ, khách quan. Vì vậy, việc nghiên cứu quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS là một nội dung hết sức quan trọng, có ý nghĩa to lớn cả về mặt khoa học và thực tiễn. Trong phạm vi đề tài luận văn này, tác giả đã chọn đề tài "Chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự" làm luận án thạc sĩ luật học. Đây là một khía cạnh của quá trình giải quyết VAHS mà tác giả thấy rất quan trọng trong các vấn đề đã đề cập trên. 2
  9. 2. Tình hình nghiên cứu Chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS là một đề tài không rộng nhưng phức tạp, còn tồn tại nhiều cả về lý luận và thực tiễn cần được nghiên cứu làm rõ. Trong những năm qua, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự ở những mức độ và phạm vi khác nhau. Luận án Tiến sĩ Luật học “Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Đỗ Văn Đương năm 2000 - Luận văn này được hoàn thiện trước khi ban hành BLTTHS năm 2003. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường Đại học luật Hà Nội năm 2003: “Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” (Chủ nhiệm đề tài: Th.S. Bùi Kiên Điện); Luận văn Tiến sĩ Luật học “Quá trình chứng minh trong vụ án hình sự ở nước ta” của tác giả Nguyễn Văn Du năm 2006. Luận văn thạc sĩ luật học “Hoạt động chứng minh trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự” của tác giả Mạc Thị Duyên năm 2012; Khóa luận tốt nghiệp “Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng hình sự” của tác giả Nguyễn Kiều Vân năm 2011... Bên cạnh đó, các nhà khoa học và một số tác giả cũng đã quan tâm đến một số khía cạnh nội dung này và đã đề cập trong một số giáo trình như: Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam (Chương IV) của trường Đại học Luật Hà Nội năm 2011, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam (chương VI, mục 6) - PGS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên (Trường Đại học Huế năm 2002)…; Sách chuyên khảo và các bài viết được đăng trên tạp chí khoa học như Tạp chí Luật học, Tạp chí TAND, Tạp chí Kiểm sát… có một số tác giả trực tiếp hay gián tiếp đề cập đến nguyên tắc này nhưng dưới các góc độ khác nhau. Cụ thể: Chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam của tác giả Nguyễn Văn Cừ (Nxb Tư pháp, 2005); Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự của TS. Đỗ Văn Đương (Nxb Tư pháp, 2006); Chế định chứng trong luật tố tụng hình 3
  10. sự Việt Nam của TS. Trần Quang Tiệp (Nxb Chính trị quốc gia, 2011); Một số vấn đề về chứng minh trong tố tụng hình sự, Trần Quang Tiệp (Tạp chí Kiểm sát số 9/2003); Một số vấn đề lý luận về phương pháp thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong vụ án hình sự, TS. Trần Quang Tiệp (Tạp chí Nhà nước và pháp luật - Viện nhà nước và pháp luật số 5/2007); Hoàn thiện chế định về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự, TS. Mai Thế Bày (Tạp chí kiểm sát số chuyên ngành 18-20/2008)… Những kết quả nghiên cứu trên phần nào đã làm rõ nội dung và ý nghĩa của quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu và các bài viết trên chỉ thể hiện một phần, một khía cạnh nào đó hay một phạm vi và mức độ giới hạn của quá trình giải quyết VAHS mà ít có công trình nghiên cứu, hoặc có những vấn đề còn chưa được nghiên cứu hoặc dù đã đề cập nhưng vẫn cần có sự nghiên cứu về quá trình chứng minh trong điều tra VAHS. Từ tình hình nghiên cứu trên đây, lần nữa khẳng định việc nghiên cứu đề tài "Chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự" là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài: Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận, những quy định của pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra và thực tiễn của hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS, luận văn đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS và nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thực tế. 4
  11. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: Với mục đích đó, nhiệm vụ của luận văn cần phải giải quyết: - Làm rõ khái niệm, đặc điểm, nội dung, ý nghĩa của hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra. - Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra. - Phân tích thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam liên quan đến hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra: những kết quả đã đạt được, những bất cập và nguyên nhân tồn tại những bất cập đó. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài: là một số vấn đề lý luận của hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS nói chung, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hoạt động này nói riêng; thực tiễn áp dụng của hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS ở Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Luận văn này nghiên cứu dưới góc độ luật tố tụng hình sự nói chung, trong đó chú trọng tới pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam có liên quan đến hoạt động này. Do việc tiếp cận số liệu gặp nhiều khó khăn nên luận văn chỉ nghiên cứu việc thực hiện những quy định liên quan đến chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS tại Việt Nam từ năm 2007-2012. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong luận văn này, tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác Lênin về con đường nhận thức nói chung và khả năng nhận thức chân lý trong tố tụng hình sự nói riêng, tư tưởng Hồ Chí Minh kết 5
  12. hợp với phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh… để làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật của hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS. Những luận điểm khoa học trong luận án của tác giả được nghiên cứu trên cơ sở kế thừa và phát triển những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học pháp lý nước ta. 6. Những kết quả đạt đƣợc, những điểm mới khi nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn Sau quá trình tìm hiểu và nghiên cứu, luận văn đã thu được những kết quả nhất định như hoàn thành mục đích và yêu cầu đề ra. Thông qua đó, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hoạt động chứng minh trong điều tra VAHS và bảo đảm thực hiện nó trong tố tụng hình sự Việt Nam. Kết quả nghiên cứu và những giải pháp được đề xuất trong luận văn có ý nghĩa quan trọng đối với đấu tranh phòng, chống tội phạm. - Luận văn đã làm rõ được một số vấn đề lý luận, hệ thống những khái niệm liên quan đến hoạt động chứng minh và đặc điểm của nó trong giai đoạn điều tra VAHS. - Luận văn đã khái quát, phân tích và làm rõ nội dung của hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, đặc biệt là luận giải sâu sắc các vấn đề về đối tượng chứng minh, nghĩa vụ chứng minh, chủ thể chứng minh và các giai đoạn của quá trình chứng minh; Tiếp cận vấn đề dưới góc độ so sánh luật ở mức độ nhất định. - Phân tích, đánh giá một cách tương đối toàn diện, đầy đủ về thực trạng hoạt động chứng minh trên cả phương diện lập pháp và thực thi pháp 6
  13. luật; Đề xuất giải pháp cụ thể góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam liên quan đến chứng minh trong tố tụng hình sự. Vì vậy, luận án có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn. Trước hết, đây là một công trình chuyên khảo trong khoa học pháp lý nước ta nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống về hoạt động chứng minh trong điều tra VAHS ở nước ta hiện nay, góp phần phát triển lý luận về hoạt động chứng minh trong điều tra VAHS. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được khai thác sử dụng trong công tác nghiên cứu của các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật, các cơ quan bảo vệ pháp luật, đặc biệt là các cơ quan THTT… Những người THTT và những người tham gia tố tụng có thể nghiên cứu để khai thác nhằm áp dụng pháp luật vào quá trình công tác thực tiễn, nâng cao chất lượng hiệu quả trong công tác. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn được kết cấu gồm 3 chương và 9 mục với nội dung cụ thể như sau: Chương 1: Một số vấn đề chung về hoạt động chứng minh trong gia đoạn điều tra. Chương 2: Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra. Chương 3: Thực tiễn và một số giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra. 7
  14. Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA 1.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra 1.1.1. Khái niệm hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra Lý luận Mác - Lênin về nhận thức đã chỉ rõ con người có thể nhận thức được sự thật khách quan từ cảm tính đến lý tính, từ những hiện tượng cá biệt đến cái chung, trừu tượng thông qua những giả thiết, khả năng đánh giá, đối chiếu, tổng quan. Hoạt động chứng minh là một trong những hoạt động thực tiễn của con người và có mặt trong nhiều lĩnh vực cụ thể. Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng, hoạt động là “làm những việc khác nhau với mục đích nhất định trong xã hội” [62, tr.475]; chứng minh là “dùng lý lẽ, suy luận, bằng cứ để chỉ rõ điều gì đó là đúng hay không đúng” [62, tr.256]. Như vậy, có thể hiểu hoạt động chứng minh là hoạt động nhận thức, tư duy hay thực tiễn của con người với mục đích nhất định, xác định sự tồn tại hay không tồn tại hoặc xác định đúng, sai của một sự vật, sự việc, hiện tượng trên cơ sở những chứng cứ, căn cứ cụ thể. Chứng minh trong hoạt động tố tụng hình sự là một dạng của hoạt động chứng minh nói chung. “Chứng minh tội phạm là thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội” [32, tr.161]. Chứng minh tội phạm là công việc phức tạp, đó là việc thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ nhằm xác định sự thật của vụ án. Để giải quyết đúng đắn VAHS, các cơ quan THTT và người THTT có trách nhiệm áp dụng mọi biện pháp để chứng minh sự thật của vụ án. Những vụ án xảy ra luôn để lại 8
  15. những dấu vết trong thế giới khách quan, được con người và môi trường vật chất phản ánh lại. Quá trình chứng minh VAHS thực chất là quá trình con người nhận thức về sự kiện phạm tội đã xảy ra thông qua việc thu thập, kiểm tra, đánh giá những thông tin về vụ án. Quá trình chứng minh là quá trình xác định sự thật khách quan đối với VAHS, là quá trình nhận thức đi từ cái chưa biết đến biết, một quá trình tuân theo các quy luật của phép biện chứng duy vật. Quá trình này là một quá trình nhận thức chân lý, một quá trình phản ánh biện chứng các sự vật và hiện tượng của thế giới vật chất vào trong ý thức con người, trên cơ sở thực tiễn. Trong khoa học pháp lý đang tồn tại khá nhiều quan điểm khác nhau xung quanh khái niệm chứng minh trong tố tụng hình sự. Xét về bản chất, quá trình này tuân thủ các quy luật chung của quá trình nhận thức khách quan theo quan điểm Mác-xít. Theo tác giả, khái niệm chứng minh trong tố tụng hình sự phải đảm bảo đầy đủ các yếu tố của quá trình chứng minh như chủ thể chứng minh, đối tượng chứng minh, phương tiện chứng minh và cơ sở pháp lý để tiến hành các hoạt động chứng minh… Từ đó, quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự có thể hiểu là “quá trình tư duy và thực tiễn của CQĐT, VKS, TA và những người có quyền chứng minh dựa trên cơ sở những quy định của pháp luật tố tụng hình sự để thu thập, kiểm tra và đánh giá các thông tin, tài liệu cần thiết nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án đảm bảo cho việc giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án” [31,tr.183]. Quá trình chứng minh trong VAHS là một quá trình nhận thức khách quan, được thực hiện bằng các hoạt động trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Các hoạt động này đều thực hiện dưới hình thức tố tụng hình sự khác nhau, được quy định trong các văn bản pháp luật khác nhau như: Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự, Luật tổ chức VKSND, Luật Tổ chức TAND. Thực chất và mục đích của quá trình chứng minh trong VAHS của các cơ quan THTT là thu thập, sử dụng chứng 9
  16. cứ làm phương tiện để xác định rõ có dấu hiệu tội phạm hay không, nếu có thì ai thực hiện tội phạm, trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự của người đó trước pháp luật. Quá trình chứng minh trong VAHS bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án (trừ trường hợp cần thu thập chứng cứ làm sáng tỏ vụ án trước khi tiến hành giải quyết như khám nghiệm hiện trường có thể được tiến hành trước khi khởi tố vụ án) bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của các cơ quan có thẩm quyền THTT khác nhau như: Hoạt động điều tra, hoạt động truy tố và hoạt động xét xử. Mỗi hoạt động này đều hàm chứa các hành vi tố tụng khác nhau. Hoạt động điều tra với tính chất là một giai đoạn tố tụng hình sự do CQĐT tiến hành và bao gồm các hành vi tố tụng đặc trưng như: Khởi tố bị can và hỏi cung bị can; Bắt tạm giam bị can, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản; Lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; Đối chất và nhận dạng… nhằm làm rõ đối tượng chứng minh trong giai đoạn điều tra. Hoạt động truy tố do VKS tiến hành thể hiện quyền giám sát hoạt động của CQĐT và thực hành quyền công tố tại phiên tòa, đặc trưng bởi những hành vi tố tụng như: Nghiên cứu hồ sơ, nghiên cứu bản kết luận điều tra, viết bản cáo trạng và truy tố bị can trước TA. Hoạt động xét xử do TA tiến hành là hoạt động mang tính quyết định cuối cùng nhằm xác định tội phạm, người phạm tội và áp dụng các hình phạt tương ứng theo quy định của pháp luật. Hoạt động xét xử bao gồm các hành vi tố tụng cụ thể như: Xét hỏi bị cáo, hỏi người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và những người tham gia tố tụng khác, xem xét vật chứng; Tranh luận tại phiên tòa; Nghị án; Tuyên án… Tất cả những hành vi tố tụng cụ thể đó nhằm đến một mục đích cuối cùng và cao nhất đó là chứng minh chân lý khách quan của VAHS. Hoạt động này cần được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục do BLTTHS hiện hành quy định và tuân thủ 10
  17. một số nguyên tắc nhất định: Nguyên tắc đảm bảo pháp chế; Nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của TA đã có hiệu lực pháp luật; Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án; Nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giam, bị can, bị cáo; Nguyên tắc đảm bảo tính vô tư của người tiến hành hoặc người tham gia tố tụng… Trên cơ sở những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và các văn bản pháp luật khác về điều tra, truy tố, xét xử và thực tiễn xét xử có thể hiện: Quá trình chứng minh trong VAHS là quá trình mà các cơ quan THTT, người THTT thực hiện hoạt động nhận thức chân lý về VAHS. Việc nhận thức về VAHS là việc phản ánh một cách khách quan toàn bộ diễn biến về vụ án, hay nói cách khác là tái dựng lại được một bức tranh toàn cảnh, chính xác về VAHS đã xảy ra. Để đạt được điều này, các chủ thể THTT phải thực hiện các biện pháp do pháp luật tố tụng hình sự quy định, làm sáng tỏ tất cả mọi vấn đề có trong VAHS. Việc nghiên cứu các sự kiện, tình tiết của vụ án được tiến hành dựa trên cơ sở “chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự do bộ luật này quy định, mà CQĐT, VKS và TA dùng làm căn cứ xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội, cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án” [36]. Quá trình chứng minh trong VAHS chủ yếu thể hiện ở các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử VAHS, trong đó các cơ quan THTT áp dụng mọi biện pháp để thu thập chứng cứ, đánh giá và sử dụng chứng cứ nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Quá trình giải quyết VAHS trải qua nhiều giai đoạn tố tụng hình sự khác nhau. Mục đích chung của hoạt động chứng minh trong mọi giai đoạn tố tụng là xác định sự thật khách quan của vụ án. Mỗi giai đoạn có chủ thể, nhiệm vụ, hành vi tố tụng, văn bản tố tụng khác nhau khiến cho hoạt động chứng minh ở từng giai đoạn 11
  18. tố tụng có những đặc trưng riêng biệt. Trong đó, điều tra VAHS là một giai đoạn quan trọng của quá trình giải quyết VAHS. Điều tra là giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó cơ quan có thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án [31, tr.263]. Với tính chất của giai đoạn điều tra VAHS làm cho hoạt động chứng minh trong giai đoạn này có những điểm khác biệt so với hoạt động chứng minh trong các giai đoạn tố tụng khác. Vì thế, giai đoạn điều tra VAHS là giai đoạn không thể thiếu trong quá trình giải quyết VAHS, không có giai đoạn nào thay thế được. Hoạt động điều tra là hoạt động cần thiết đối với tất cả các VAHS. Theo Từ điển Luật học, “Điều tra là công tác trong tố tụng hình sự được tiến hành nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ” [32]. Là một yếu tố của quá trình chứng minh, hoạt động điều tra được xem như là một hoạt động nhận thức nếu nhìn từ góc độ của lý luận phản ánh. Trước hết, tội phạm được phản ánh vào môi trường xung quanh thông qua các dấu vết, hình ảnh của nó để lại trên các đối tượng vật chất, trong trí nhớ của những người tham gia tố tụng trong tương lai. Chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS là quá trình chứng minh trong VAHS bắt đầu từ khi vụ án được khởi tố và kết thúc khi cơ quan có thẩm quyền có bản kết luận điều tra về VAHS, thể hiện sự đánh giá, kết luận mang tính pháp lý đầu tiên về sự thật khách quan của vụ án. Giai đoạn này là giai đoạn khởi đầu của quá trình chứng minh làm tiền đề cho các giai đoạn tiếp theo. Trong giai đoạn này, CQĐT, VKS có quyền sử dụng các biện pháp điều tra, các nguồn chứng cứ khác nhau để chứng minh. Để điều tra vụ án, Điều tra viên, Kiểm sát viên phải đưa nhiều giả thiết khác nhau và mỗi giả thiết đều phải được chứng minh để loại trừ hay xác định để đưa đến kết luận về vụ án. Để chứng minh, CQĐT, VKS phải sử dụng mọi chứng cứ thu thập 12
  19. được trong vụ án, không loại trừ chứng cứ nào để chứng minh cho các giả thiết điều tra đặt ra. Cũng như các giai đoạn khác của quá trình tố tụng hình sự, hoạt động chứng minh ở giai đoạn điều tra được hiểu là hoạt động nhận thức về sự kiện phạm tội đã xảy ra trong quá khứ thông qua việc nghiên cứu những thông tin về sự kiện đó được để lại trong thế giới vật chất và ý thức của những người biết về sự kiện đó. Chính từ giai đoạn chứng minh này, giá trị chứng minh các thông tin được khẳng định là cơ sở cho việc giải quyết vụ án được hình thành, đầy đủ. Giai đoạn điều tra là giai đoạn mở đầu của quá trình tố tụng hình sự. Vì vậy, hoạt động chứng minh trong VAHS ở giai đoạn này có vị trí và vai trò quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả của VKS và TA ở các giai đoạn tiếp theo là truy tố, xét xử. Hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS ở các cấp góp phần rất quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm. Đây cũng là tiền đề tạo điều kiện thuận lợi cho VKS và TA ở nước ta hàng năm xử lý một số lượng rất lớn các VAHS đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Từ những phân tích trên, có thể rút ra khái niệm về hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS như sau: Hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS là hoạt động của những chủ thể THTT ở giai đoạn điều tra được pháp luật quy định để thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ nhằm làm sáng tỏ sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, đảm bảo cơ sở cần thiết cho việc ban hành các quyết định tố tụng phù hợp góp phần giải quyết đúng đắn VAHS theo trình tự, thủ tục của pháp luật tố tụng hình sự. Khái niệm này đã chỉ ra những đặc điểm thuộc về bản chất của hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS như chủ thể chứng minh, 13
  20. phương tiện chứng minh, thủ tục chứng minh, mục đích chứng minh và các nội dung của hoạt động chứng minh. 1.1.2. Đặc điểm của hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra Xuất phát từ nhiệm vụ các giai đoạn tố tụng cũng như địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể mà hoạt động chứng minh ở mỗi giai đoạn cũng có sự khác nhau, những đặc điểm riêng của mình. Với khái niệm về hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra VAHS, hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra gồm những đặc điểm sau: Thứ nhất: Chủ thể của hoạt động chứng minh. Chủ thể tiến hành các hoạt động chứng minh trong tố tụng hình sự là các chủ thể có trách nhiệm chứng minh do pháp luật tố tụng hình sự quy định tùy từng quốc gia với từng mô hình tố tụng khác nhau. Các chủ thể chứng minh trong giai đoạn điều tra là người nắm vững pháp luật, có kiến thức về nghiệp vụ chuyên sâu về công tác pháp luật, sử dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật tiên tiến để phát hiện và điều tra được tội phạm. Chủ thể chứng minh ở giai đoạn điều tra bao gồm Điều tra viên, Kiểm sát viên hoặc cán bộ được phân công làm công tác điều tra của các cơ quan khác như: Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Người tham gia tố tụng cũng tham gia vào hoạt động chứng minh do các chủ thể chứng minh THTT yêu cầu nhưng họ không phải chủ thể chứng minh. Thứ hai: Thời hạn điều tra. Các CQĐT tiến hành các hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ bằng thời hạn điều tra vụ án như: Từ khi khởi tố vụ án cho đến kến kết thúc điều tra, đối với tội phạm ít nghiêm trọng không quá hai tháng; Đối với tội nghiêm trọng không quá ba tháng; Đối với tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng không quá bốn tháng. Trong 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2