Luận văn Thạc sĩ Luật học: Đăng ký quốc tế nhãn hiệu theo hệ thống Mađrit - Những vấn đề lý luận và thực tiễn tại Việt Nam và Nhật Bản
lượt xem 5
download
Trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ, tác giả tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật một cách toàn diện về việc đăng ký quốc tế nhãn hiệu theo Thoả ước Mađrit và Nghị định thư Mađrit về đăng ký quốc tế nhãn hiệu. Tác giả cũng tập trung nghiên cứu các quy định về đăng ký quốc tế nhãn hiệu trong luật pháp Việt Nam, đưa ra những nhận xét, đánh giá thực tiễn về sự tương thích giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế trong lĩnh vực này,... Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Đăng ký quốc tế nhãn hiệu theo hệ thống Mađrit - Những vấn đề lý luận và thực tiễn tại Việt Nam và Nhật Bản
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ------------------- NGUYỄN THỊ NGỌC BÍCH ĐĂNG KÝ QUỐC TẾ NHÃN HIỆU THEO HỆ THỐNG MAĐRIT NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM VÀ NHẬT BẢN LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2011
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ------------------- NGUYỄN THỊ NGỌC BÍCH ĐĂNG KÝ QUỐC TẾ NHÃN HIỆU THEO HỆ THỐNG MAĐRIT NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM VÀ NHẬT BẢN Chuyên ngành: Luật quốc tế Mã số: 603860 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Đoàn Năng HÀ NỘI - 2011
- MỤC LỤC Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng Danh mục các hình vẽ Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU ......................................................................................................1 Chương 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG MAĐRIT ĐĂNG KÝ QUỐC TẾ NHÃN HIỆU .................................6 1.1. Tầm quan trọng của việc bảo hộ Nhãn hiệu..............................6 1.2. Các yếu tố thúc đẩy quá trình hình thành hệ thống Mađrit đăng ký quốc tế nhãn hiệu........................................................16 1.3. Quá trình đàm phán, ký kết Thoả ước Mađrit..........................21 1.4. Quá trình đàm phán, ký kết Nghị định thư Mađrit ...................23 1.5. Tình hình tham gia hệ thống Mađrit của các quốc gia............25 Chương 2: NỘI DUNG CỦA THOẢ ƯỚC VÀ NGHỊ ĐỊNH THƯ ...................34 2.1. Nội dung chủ yếu của Thoả ước Mađrit và Nghị định thư Mađrit về đăng ký quốc tế nhãn hiệu .......................................34 2.1.1. Người nộp đơn...................................................................34 2.1.2. Đơn cơ sở và đăng ký cơ sở .............................................35 2.1.3. Đơn đăng ký quốc tế nhãn hiệu .........................................36 2.1.4. Chỉ định quốc gia ...............................................................38 2.1.5. Ngôn ngữ ...........................................................................39 2.1.6. Hưởng quyền ưu tiên theo đơn nộp sớm hơn ...................39 2.1.7. Lệ phí .................................................................................40 2.1.8. Quy trình nộp đơn đăng ký quốc tế nhãn hiệu ...................41 2.1.9. Thông báo việc chỉ định tới các quốc gia thành viên..........44 2.1.10. Hiệu lực của đăng ký quốc tế...........................................44 2.1.11. Chỉ định quốc gia tiếp sau đó ...........................................45 2.1.12. Từ chối bảo hộ .................................................................46 2.1.13. Sự phụ thuộc vào Nhãn hiệu cơ sở hay Điều khoản “tấn công trung tâm” ........................................................47 2.1.14. Thay đổi Đăng bạ quốc tế và huỷ bỏ đăng ký quốc tế .....48 2.2. Ưu điểm và nhược điểm của Thoả ước và Nghị định thư .....49 ii
- 2.2.1. Ưu điểm .............................................................................49 2.2.2. Nhược điểm .......................................................................51 2.3. Sự khác biệt giữa Thoả ước và Nghị định thư........................54 2.3.1. Cơ sở của đăng ký quốc tế ................................................54 2.3.2. Ngôn ngữ của đơn đăng ký quốc tế...................................54 2.3.3. Điều khoản bảo vệ an toàn – “safeguard clause”...............54 2.3.4. Giải pháp cho Điều khoản “tấn công trung tâm”.................55 2.3.5. Thời hạn từ chối đăng ký ...................................................55 2.3.6. Hiệu lực của đăng ký quốc tế.............................................56 2.3.7. Các khoản phí ....................................................................56 2.3.8. Sự linh hoạt khi lựa chọn Văn phòng nơi xuất xứ ..............56 2.3.9. Thành viên .........................................................................57 Chương 3: THỰC TIỄN ĐĂNG KÝ QUỐC TẾ NHÃN HIỆU TẠI VIỆT NAM VÀ NHẬT BẢN ............................................................................59 3.1. Tình hình đăng ký quốc tế Nhãn hiệu ở Việt Nam ....................59 3.1.1. Đơn quốc tế có nguồn gốc Việt Nam .................................59 3.1.2. Đơn quốc tế có chỉ định Việt Nam......................................67 3.2. Tình hình đăng ký quốc tế Nhãn hiệu tại Nhật Bản.................70 3.2.1. Đơn quốc tế có nguồn gốc Nhật Bản .................................71 3.2.2. Đơn quốc tế có chỉ định Nhật Bản .....................................77 3.3. Xét nghiệm đơn đăng ký quốc tế tại Văn phòng quốc gia được chỉ định ở Việt Nam và Nhật Bản ...................................80 3.3.1. Tiêu chí xét nghiệm nội dung .............................................80 3.3.2. Từ chối tạm thời.................................................................81 3.3.3. Chấp nhận bảo hộ..............................................................82 3.3.4. Khiếu nại thông báo từ chối tạm thời .................................82 3.3.5. Tuyên bố cuối cùng liên quan đến thông báo từ chối.........83 3.4. Một số đề xuất, khuyến nghị cho Việt Nam...............................85 3.4.1. Nâng cao hiểu biết của cộng đồng.....................................85 3.4.2. Nâng cao năng lực thực thi hệ thống Mađrit cho Cơ quan đăng ký nhãn hiệu quốc gia....................................91 KẾT LUẬN ...................................................................................................96 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................99 PHỤ LỤC ...................................................................................................105 iii
- Danh mục các từ viết tắt AIPPI Hiệp hội bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp quốc tế APIC Trung tâm sở hữu công nghiệp châu Á – Thái Bình dương CIPO Cục Sở hữu trí tuệ Trung Quốc Công ước Paris Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp CTM Nhãn hiệu liên minh châu Âu EU Liên minh châu Âu JICA Tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản JIII Viện Sáng chế và sáng kiến Nhật Bản JPO Cục Sáng chế Nhật Bản NH Nhãn hiệu Nghị định thư Nghị định thư Mađrit liên quan tới Thoả ước Mađrit về đăng ký quốc tế nhãn hiệu NOIP Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam OHIM Văn phòng hài hoà thị trường nội địa SHTT Sở hữu trí tuệ Thoả ước Thoả ước Mađrit về đăng ký quốc tế nhãn hiệu TRIPs Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại TRT Hiệp ước đăng ký nhãn hiệu VIPA Hội sở hữu trí tuệ Việt Nam WTO Tổ chức thương mại thế giới WIPO Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới iv
- Danh mục các bảng Số hiệu Tên bảng Trang 1.1. Xu hướng gia nhập hệ thống Mađrit 26 2.1. Điểm khác biệt cơ bản giữa Thoả ước và Nghị định thư 58 3.1. Đăng ký quốc tế nhãn hiệu có nguồn gốc Việt Nam 59 3.2. Đăng ký quốc tế nhãn hiệu có chỉ định Việt Nam từ năm 67 2000 - 2010 3.3. Đăng ký quốc tế nhãn hiệu có chỉ định Nhật Bản từ năm 77 2000 - 2010 3.4. So sánh một số đặc điểm trong quá trình xét nghiệm 83 đơn của Việt Nam và Nhật Bản Danh mục các hình vẽ Số hiệu Tên hình vẽ Trang 1.1. Nhãn hiệu FORTIS trên chiếc đèn dầu bằng gốm cổ 7 1.2. Nhãn hiệu FORTIS của một số hãng uy tín trên thế giới 7 hiện nay 1.3. Sản phẩm túi thời trang mang Nhãn hiệu Louis Vuiton 11 1.4. Sản phẩm xà phòng giả/nhái Nhãn hiệu OMO 11 1.5. Nhãn hiệu “Bass, Tam giác đỏ của Công ty Bass 12 1.6. Danh sách 10 Nhãn hiệu hàng đầu năm 2010 theo bình 16 chọn của Interbrand 2.1. Quy trình đăng ký quốc tế Nhãn hiệu theo hệ thống Mađrit 42 Danh mục các biểu đồ Số hiệu Tên biểu đồ Trang 1.1. Tình hình đăng ký quốc tế Nhãn hiệu theo hệ thống Mađrit 20 1.2. Các quốc gia thành viên của hệ thống Mađrit 25 v
- 1.3. 10 quốc gia thành viên được chỉ định nhiều nhất năm 29 2009 1.4. 10 quốc gia thành viên có lượng đơn đăng ký quốc 30 tế nhiều nhất năm 2009 1.5. Lượng đơn đăng ký quốc tế của 5 quốc gia thành 32 viên được chỉ định nhiều nhất trong 5 năm gần đây 3.1. Xu hướng lựa chọn Điều ước quốc tế cho các đơn 61 đăng ký quốc tế nhãn hiệu có nguồn gốc Việt Nam 3.2. Đơn quốc tế có nguồn gốc Việt Nam và các quốc gia 62 được chỉ định nhiều nhất 3.3. Đăng ký quốc tế nhãn hiệu theo hệ thống Mađrit của 65 Việt Nam (tính đến 7/2011) 3.4. Xu hướng lựa chọn Nghị định thư đối với đơn đăng 66 ký quốc tế có nguồn gốc Việt Nam từ 2006 đến nay 3.5. Các quốc gia đăng ký nhãn hiệu nhiều nhất tại Việt 69 Nam (Số liệu đăng ký 2005 – 2010) 3.6. Đơn đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam từ 2000 đến 2010 70 3.7. Đơn đăng ký quốc tế có nguồn gốc Nhật Bản từ năm 72 2000 – 2010 3.8. Chỉ định quốc gia trong đơn đăng ký quốc tế có 72 nguồn gốc Nhật Bản 3.9. Xu hướng sửa đổi nhãn hiệu khi nộp đơn quốc tế 73 của Nhật Bản 3.10. Kết quả khảo sát mối e ngại của người nộp đơn 74 Nhật bản đối với hệ thống Mađrit 3.11. Số lượng đơn nhãn hiệu và thời gian xét nghiệm tại 79 Nhật Bản vi
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Những năm gần đây, Chính phủ Việt Nam đã có những nỗ lực đáng ghi nhận trong vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế. Cùng với việc trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào ngày 11/01/2007, ban hành Luật Sở hữu trí tuệ (có hiệu lực từ ngày 01/7/2006), việc gia nhập Nghị định thư Mađrit về đăng ký quốc tế nhãn hiệu (ngày 01/7/2006) đánh dấu một bước tiến của Việt Nam trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Trong quá trình hội nhập kinh tế, các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng nhận thức được tầm quan trọng và nhu cầu cấp thiết phải thiết lập và bảo hộ được hình ảnh hợp pháp và bền vững cho các sản phẩm và dịch vụ của mình ở thị trường trong nước và nước ngoài. Nhãn hiệu trở thành một trong những yếu tố chủ chốt trong chiến lược thương mại hoá sản phẩm/dịch vụ của mỗi doanh nghiệp, bảo đảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Xu hướng chuyển từ việc gia công các sản phẩm cho các hãng nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu xây dựng cho mình thương hiệu riêng với mục tiêu sánh vai cùng với các thương hiệu quốc tế. Vấn đề đăng ký và bảo hộ nhãn hiệu ở Việt Nam và trên thế giới trở nên nóng hổi hơn bao giờ hết. Tác giả chọn đề tài “Đăng ký quốc tế nhãn hiệu theo hệ thống Mađrit - Những vấn đề lý luận và thực tiễn tại Việt Nam và Nhật Bản” để nghiên cứu vì những lý do sau đây: Hiện nay, số lượng người Việt Nam đăng ký quốc tế nhãn hiệu thông qua hệ thống Mađrit trong thời gian qua còn rất ít, mặc dù Việt Nam đã là thành viên của Thoả ước Mađrit từ ngày 08/3/1949. Việc nghiên cứu về những ưu điểm và nhược điểm của Thoả ước Mađrit, những nguyên nhân cản trở việc sử dụng hệ thống này đối với các doanh nghiệp Việt Nam (từ các quy -1-
- định của Thoả ước Mađrit, Nghị định thư Mađrit, các quy định pháp luật Việt Nam, từ yêu cầu khách quan, từ bản thân doanh nghiệp) sẽ giúp cho các nhà làm luật, các nhà hoạch định chính sách và bản thân các doanh nghiệp vượt qua được các trở ngại đó và đem lại hiệu quả thiết thực. Nhật Bản là một nước có hệ thống sở hữu trí tuệ khá phát triển. Mặc dù mới chỉ là thành viên của Nghị định thư Mađrit về đăng ký quốc tế nhãn hiệu từ năm 2000, song những thành tựu đạt được trong lĩnh vực này là khá ấn tượng. Hơn nữa, các quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ và hệ thống đăng ký sở hữu trí tuệ, đặc biệt là Nhãn hiệu của Nhật Bản và Việt Nam có nhiều điểm khá tương đồng. Việc nghiên cứu các quy định pháp luật và kinh nghiệm của Nhật Bản trong lĩnh vực này sẽ góp phần đề xuất các khuyến nghị thích hợp và hiệu quả cho Việt Nam nhằm sử dụng hữu hiệu hệ thống đăng ký quốc tế nhãn hiệu theo Thoả ước Mađrit và Nghị định thư Mađrit. Xuất phát từ lý do trên, tác giả chọn đề tài ““Đăng ký quốc tế nhãn hiệu theo hệ thống Mađrit - Những vấn đề lý luận và thực tiễn tại Việt Nam và Nhật Bản” làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Luật Quốc tế với mong muốn được nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ những quy định của pháp luật quốc tế, đặc biệt là Thoả ước Mađrit về đăng ký quốc tế nhãn hiệu và Nghị định thư Mađrit về đăng ký quốc tế nhãn hiệu” nhằm thấy được những lợi ích mà hệ thống này mang lại, sự khác biệt giữa Thoả ước Mađrit và Nghị định thư Mađrit, từ đó đề xuất ý kiến cho các nhà làm luật, các cơ quan thực thi trong việc hoàn thiện các quy định về đăng ký quốc tế nhãn hiệu ở Việt Nam, góp phần hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam hội nhập thành công vào kinh tế quốc tế. 2. Tình hình nghiên cứu về vấn đề này ở Việt Nam và ý nghĩa lý luận của đề tài Hiện nay, ngoài một số bài báo đề cập hoặc giới thiệu về việc đăng ký -2-
- quốc tế nhãn hiệu theo hệ thống Mađrit, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách sâu sắc, hệ thống và đầy đủ về hệ thống này, về các quy định pháp luật, sự khác biệt giữa Thoả ước Mađrit và Nghị định thư Mađrit. Đặc biệt, chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập tới các quy định pháp luật và thực tiễn đăng ký quốc tế nhãn hiệu ở Việt Nam và Nhật Bản trong sự nghiên cứu so sánh. Trong xu thế hội nhập hiện nay, nhất là trong bối cảnh nhãn hiệu trở thành một trong những công cụ hội nhập và phát triển thương mại chủ chốt của các doanh nghiệp, việc nghiên cứu một cách hệ thống về vấn đề này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Những khuyến nghị của luận văn này hy vọng sẽ là thiết thực cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật của Việt Nam nhằm mục đích vừa thực hiện đúng các cam kết quốc tế về bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ mà Việt Nam đã ký kết, vừa tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng hữu hiệu hệ thống này để bảo hộ tài sản trí tuệ của mình trên thế giới. Hy vọng rằng, với sự đầu tư thích đáng và sự làm việc nghiêm túc và nhiệt huyết của một người làm trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, kết quả nghiên cứu sẽ là một tài liệu tham khảo có giá trị và hữu ích. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ, tác giả tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật một cách toàn diện về việc đăng ký quốc tế nhãn hiệu theo Thoả ước Mađrit và Nghị định thư Mađrit về đăng ký quốc tế nhãn hiệu. Tác giả cũng tập trung nghiên cứu các quy định về đăng ký quốc tế nhãn hiệu trong luật pháp Việt Nam, đưa ra những nhận xét, đánh giá thực tiễn về sự tương thích giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế trong lĩnh vực này, từ đó đề xuất các khuyến nghị có thể áp dụng cho Việt Nam trong việc hoàn thiện pháp luật đồng thời xây dựng cơ chế cho việc áp dụng “đúng và đủ” luật -3-
- pháp quốc tế trong lĩnh vực đăng ký và bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam, cũng như đăng ký và bảo hộ nhãn hiệu có xuất xứ Việt Nam ở nước ngoài. Những nghiên cứu so sánh về các quy định pháp luật và thực tiễn đăng ký, bảo hộ nhãn hiệu quốc tế ở Việt Nam và Nhật Bản giúp cho tác giả luận văn có thể đưa ra những đề xuất thích hợp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn hơn để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài cũng như nâng cao uy tín của Việt Nam trong việc thực thi các quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với luật pháp và chuẩn mực quốc tế. 4. Phương pháp nghiên cứu Tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu, phân tích tài liệu và dữ liệu thống kê, tổng hợp, so sánh các quy định về đăng ký quốc tế nhãn hiệu theo Thoả ước Mađrit và Nghị định thư Mađrit, tình hình thực tiễn áp dụng hệ thống Mađrit trong việc đăng ký quốc tế nhãn hiệu ở Việt Nam và Nhật Bản, từ đó rút ra những ưu điểm của hệ thống, sự tương thích và chưa tương thích của luật pháp quốc gia với luật pháp quốc tế; xem xét tính phù hợp của các kinh nghiệm của Nhật Bản với điều kiện của Việt Nam để hướng tới hoàn thiện các quy định pháp luật trong nước nhằm sử dụng hiệu quả hệ thống Mađrit trong thời gian tới. 5. Đóng góp mới của luận văn Với những nghiên cứu nghiêm túc và các cuộc khảo sát thực tế, luận văn đã đạt được những kết quả sau đây và có thể coi đó như là những đóng góp mới của luận văn: - Hệ thống hoá, phân tích, so sánh các quy định về đăng ký quốc tế nhãn hiệu giữa Thoả ước Mađrit và Nghị định thư Mađrit; các ưu điểm và nhược điểm của hệ thống nói chung và của từng điều ước nói riêng; những điểm chung và điểm khác biệt của hai điều ước quốc tế này; - Phân tích tình hình đăng ký quốc tế nhãn hiệu theo hệ thống Mađrit -4-
- của Việt Nam và một số nước trên thế giới, trong đó tập trung vào Nhật Bản rút ra những kinh nghiệm thực tiễn trong việc áp dụng Nghị định thư Mađrit: những thuận lợi, khó khăn từ phía những người sử dụng hệ thống này, bao gồm cả người nộp đơn, các chuyên gia sở hữu trí tuệ và cơ quan đăng ký nhãn hiệu quốc gia; - So sánh, đối chiếu thực tiễn đăng ký quốc tế nhãn hiệu theo hệ thống Mađrit của Việt Nam và Nhật Bản, rút ra những điểm chung và khác biệt giữa hai quốc gia về các khía cạnh liên quan đến người nộp đơn, cơ quan đăng ký nhãn hiệu quốc gia, việc xét nghiệm đơn quốc tế của cơ quan đăng ký nhãn hiệu với cả hai tư cách: văn phòng quốc gia nơi xuất xứ và văn phòng quốc gia được chỉ định; - Đề xuất một số khuyến nghị để nâng cao hiệu quả hệ thống Mađrit nhằm khuyến khích người sử dụng, bao gồm người nộp đơn và cơ quan đăng ký nhãn hiệu quốc gia tại Việt Nam đẩy mạnh đăng ký quốc tế nhãn hiệu, nâng cao hiệu lực của công tác xét nghiệm đơn tại cơ quan đăng ký nhãn hiệu quốc gia tại Việt Nam. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống Mađrit đăng ký quốc tế nhãn hiệu. Chương 2: Nội dung của Thoả ước Mađrit và Nghị định thư Mađrit Chương 3: Thực tiễn đăng ký quốc tế nhãn hiệu tại Việt Nam và Nhật Bản. -5-
- Chương 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG MAĐRIT ĐĂNG KÝ QUỐC TẾ NHÃN HIỆU 1.1. Tầm quan trọng của việc bảo hộ Nhãn hiệu Trong cuộc sống hàng ngày, khi chọn mua một hàng hoá hay quyết định sử dụng một dịch vụ, người mua thường có nhiều tiêu chí để lựa chọn: đó là giá cả, nhưng cũng có thể đó là chất lượng của hàng hoá/dịch vụ hoặc uy tín của nhà sản xuất. Đối với những hàng hoá/dịch vụ mà người mua tin tưởng vào chất lượng của hàng hoá/dịch vụ hay uy tín/cam kết của nhà sản xuất, sự phân biệt với các hàng hoá/dịch vụ khác được ghi trên hàng hoá/dịch vụ bằng những dấu hiệu riêng biệt của nhà sản xuất. Dấu hiệu này chính là nhãn hiệu. Nhãn hiệu là dấu hiệu mà một doanh nghiệp sử dụng đối với hàng hoá/dịch vụ của mình để phân biệt hàng hoá cùng loại của các doanh nghiệp khác. Theo luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam, dấu hiệu này có thể là “từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc” (Luật sở hữu trí tuệ, Điều 72 Khoản 1). Nhãn hiệu đã tồn tại từ thời cổ đại. Ngay từ thời điểm con người còn tự cung tự cấp những gì họ cần cho bản thân nhiều hơn là mua chúng từ những người thợ thủ công địa phương, có những thương gia sáng tạo đã biết bán hàng hoá của mình vượt ra ngoài địa phương mình sinh sống và thậm chí tới những vùng rất xa. Các đồ gốm cổ của Trung Quốc, Ai-cập, La Mã, và Hy Lạp có một số dấu hiệu cho thấy quyền sở hữu. Cách đây 3000 năm, những người thợ thủ công Ấn Độ đã từng chạm khắc chữ ký của mình trên các tác phẩm nghệ thuật trước khi gửi hàng tới Iran. Các nhà sản xuất Trung Quốc đã bán hàng hoá mang nhãn hiệu của mình tại khu vực Địa Trung Hải hơn 2000 năm trước đây. Nhãn hiệu Fortis được sử dụng cho đèn dầu bằng gốm đã được tìm thấy trong các đế chế La Mã. Fortis là nhãn hiệu thời thượng nhất trong số các nhãn hiệu cho đồ gốm và các sản phẩm mang nhãn hiệu này sử -6-
- dụng cho đến cuối thế kỷ thứ hai trước Công nguyên [29]. Nhãn hiệu này đã trở nên nổi tiếng đến nỗi bị sao chép và sử dụng, đăng ký cho nhiều loại hàng hoá/dịch vụ đa dạng sau đó (Theo cơ sở dữ liệu đăng ký nhãn hiệu của Benelux, tính đến 15/12/2010, đã có 101 đơn nhãn hiệu “FORTIS” đã đăng ký theo hệ thống Mađrit, Nhãn hiệu cộng đồng (CTM) và Benelux được nộp bởi các cá nhân, tổ chức từ các quốc gia khác nhau, đăng ký cho các hàng hoá/dịch vụ khác nhau, chẳng hạn: chế phẩm sinh học, đồ gia dụng, điện tử, lương thực thực phẩm, đồng hồ, ôtô, quần áo, vật liệu xây dựng, bia rượu, quản lý doanh nghiệp, bảo hiểm, ngân hàng, đào tạo, v.v. [70]. Tại Mỹ, số lượng đăng ký Nhãn hiệu “Fortis” hay “Fortis và các yếu tố khác” là 140 [75]. Tại Nhật bản, số lượng đăng ký quốc gia Nhãn hiệu “Fortis” là 12, chưa kể các đơn đăng ký riêng cho các phương án phiên âm của nhãn hiệu này bằng tiếng Nhật [81]). Nhờ việc kinh doanh phát đạt thời Trung Cổ mà việc sử dụng các dấu hiệu để phân biệt hàng hoá của các thương gia và các nhà sản xuất đã khá phát triển. Tuy vậy, tầm quan trọng về mặt kinh tế của nhãn hiệu vẫn còn hạn chế. Hình 1.1. Nhãn hiệu FORTIS Hình 1.2. Nhãn hiệu FORTIS của một số hãng uy trên chiếc đèn dầu bằng gốm cổ tín trên thế giới hiện nay -7-
- Nhãn hiệu bắt đầu đóng một vai trò quan trọng với công cuộc công nghiệp hoá và từ đó trở thành một yếu tố quan trọng trong thế giới hiện đại của thương mại quốc tế và nền kinh tế thị trường. Công nghiệp hoá và sự phát triển của hệ thống kinh tế thị trường cho phép các nhà sản xuất và các thương gia cạnh tranh đưa đến người tiêu dùng sự lựa chọn đa dạng cho hàng hoá/dịch vụ cùng chủng loại. Do vậy, hàng hoá/dịch vụ phải được đặt tên và phương tiện để đặt tên hàng hoá/dịch vụ trên thị trường chính là nhãn hiệu. Mục đích của nhãn hiệu là để phân biệt hàng hóa/dịch vụ của nhà sản xuất hàng hoá/ nhà cung cấp dịch vụ này với hàng hóa/ dịch vụ của nhà sản xuất hàng hoá/nhà cung cấp dịch vụ kia. Nhãn hiệu có thể là một từ, chữ cái, hình dạng, chữ ký, bao gói, nhãn sản phẩm, sự kết hợp màu sắc và bất cứ hình thức thể hiện nào. Nhãn hiệu chỉ cho công chúng biết rằng sản phẩm/dịch vụ thuộc về một nguồn gốc cụ thể và có chất lượng nhất định. Việc lựa chọn các hàng hóa có thể được dựa trên cơ sở chất lượng, giá cả hay bất cứ điều gì thu hút người tiêu dùng sản phẩm đó. Nhãn hiệu có vai trò quan trọng để phát triển kinh doanh của doanh nghiệp và uy tín của công ty liên quan mật thiết với nhãn hiệu. Bảo hộ nhãn hiệu là vô cùng cần thiết trong nền kinh tế thị trường. Trước kia, khi chưa có luật bảo hộ nhãn hiệu tại hầu hết các quốc gia, nhãn hiệu được bảo hộ theo “thông lệ” hay “án lệ”. Từ thế kỷ thứ mười tám trở về trước, sản phẩm thường bị hạn chế quá cục bộ trong một phạm vi nhỏ hẹp. Cuộc cách mạng công nghiệp ở thế kỷ thứ mười tám và thế kỷ thứ mười chín không những chỉ thúc đẩy nền kinh tế mà còn thiết lập nên vai trò của hệ thống sở hữu công nghiệp. Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, khoa học, giao thông vận tải, sản xuất và truyền thông đã đưa sản phẩm/dịch vụ của một quốc gia vượt ra ngoài biên giới của nước đó. Giao dịch thương mại quốc tế dẫn đến nhu cầu bảo hộ nhãn hiệu ở nước ngoài ngày càng được các nhà sản xuất/các nhà cung cấp dịch -8-
- vụ quan tâm để tránh nạn hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng. Điều này tạo ra sự cần thiết của việc bảo vệ hộ hữu trí tuệ trên toàn cầu. Các nhà sản xuất nước ngoài thờ ơ với việc đưa sản phẩm của mình tham gia các triển lãm quốc tế tổ chức vào các năm 1855 và 1867 ở Paris vì không đủ công cụ và cơ sở pháp lý để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của mình ở nước ngoài. Năm 1873, Chính phủ Áo đã thông qua quy định tạm thời để bảo hộ nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp và sáng chế cho các nhà sản xuất nước ngoài để tạo điều kiện cho họ có thể tham gia vào các cuộc triển lãm. Và điều này, có lẽ là, sáng kiến đầu tiên cho hệ thống đăng ký quốc tế. Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là một trong những điều ước quốc tế đầu tiên về sở hữu trí tuệ, được ký tại Pari (Pháp) vào 20/3/1883. Khởi đầu, công ước được ký bởi 11 quốc gia. Sau đó, công ước được sửa đổi vào các năm 1900, 1911, 1925, 1934, 1958, 1967 và 1979. Tính đến nay, Công ước Pari đã có 173 quốc gia thành viên với sự gia nhập gần đây nhất là Thái Lan (2/8/2008), Việt Nam gia nhập công ước này ngày 8/3/1949. Xuất phát từ chức năng và vai trò của nhãn hiệu của hàng hoá/dịch vụ trên thị trường, có thể đưa ra định nghĩa về nhãn hiệu như sau: "Nhãn hiệu là bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng hoá hoặcdịch vụ của doanh nghiệp này với hàng hoá hoặcdịch vụ của đối thủ cạnh tranh". Đây là cách tiếp cận được lựa chọn tại Mục 1(1)a của Luật Mẫu WIPO về Nhãn hiệu, Tên thương mại và Cạnh tranh không lành mạnh cho các nước phát triển năm 1967 (“Luật Mẫu”) và được sử dụng thống nhất trong các điều ước quốc tế như Thoả ước Mađrit và Nghị định thư Mađrit về đăng ký quốc tế Nhãn hiệu, Thoả ước Nice về phân loại hàng hoá và dịch vụ nhằm mục đích đăng ký Nhãn hiệu, Hiệp định về các khía cạnh thương mại liên quan tới sở hữu trí tuệ (gọi tắt là Hiệp định TRIPS. Điều 15, đoạn 1 của Hiệp định này quy định “Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng -9-
- hoá hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác, đều có thể làm nhãn hiệu”). Để hoàn thành được chức năng phân biệt hàng hoá/dịch vụ với mục đích cho người tiêu thực hiện được sự lựa chọn của mình giữa hàng hóa khác nhau, dịch vụ cùng loại trên thị trường, nhãn hiệu phải được bảo vệ về mặt pháp lý. Nếu không, đối thủ cạnh tranh có thể sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự cho cùng một hàng hoá, dịch vụ hoặc các dấu hiệu như vậy tương tự mà người tiêu dùng sẽ bị nhầm lẫn là nguồn gốc của họ. Một người tiêu dùng khi đã mua nhầm hàng hoá/dịch vụ giả mạo thường không nhận ra rằng các sản phẩm mà họ đã mua không phải có nguồn gốc như đã được chỉ dẫn bởi nhãn hiệu và có thể có xu hướng quy kết chủ sở hữu của nhãn hiệu chính hãng phải chịu trách nhiệm nếu hàng hoá/dịch vụ không đáp ứng các tiêu chuẩn mà người tiêu dùng đã biết tới đối với hàng hoá/dịch vụ đó. Tuy nhiên, ngay cả khi người tiêu dùng nhận ra được rằng ông đã bị mua nhầm sản phẩm/dịch vụ giả mạo hoặc một sản phẩm/dịch vụ khác do chỉ dẫn từ một nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn được sử dụng cho các sản phẩm dự kiến mua, người đó cũng khó có thể có hành động chống lại nhà sản xuất/cung cấp dịch vụ đã xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu chính hãng. Do đó, điều tất yếu là: chủ sở hữu của một nhãn hiệu được bảo hộ phải có quyền ngăn chặn đối thủ cạnh tranh không được sử dụng nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn cho hàng hoá/dịch vụ trùng lặp hoặc tương tự. Đây chính là “độc quyền” của chủ sở hữu của nhãn hiệu được công nhận rộng rãi trên toàn thế giới, trong luật pháp của từng quốc gia và các điều ước quốc tế, đặc biệt phải nhắc tới là Điều 16 Hiệp định TRIPS “Chủ sở hữu nhãn hiệu đã đăng ký phải có độc quyền ngăn cấm những người không được phép của mình sử dụng trong hoạt động thương mại các dấu hiệu trùng hoặc tương tự cho hàng hoá hoặc dịch vụ trùng hoặc tương tự với những hàng hoá hoặc dịch vụ được -10-
- đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng như vậy có nguy cơ gây nhầm lẫn. Việc sử dụng cùng một dấu hiệu cho cùng một loại hàng hoá hoặc dịch vụ phải bị coi là có nguy cơ gây nhầm lẫn”. Dưới đây là một số ví dụ về hàng hoá giả mạo và/hoặc hàng hoá nhái nhãn hiệu với sự so sánh của hàng hoá chính hãng: Hình 1.3 - Sản phẩm túi thời trang mang Hình 1.4 - Sản phẩm xà phòng giả/nhái Nhãn hiệu Louis Vuiton Nhãn hiệu OMO Việc quan trọng mà các doanh nghiệp cần phải làm để tránh lãng phí tiền bạc, thời gian và giảm thiểu rủi ro là đăng ký nhãn hiệu sớm để đạt được sự bảo hộ về mặt pháp lý và tránh khỏi những kẻ “ngồi mát ăn bát vàng” từ nhãn hiệu của mình. Một nhãn hiệu có thể được bảo hộ trên cơ sở việc sử dụng hoặc đăng ký. Hai cách tiếp cận này đã có từ xưa, nhưng ngày nay các hệ thống bảo hộ nhãn hiệu thường kết hợp cả hai cách này. Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp 1883 yêu cầu các nước thành viên có nghĩa vụ phải thiết lập hệ thống đăng ký nhãn hiệu. Gần như tất cả các quốc gia đều quy định về việc đăng ký nhãn hiệu và việc bảo hộ nhãn hiệu một cách đầy đủ chỉ được bảo đảm thích đáng thông qua việc đăng ký với nguyên tắc “first-to-file”. Việc sử dụng vẫn giữ vai trò quan trọng, trước hết tại các quốc gia (trong đó có Hoa Kỳ) mà việc bảo hộ nhãn hiệu có truyền thống căn cứ vào việc sử dụng, còn việc đăng ký nhãn hiệu chỉ nhằm khẳng định quyền đối với nhãn hiệu đã có được thông qua sử dụng với nguyên tắc “first-to-use”, -11-
- theo đó người sử dụng đầu tiên nhãn hiệu, chứ không phải người đầu tiên đăng ký nhãn hiệu, sẽ được ưu tiên trong các vụ tranh chấp về nhãn hiệu. Công ty Bass [72] - một nhà sản xuất bia của Anh đã yêu cầu công nhận nhãn hiệu “Tam giác đỏ và hình” là nhãn hiệu đầu tiên trên thế giới. Họ bắt đầu tuyên bố sử dụng nhãn hiệu này từ năm 1600. Nhãn hiệu “Tam giác đỏ & Logo” là nhãn hiệu đầu tiên được đăng ký theo Luật Đăng ký Nhãn hiệu của Anh năm 1875 với số đăng ký đầu tiên “No.1” [71]. Đạo luật đăng ký nhãn hiệu của Anh năm 1875 có hiệu lực vào ngày 1/1/1876 và đêm trước năm mới, một nhân viên của công ty Bass đã chờ đợi qua đêm, bên ngoài cơ quan sở Hình 1.5 – Nhãn hiệu “Bass, Tam giác đỏ của hữu trí tuệ để là người đầu tiên đăng ký nhãn Công ty Bass hiệu trong sáng hôm sau. Và trên thực tế, công ty Bass đã được cấp hai bằng đăng ký nhãn hiệu đầu tiên: bằng thứ nhất là nhãn hiệu “Tam giác đỏ Bass” [71] cho sản phẩm bia hơi và bằng thứ hai là nhãn hiệu “Hình thoi đỏ Bass” [71]. cho sản phẩm bia đắng & rượu. Ở Hoa Kỳ, luật Nhãn hiệu liên bang được thông qua năm 1870 và “Eagle logo” của hãng sơn Averill trở thành nhãn hiệu được đăng ký đầu tiên. Còn nhiều câu chuyện khác về các nhãn hiệu cổ nhất của thế giới [67], chẳng hạn như nhãn hiệu “EAGLE” của hãng NESTLE được cấp năm 1874 cho sản phẩm sữa đặc là nhãn hiệu đầu tiên được đăng ký tại Hồng Kông (hiện nay, nhãn hiệu này vẫn còn đang được sử dụng); nhãn hiệu “Cây thông” được cấp năm 1905 tại Ôxtrâylia cho sản phẩm hoá chất của hãng Pisons Plc.; nhãn hiệu “Longines & logo” được đăng ký cho sản phẩm đồng hồ năm 1889 tại Thuỵ sỹ và sau đó tại Văn phòng quốc tế của WIPO năm 1993 theo Thoả ước Mađrit, v.v. -12-
- Quyền sở hữu đối với nhãn hiệu đã mang đến cho chủ sở hữu những lợi ích đáng kể, thậm chí trở thành tài sản vô hình có giá trị vô cùng lớn. Chủ sở hữu nhãn hiệu có độc quyền sử dụng nhãn hiệu. Quyền này chủ yếu bao gồm: quyền sử dụng nhãn hiệu và quyền ngăn cấm người khác sử dụng nhãn hiệu. Quyền sử dụng nhãn hiệu là quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu gắn nhãn hiệu đó lên hàng hoá/dịch vụ hay sử dụng nhãn hiệu bằng bất kỳ cách thức nào khác liên quan tới hàng hoá/dịch vụ mà nhãn hiệu đã đăng ký. Quyền này còn bao gồm cả quyền quảng bá hàng hoá/dịch vụ mang nhãn hiệu trên thị trường, quyền sử dụng nhãn hiệu trong quảng cáo, trên giấy tờ kinh doanh, trên tài liệu giao dịch... Quyền ngăn cấm người khác sử dụng nhãn hiệu là quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu phản đối bất kỳ bên thứ ba nào sử dụng nhãn hiệu của mình cho các hàng hoá/dịch vụ đã được bảo hộ, phản đối việc gắn nhãn hiệu trùng hoặc nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn tên những hàng hoá tương tự... Đây là bản chất của độc quyền mà chủ sở hữu nhãn hiệu có được thông qua việc đăng ký nhãn hiệu. Tuy nhiên, độc quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu chịu một số các giới hạn: thời gian và không gian. Về mặt thời gian, thông thường, nhãn hiệu đã đăng ký có hiệu lực trong vòng 10 năm (hoặc 20 năm) tuỳ theo quy định pháp luật của quốc gia, khu vực hay pháp luật quốc tế và có thể được gia hạn nhiều lần. Sự độc quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu chỉ được thực hiện trong thời gian hiệu lực của nhãn hiệu đã đăng ký. Về mặt không gian, nhãn hiệu đăng ký tại quốc gia và/hoặc vùng lãnh thổ nào sẽ chỉ được bảo hộ ở quốc gia và/hoặc vùng lãnh thổ đó. Có hai ngoại lệ của nguyên tắc lãnh thổ, đó là: (i) Nhãn hiệu Benelux đăng ký tại Cơ quan Sở hữu trí tuệ Benelux có trụ sở ở Hà Lan hoặc có hiệu lực tại 3 quốc gia (Bỉ, Hà Lan và Luc-xăm-bua) thuộc hệ thống Benelux; và (ii) Nhãn hiệu Cộng đồng – gọi tắt là CTM - đăng ký tại Văn phòng hài hoà thị trường nội địa - gọi tắt là OHIM ở Tây Ban Nha có -13-
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 99 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 65 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn